Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thất Giác Chi »»
(覺道): có hai nghĩa chính. (1) Chỉ con đường chánh giác, giác ngộ, chứng thành Phật quả, đồng nghĩa với đạo Bồ Đề. Như trong Bảo Tinh Đà La Ni Kinh (寶星陀羅尼經, Taishō Vol. 13, No. 402) có câu: “Như Lai sơ chứng giác đạo, độ Mục Liên thân tử, cập hàng phục ma vương, hộ trì quốc độ (如來初證覺道、度目連身子、及降伏魔王、護持國土, đức Như Lai lúc mới chứng đạo Bồ Đề, độ mẹ con Mục Liên, cùng hàng phục ma vương, hộ trì đất nước).” Hay trong Phạm Võng Kinh Trực Giải (梵網經直解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 38, No. 697) quyển Hạ giải thích rằng: “Bồ Đề, Hoa ngôn giác đạo, diệc danh đạo thọ; phàm nhất thiết chư Phật, giai tại thử thọ hạ thị thành vô thượng giác đạo cố dã (菩提、華言覺道、亦名道樹、凡一切諸佛、皆在此樹下示成無上覺道故也, Bồ Đề, Tàu gọi là con đường giác ngộ, còn gọi là đạo thọ; vì phàm hết thảy chư Phật, đều dưới cây này thị hiện thành đạo giác ngộ vô thượng vậy).” (2) Từ gọi chung của Thất Giác Chi (s: saptapodhyaṅgāni, p: satta-pojjharigā, 七覺支) và Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, āryāṣṭāṇgika-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道).
(s: sāsava, p: sāsrava, 有漏): đối nghĩa với Vô Lậu (s: anāsrava, 無漏). Lậu (s: āsrava, 漏) nghĩa là chảy mất, rỉ rỏ ra, là tên gọi khác của phiền não (s: kleśa, p: kilesa, 煩惱). Con người do vì sai lầm, khổ quả vốn sanh ra từ phiền não, khiến cho họ cử trôi lăn mãi trong thế giới mê lầm, không bao giờ dừng nghỉ, khó có thể thoát ra biển sanh tử; nên goi là Hữu Lậu. Nếu đạt đến cảnh giới đoạn diệt phiền não, được gọi là Vô Lậu. Trong Tứ Thánh Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-arya-sacca, 四聖諦), Khổ Đế và Tập Đế thuộc về nhân và quả của mê lầm, là pháp Hữu Lậu; Diệt Đế và Đạo Đế là nhân và quả của giác ngộ, thuộc về pháp Vô Lậu. Các pháp Hữu Lậu cũng như Vô Lậu vốn ở trong nhân, quả tu hành, có vị trí vô cùng quan trọng. Có nhiều tên gọi khác về Hữu Lậu, A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 1 có nêu lên một số như Thủ Uẩn (取蘊), Hữu Tránh (有諍), Khổ (苦), Tập (集), Thế Gian (世間), Kiến Xứ (見處), Tam Hữu (三有), v.v. Ngoài ra, còn có các danh xưng khác như Hữu Nhiễm (有染), Hữu Nhiễm Ô (有染污), Hữu Phú (有覆), Trần Cấu (塵垢), v.v. Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (另據大乘阿毘達磨雜集論, Taishō Vol. 31, No. 1606) quyển 3 nêu ra 6 loại Hữu Lậu, gồm: Lậu Tự Tánh (漏自性), Lậu Tướng Thuộc (漏相屬), Lậu Sở Phược (漏所縛), Lậu Sở Tùy (漏所隨), Lậu Tùy Thuận (漏隨順), Lậu Chủng Loại (漏種類). Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō Vol. 2, No. 125) có đoạn: “Tư duy Thất Giác Ý thời, Hữu Lậu tâm tận, tiện đắc giải thoát, hậu thành vô thượng chánh chân chi đạo (思惟七覺意時、有漏心盡、便得解脫、後成無上正眞之道, khi tư duy về Thất Giác Chi, tâm Hữu Lậu diệt tận, bèn được giải thoát, sau chứng được đạo vô thượng chánh chân).” Hay trong Du Già Sư Địa Luận Thích (瑜伽師地論釋, Taishō Vol. 30, No. 1580) lại có đoạn: “Khởi chư phiền não, phát Hữu Lậu nghiệp, luân hồi Ngũ Thú, thọ tam đại khổ (起諸煩惱、發有漏業、輪迴五趣、受三大苦, khởi các phiền não, sinh nghiệp Hữu Lậu, luân hồi Năm Đường, chịu ba khổ lớn).”
(七重行樹): bảy lớp hàng cây, từ xuất hiện trong A Di Đà Kinh (阿彌陀經). Con số 7 ở đây chỉ cho các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới và ở giữa; thể hiện ý nghĩa viên mãn. Theo Đại Sư Ngẫu Ích Trí Húc (蕅益智旭, 1599-1655) nhà Minh giải thích trong A Di Đà Kinh Yếu Giải (阿彌陀經要解, 1 quyển, Taishō No. 1762), là “Thất trùng biểu thất khoa đạo phẩm (七重表七科道品, bảy lớp biểu thị cho bảy khoa đạo phẩm).” Như vậy, Thất Khoa Đạo Phẩm ở đây là 37 Phẩm Trợ Đạo, gồm:
(1) Tứ Niệm Xứ (s: catvāri smṛti-upasthānāni, p: cattāro sati-patṭḥānāni, 四念處), tức Thân Niệm Xứ (s: kāya-smṛty-upasthāna, p: kayekāyānupassi viharati atāpi sampajāno satimā, 身念處), quán thân thể là bất tịnh; Thọ Niệm Xứ (s: vedanā-smṛty-upasthāna, p: vedanāsu vedanānupassi viharati ātāpi sampajāno satimā, 受念處), quán sự thích ghét của các tác dụng thọ cảm, hết thảy đều là khổ; Tâm Niệm Xứ (s: citta-smṛty-upasthāna, p: citte cittānupassi viharati ātāpi sampajāno satimā, 心念處), quán tâm là sinh diệt, vô thường; Pháp Niệm Xứ (s: dharma-smṛty-upasthāna, p: dhammesu dhammānupassi viharati ātāpi sampajāno satimā, 法念處), quán hết thảy các pháp là vô ngã.
(2) Tứ Chánh Cần (s: catvāri prahāṇāni, p: cattāri sammappadhānāni, 四正勤), tức siêng năng tinh tấn đoạn trừ các điều ác đã sanh; siêng năng tinh tấn làm cho không sanh khởi các điều ác chưa sanh; siêng năng tinh tấn làm cho sanh khởi các điều thiện chưa sanh; siêng năng tinh tấn làm cho tăng trưởng các điều thiện đã sanh.
(3) Tứ Như Ý Túc (s: catur-ṛddhipāda, p: catu-iddhipāda, 四如意足), tức Dục Như Ý Túc, Tinh Tấn Như Ý Túc, Tâm Như Ý Túc, Tư Duy Như Ý Túc.
(4) Ngũ Căn (s: pañcendriyāni, 五根), tức Tín Căn (s: śradhendriya, 信根), niềm tin vào Tam Bảo, đạo lý Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦), v.v.; Tấn Căn (s: vīryendriya, 進根), hay còn gọi là Tinh Tấn Căn, siêng năng dũng mãnh tu các pháp lành; Niệm Căn (s: smṛtīndriya, 念根), nghĩ nhớ đến các pháp đúng; Định Căn (s: samādhīndriya, 定根), năng lực khiến cho tâm dừng lại một chỗ, không bị tán loạn; Tuệ Căn (s: prajñendriya, 慧根), nhờ có định mà trí tuệ quán xét sanh khởi, cho nên biết được như thật chân lý.
(5) Ngũ Lực (s: pañca-bala, 五力), tức Tín Lực (s: raddhā-bala, 信力), năng lực tin tưởng; Tinh Tấn Lực (s: vīrya-bala, 精進力), năng lực cố gắng tinh tấn; Niệm Lực (s: smṛti-bala, 念力), năng lực bảo trì; Định Lực (s: samādhi-bala, 定力), năng lực chú tâm tập trung vào Thiền định; Tuệ Lực (s: prajñā-bala, 慧力), năng lực chọn lọc trí tuệ.
(6) Thất Giác Chi (s: saptapodhyaṅgāni, p: satta-pojjharigā, 七覺支), tức Trạch Pháp Giác Chi (s: dharma-pravicaya-sambodhyaṅga, 擇法覺支), nghĩa là chọn lựa sự đúng sai của pháp, lấy cái đúng và bỏ đi cái sai; Tinh Tấn Giác Chi (s: virya-sambodhyaṅga, 精進覺支), là chọn lựa pháp đúng đắn và tinh tấn chuyên tâm tu tập pháp ấy; Hỷ Giác Chi (s: srīti-sambodhyaṅga, 喜覺支), an trú trong pháp vui đúng đắn; Khinh An Giác Chi (s: prasrabdhi-sambodhyaṅga, 輕安覺支), là đoạn trước tà ác đạt được sự nhẹ nhàng an lạc của thân tâm và tăng trưởng thiện căn; Xả Giác Chi (s: supeksā-sambodhyaṅga, 捨覺支), là xả bỏ đi tâm phan duyên với ngoại cảnh và quay trở về sống bình an.
(7) Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, āryāṣṭāṇgika-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道), tức Chánh Kiến (s: samyag-dṛṣṭi, p: sammā-diṭṭhi, 正見); Chánh Tư Duy (s: samyak-saṃkalpa, p: sammā-saṅkappa, 正思惟); Chánh Ngữ (s: samyag-vāc, p: sammā-vācā, 正語); Chánh Nghiệp (s: samyakkarmanta, p: sammā-kammanta, 正業); Chánh Mạng (s: samyag-ājīva, p: sammā-ājīva, 正命); Chánh Tinh Tấn (s: samyag-vyāyāma, p: sammā-vāyāma, 正精進); Chánh Niệm (s: samyak-smṛti, p: sammā-sati, 正念); Chánh Định (s: samyak-samādhi, p: sammā-samādhi, 正定).
Cho nên thất trùng hàng thọ còn có nghĩa là bảy lớp chồng chất các pháp môn tu tập giải thoát, nhờ vậy hành giả mới có thể an nhiên, tự tại.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập