Sự giúp đỡ tốt nhất bạn có thể mang đến cho người khác là nâng đỡ tinh thần của họ. (The best kind of help you can give another person is to uplift their spirit.)Rubyanne
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Sự thành công thật đơn giản. Hãy thực hiện những điều đúng đắn theo phương cách đúng đắn và vào đúng thời điểm thích hợp. (Success is simple. Do what's right, the right way, at the right time.)Arnold H. Glasow
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thất chúng »»
(頂相): trên đỉnh đầu của đức Phật có nhục kế (s: uṣṇīṣa, 肉髻, khối u bằng thịt như búi tóc), hết thảy trời người đều không thể thấy được, nên có tên là vô kiến đảnh tướng (無見頂相); một trong 32 tướng tốt. Như trong Đại Pháp Cự Đà La Ni Kinh (大法炬陀羅尼經, Taishō Vol. 21, No. 1340) quyển 4, Phẩm Tướng Hảo (相好品), giải thích rằng: “Như Lai đảnh tướng, nhục kế viên mãn, nhất thiết nhân thiên sở bất năng kiến (如來頂相、肉髻圓滿、一切人天所不能見, đảnh tướng của Như Lai, nhục kế tròn đầy, tất cả trời người không thể thấy được).” Trong Thủy Kinh Chú (水經注), phần Hà Thủy (河水) 2, có đoạn: “Tháp tích, Phật nha, Ca Sa, đảnh tướng Xá Lợi, tất tại Phất Lâu Sa quốc (塔跡、佛牙、袈裟、頂相舍利、悉在弗樓沙國, di tích tháp, răng Phật, y Ca Sa, Xá Lợi của đảnh tướng, đều ở tại nước Phất Lâu Sa [Purusapura, hiện tại ở phái Tây Bắc Peshawar]).” Hay trong Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa (法華經通義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 31, No. 611) lại có đoạn rằng: “Phật hữu cửu thập thất chủng đại nhân tướng, nhục kế đảnh tướng vi đệ nhất, thị vi vô kiến đảnh tướng, tùng thử phóng quang (佛有九十七種大人相、肉髻頂相爲第一、是爲無見頂相、從此放光, đức Phật có 97 loại tướng của đại nhân, đảnh tướng nhục kế là số một, đó là vô kiến đảnh tướng, từ đây phóng ra ánh sáng).” Ngoài ra, các Thiền gia gọi tiêu tượng bán thân, hay tượng toàn thân của Tổ sư ngồi trên ghế dựa Khúc Lục (曲彔), là đảnh tướng, tôn kính như vô kiến đảnh tướng của đức Như Lai. Sự lưu hành hình vẽ đảnh tướng khởi đầu từ Trung Quốc, nhưng thịnh hành nhất dưới hai thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) và Thất Đinh (室町, Muromachi) của Nhật Bản. Vẽ mặt nhân vật phần nhiều là bút pháp tả thật, ở giữa có bài từ tự nhân vật được vẽ làm ra. Đây được xem như là tín vật phú pháp, truyền cho đệ tử đắc pháp. Như trong Gia Thái Phổ Đăng Lục (嘉泰普燈錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 79, No. 1559) quyển 29 có bài Đề Vĩnh Minh Trí Giác Thọ Thiền Sư Đảnh Tướng (題永明智覺壽禪師頂相) của Trường Lô Tổ Chiếu Hòa Thiền Sư (長蘆祖照和禪師), rằng: “Tuệ nhật phong cao thu sắc lãnh, Tiền Đường giang tĩnh nguyệt hoa minh, hàn quang nhất thước châu sa giới, bút hạ khan lai vị thập thành (慧日峰高秋色冷、錢塘江靜月華明、寒光一爍周沙界、筆下看來未十成, trời tuệ đỉnh cao thu sắc lạnh, Tiền Đường sông lặng trăng sáng trong, hào quang tỏ rực khắp muôn cõi, dưới bút xem ra chữa vẹn toàn).”
(戒壇): là đàn tràng dùng để cử hành nghi thức truyền thọ giới pháp cũng như thuyết giới. Nguyên lai, Giới Đàn không cần phải xây dựng nhà cửa gì cả, tùy theo chỗ đất trống kết giới mà thành. Xưa kia, thời cổ đại Ấn Độ tác pháp ngoài trời, không cần phải làm đàn. Về việc Giới Đàn được kiến lập đầu tiên, Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Thượng, có ghi lại rằng Bồ Tát Lâu Chí (樓至) thỉnh ý đức Phật xin thiết lập Giới Đàn cho chư vị Tỳ Kheo thọ giới và được Ngài hoan hỷ chấp thuận: “Tây Thiên Kỳ Viên, Tỳ Kheo Lâu Chí thỉnh Phật lập đàn, vi Tỳ Kheo thọ giới Như Lai ư viên ngoại viện Đông Nam, trí nhất đàn, thử vi thỉ dã (西天祇園、比丘樓至請佛立壇、爲比丘受戒、如來於園外院東南、置一壇、此爲始也, Kỳ Viên ở Tây Thiên [Ấn Độ], Tỳ Kheo Lâu Chí xin Phật thiết lập Giới Đàn để truyền thọ giới cho Tỳ Kheo; đức Như Lai thiết lập một đàn ở phía Đông Nam ngoài Kỳ Viên; đây là khởi đầu).” Tại Trung Quốc, tương truyền Giới Đàn đầu tiên do Đàm Kha Ca La (s: Dharmakāla, 曇柯迦羅) kiến lập trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Bình (嘉平, 249-254), Chánh Nguyên (正元, 254-256) nhà Tào Ngụy. Từ thời nhà Tấn, Tống trở đi, ở phương Nam kiến lập Giới Đàn rất nhiều. Như Pháp Hộ (法護) nhà Đông Tấn lập đàn ở Ngõa Quan Tự (瓦官寺), Dương Đô (揚都, Nam Kinh [南京]). Chi Đạo Lâm (支道林, 314-366) cũng thiết lập ở Thạch Thành (石城, Lê Thành [黎城], Sơn Tây [山西]), Phần Châu (汾州, Tân Xương [新昌], Triết Giang [浙江]) mỗi nơi một đàn. Chi Pháp Tồn (支法存, ?-457) lập đàn ở Nhã Da (若耶, Thiệu Hưng [紹興], Triết Giang). Trí Nghiêm (智嚴) nhà Nam Tống lập đàn ở Thượng Định Lâm Tự (上定林寺, Nam Kinh). Huệ Quán (慧觀) lập đàn ở Thạch Lương Tự (石梁寺, Thiên Thai Sơn [天台山]). Cầu Na Bạt Ma (s: Guṇavarman, 求那跋摩, 367-431) lập đàn ở Nam Lâm Tự (南林寺). Tăng Phu (僧敷, ?-?) của nhà Nam Tề lập đàn ở Vu Hồ (蕪湖). Pháp Siêu (法超) của nhà Lương thời Nam Triều lập đàn ở Nam Giản (南澗, Nam Kinh). Tăng Hựu (僧祐, 445-518) thiết lập tại Nam Kinh 4 chùa Vân Cư (雲居), Thê Hà (棲霞), Quy Thiện (歸善) và Ái Kính (愛敬) mỗi nơi một đàn. Tổng cọng hơn 300 Giới Đàn. Đến thời nhà Đường, vào năm thứ 2 (667) niên hiệu Càn Phong (乾封), Luật Sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) kiến lập Giới Đàn tại Tịnh Nghiệp Tự (淨業寺) ở ngoại ô Trường An (長安). Bắt đầu từ thời này, Giới Đàn đã hình thành quy thức nhất định. Về sau, chư cao tăng khác như Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713), Nhất Hành (一行, 683-727), Kim Cang Trí (金剛智, 671-741), v.v., từng kiến lập Giới Đàn ở vùng phụ cận Lạc Dương (洛陽). Vào năm đầu (765) niên hiệu Vĩnh Thái (永泰), vua Đại Tông (代宗, tại vị 762-779) ban sắc lệnh kiến lập Phương Đẳng Giới Đàn (方等戒壇, tức Đại Thừa Giới Đàn) ở Đại Hưng Thiện Tự (大興善寺); rồi cho đặt 10 vị Lâm Đàn Đại Đức (臨壇大德) trong giáo đoàn Tăng Ni ở Kinh Thành; tức sau này là Tam Sư Thất Chứng (三師七證). Về phía Nhật Bản, Giới Đàn đầu tiên do Giám Chơn (鑑眞, Ganjin, 688-763) kiến lập ở phía trước Chánh Điện Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) vào năm 749 (Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寶] thứ 6). Đến tháng 4 năm này, Giám Chơn đã truyền giới cho Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749) cùng với 430 người khác. Sau đó, Giới Đàn Viện (戒壇院) được kiến lập ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji); và hai Giới Đàn khác ở Quan Thế Âm Tự (觀世音寺, Kanzeon-ji), vùng Trúc Tử (筑紫, Chikushi) và Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) thuộc tiểu quốc Hạ Dã (下野, Shimotsuke). Trong (Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành) Thích Giáo Bộ Vị Khảo ([古今圖書集成]釋敎部彙考, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1521) quyển 2 có câu: “Trường Khánh tứ niên, Kính Tông tức vị, Từ Tứ Vương Trí Hưng, thỉnh trí Tăng Ni Giới Đàn (長慶四年、敬宗卽位、徐泗王智興、請置僧尼戒壇, niên hiệu Trường Khánh thứ 4 [824], vua Kính Tông nhà Đường lên ngôi, Từ Tứ Vương Trí Hưng, xin thiết trí Giới Đàn Tăng Ni).” Hay trong Chung Nam Gia Nghiệp (終南家業, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1109) quyển Trung có đoạn rằng: “Chí Nguyên Hỷ thập niên, hữu Tăng Già Bạt Ma, ư Dương Đô Nam Lâm Giới Đàn, vi Tăng Huệ Chiếu đẳng ngũ thập nhân, Ni Huệ Quả đẳng tam thập tam nhân, trùng thọ cụ giới (至元喜十年、有僧伽拔摩、於揚都南林戒壇、爲僧慧照等五十人、尼慧果等三十三人、重受具戒, cho đến niên hiệu Nguyên Hỷ thứ 10, tại Giới Đàn Chùa Nam Lâm ở Dương Đô, có Tăng Già Bạt Ma vì nhóm Tăng Huệ Chiếu 50 người, nhóm Ni Huệ Quả 33 người, thọ giới Cụ Túc lại).”
(伏屍・伏尸): thây chết nằm trên mặt đất, như trong Chiến Quốc Sách (戰國策), phần Ngụy Sách (魏策) thứ 4 có câu: “Nhược sĩ tất nỗ, phục thi nhị nhân, lưu huyết ngũ bộ (若士必怒、伏屍二人、流血五步, nếu là kẻ sĩ tất uy thế, xác chết hai người, máu chảy dài năm bước).” Hay trong Văn Tuyển (文選), phần Cổ Nghi (賈誼), Quá Tần Luận (過秦論) lại có câu: “Truy vong trục bắc, phục thi bách vạn, lưu huyết phiêu lỗ (追亡逐北、伏尸百萬、流血漂櫓, đuổi giặc về phướng bắc, thấy chết cả trăm vạn, máu chảy đầy khắp).” Hoặc trong Thái Bình Quảng Ký (太平廣記) quyển 317 có đoạn: “Trung hữu phục thi, Trúc dạ văn kỳ khấp thanh, hốt kiến nhất phụ nhân, đản bối nhi lai (中有伏尸、竺夜聞其泣聲、忽見一婦人、袒背而來, bên trong có thấy chết; ban đêm Trúc nghe tiếng khóc của thây ma đó, lại chợt thấy một phụ nữ, mặc áo để lộ vai đi đến).” Trong Phật Thuyết Địa Tạng Bồ Tát Phát Tâm Nhân Duyên Thập Vương Kinh (佛說地藏菩薩發心因緣十王經, CBETA No. 20) cũng có đoạn như sau: “Như kim chúng sanh, y ngã tu thiện, linh đắc Phật đạo; nhất thiết chúng sanh, diệc phục như thị, thất chủng phách thức; nhất danh Tước Âm Phách Thần Thức, nhị danh Thiên Tặc Phách Thần Thức, tam danh Phi Độc Phách Thần Thức, tứ danh Thi Cấu Phách Thần Thức, ngũ danh Xú Phế Phách Thần Thức, lục danh Trừ Uế Phách Thần Thức, thất danh Phục Thi Phách Thần Thức (如今眾生、依我修善、令得佛道、一切眾生、亦復如是、七種魄識、一名雀陰魄神識、二名天賊魄神識、三名非毒魄神識、四名尸垢魄神識、五名臭肺魄神識、六名除穢魄神識、七名伏尸魄神識, như nay chúng sanh, theo ta tu thiện, khiến được Phật đạo; hết thảy chúng sanh, cũng lại như vậy, bảy loại phách thức; một là Tước Âm Phách Thần Thức, hai là Thiên Tặc Phách Thần Thức, ba là Phi Độc Phách Thần Thức, bốn là Thi Cấu Phách Thần Thức, năm là Xú Phế Phách Thần Thức, sáu là Trừ Uế Phách Thần Thức, bảy là Phục Thi Phách Thần Thức).”
(三壇): tức Tam Đàn Đại Giới (三壇大戒), là nghi thức thọ giới đặc biệt, phân thành 3 giai đoạn là Sơ Đàn Chánh Thọ (初壇正授), Nhị Đàn Chánh Thọ (二壇正授) và Tam Đàn Chánh Thọ (三壇正授). Đàn đầu tiên thọ giới Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerā, sāmaṇerī, 沙彌尼); đàn thứ hai thọ giới Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘) và Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼); đàn thứ ba thọ giới Bồ Tát (s: bodhisattva, p: bodhisatta, 菩薩). Như trong Truyền Giới Chánh Phạm (傳戒正範, CBETA No. 1128) có câu: “Tam Đàn quỹ tắc, cự tế hữu điều, Thất chúng khoa nghi, tinh tường bất vặn (三壇軌則、巨細有條、七眾科儀、精詳不紊, Ba Đàn nguyên tắc, lớn nhỏ có điều, Bảy Chúng khoa nghi, rõ ràng không rối).”
(祖印): Pháp ấn của Tổ sư, tức là những ấn tượng đáng nhớ, hành trạng, giáo thuyết cũng như Tông phong của chư vị Tổ sư lúc sinh tiền lưu lại cho hậu thế noi theo. Vì thế, trong Thiền môn thường dùng câu Tổ ấn trùng quang (祖印重光, pháp ấn của chư Tổ vẫn sáng tỏ mãi). Câu này thường được treo ở Nhà Tổ. Như trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 4 có câu: “Phục nguyện, Luật phong vĩnh chấn, Tổ ấn trùng quang, giới hương phân phức ư Cửu Châu, pháp vũ triêm nhu ư Thất chúng (伏願、律風永振、祖印重光、戒香芬馥於九州、法雨沾濡於七眾, cúi mong Luật phong mãi chấn chỉnh, Tổ ấn luôn sáng ngời, hương giới thơm phức khắp Chín Châu, mưa pháp rưới nhuần nơi Bảy Chúng).” Hay trong Vô Chuẩn Hòa Thượng Tấu Đối Ngữ Lục (無準和尚奏對語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1383) có đoạn: “Phục nguyện, Phật chủng bất đoạn, thế thế kiến quang minh tràng, Tổ ấn thân truyền, nhân nhân khai vô tận tạng (伏願、佛種不斷、世世建光明幢、祖印親傳、人人開無盡藏, cúi mong giống Phật chẳng dứt, đời đời dựng cờ sáng tỏ, Tổ ấn truyền thừa, người người mở kho vô tận).”
(祖印): Pháp ấn của Tổ sư, tức là những ấn tượng đáng nhớ, hành trạng, giáo thuyết cũng như Tông phong của chư vị Tổ sư lúc sinh tiền lưu lại cho hậu thế noi theo. Vì thế, trong Thiền môn thường dùng câu Tổ ấn trùng quang (祖印重光, pháp ấn của chư Tổ vẫn sáng tỏ mãi). Câu này thường được treo ở Nhà Tổ. Như trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 4 có câu: “Phục nguyện, Luật phong vĩnh chấn, Tổ ấn trùng quang, giới hương phân phức ư Cửu Châu, pháp vũ triêm nhu ư Thất chúng (伏願、律風永振、祖印重光、戒香芬馥於九州、法雨沾濡於七眾, cúi mong Luật phong mãi chấn chỉnh, Tổ ấn luôn sáng ngời, hương giới thơm phức khắp Chín Châu, mưa pháp rưới nhuần nơi Bảy Chúng).” Hay trong Vô Chuẩn Hòa Thượng Tấu Đối Ngữ Lục (無準和尚奏對語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1383) có đoạn: “Phục nguyện, Phật chủng bất đoạn, thế thế kiến quang minh tràng, Tổ ấn thân truyền, nhân nhân khai vô tận tạng (伏願、佛種不斷、世世建光明幢、祖印親傳、人人開無盡藏, cúi mong giống Phật chẳng dứt, đời đời dựng cờ sáng tỏ, Tổ ấn truyền thừa, người người mở kho vô tận).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập