Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thập Nhị Nhân Duyên »»
(安世高, Anseikō, khoảng giữa thế kỷ thứ 2): vị tăng dịch kinh thuộc thời kỳ đầu của Phật Giáo Trung Quốc, người nước An Tức (安息), tên Thanh (清), tự Thế Cao (世高), con của vị quốc vương trong vùng. Họ An của ông vốn xuất phát từ nơi ông sinh ra (nước An Tức). Lúc còn nhỏ ông rất nổi tiếng có hiếu với song thân, tánh chất thương người, học rộng hiểu sâu. Sau khi phụ thân qua đời, ông xả bỏ ngôi vị quốc vương, quy y cửa Phật, thâm hiểu kinh tạng và tinh thông A Tỳ Đàm cũng như Thiền. Vào năm thứ 2 (148) niên hiệu Kiến Hòa (建和) đời vua Hoàn Đế (桓帝) nhà Đông Hán, ông đi qua các nước Tây Vức, rồi đến Lạc Dương (洛陽), chuyên tâm vào việc phiên dịch kinh điển cho đến năm thứ 3 (170) niên hiệu Kiến Ninh (建寧) đời vua Linh Đế (靈帝), tổng cọng hơn 20 năm. Trong khoảng thời gian này, ông đã dịch được tất cả khoảng 34 bộ, 40 quyển (có thuyết cho là 35 bộ, 41 quyển) như An Ban Thủ Ý Kinh (安般守意經), Ấm Trì Nhập Kinh (陰持入經), A Tỳ Đàm Ngũ Pháp Tứ Đế (阿毘曇五法四諦), Thập Nhị Nhân Duyên (十二因緣), Chuyển Pháp Luân (轉法輪), Bát Chánh Đạo (八正道), Thiền Hành Pháp Tưởng (禪行法想), Tu Hành Đạo Địa Kinh (修行道地經), v.v. Kinh điển ông dịch có nghĩa lý rõ ràng, chữ nghĩa súc tích, chủ yếu truyền bá học thuyết A Tỳ Đàm (阿毘曇) của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ thuộc Phật Giáo Tiểu Thừa và lý luận Thiền định. Chính ông đã hình thành nên cơ sở cho việc lưu truyền Phật học vào thời kỳ đầu của Trung Quốc và là người đầu tiên đem Thiền quán vào nước này.
(呪): ngôn ngữ bí mật có năng lực linh ứng đặc biệt, không thể lấy ngôn ngữ bình thường để giải thích được, là câu văn bí mật dùng xướng tụng trong khi cầu nguyện, còn gọi là thần chú (神呪), mật chú (密呪), chơn ngôn (眞言). Nguyên lai từ chú (呪) là chúc (祝), là mật ngữ dùng tụng niệm hướng về chư vị thần linh cầu đảo, tuyên cáo khiến cho kẻ oán địch bị tai họa, hay mong muốn tiêu trừ ách nạn, cầu mong được lợi ích. Trong kinh Phệ Đà (吠陀) xưa của Ấn Độ đã có chú thuật rồi. Theo quyển 14 Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經) cho biết rằng đức Thích Tôn đã từng bài bác vấn đề chú thuật; tuy nhiên, quyển 9 của kinh này có đề cập việc đức Phật thuyết Chú Hộ Thân (s: parītta, p: paritta, parittā, còn gọi là Hộ Chú [護呪], Hộ Kinh [護經], Chú Văn [呪文]) trị rắn độc, cho nên chúng ta biết rõ rằng chú thuật đã được phổ biến ở Ấn Độ từ xa xưa và sau này Phật Giáo cũng có dùng đến. Các kinh điển thuộc giáo phái Đại Thừa Hiển Giáo như Bát Nhã (般若), Pháp Hoa (法華), Bảo Tích (寶積), Đại Tập (大集), Kim Quang Minh (金光明), Lăng Già (楞伽), v.v., đều có Phẩm Đà La Ni (陀羅尼品) nêu rõ những câu thần chú. Đặc biệt Mật Giáo rất chú trọng đến mật chú, cho rằng chú là biểu thị cho “pháp nhĩ thường nhiên (法爾常然, pháp vốn thường như vậy)”; cho nên nếu tụng đọc, quán tưởng mật chú, hành giả có thể được lợi ích thành Phật. Thần chú được thuyết trong các kinh điển thì nhiều vô cùng, tỷ dụ như Thủy Hỏa Chú (水火呪), An Trạch Phù Chú (安宅符呪), Sát Lợi Chú (刹利呪), v.v., trong A Ma Trú Kinh (阿摩晝經) thuộc quyển 13 hay Phạm Động Kinh (梵動經) trong quyển 14 của Trường A Hàm (長阿含). Trong Tứ Phần Luật (四分律) quyển 27, Thập Tụng Luật (十誦律) quyển 46, v.v., có các chú trị bệnh trùng trong ruột, chú hàng phục ngoại đạo, v.v. Hay một số chú khác như Bà La Môn Chú (婆羅門呪), Thủ Đà La Thần Chú (首陀羅神呪), Đại Phạm Thiên Vương Bà Tỳ La Chú (大梵天王婆毘羅呪), v.v., trong phẩm Chúng Tướng Vấn (眾相問) của Ma Đăng Già Kinh (摩登伽經) quyển thượng, v.v. Ngoài ra, trong quyển 4 của Xuất Tam Tạng Ký Tập (出三藏記集) có Quán Đảnh Thất Vạn Nhị Thiên Thần Vương Hộ Tỳ Kheo Chú Kinh (觀頂七萬二天神王護比丘呪經), Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Thần Chú (摩訶般若波羅蜜神呪), Thập Bát Long Vương Thần Chú Kinh (十八龍王神呪), Chú Củ Xỉ (呪齲齒), Thập Nhị Nhân Duyên Kết Lũ Thần Chú (十二因緣結縷神呪), Uy Đức Đà La Thần Chú (威德陀羅神呪), v.v., mỗi thứ 1 quyển. Thần chú có 2 loại lành và dữ. Loại thần chú lành thường được dùng để chữa bệnh hay hộ thân; thần chú dữ dùng để bùa yểm người khác, khiến cho họ bị tai họa. Trong Phẩm Phổ Môn thuộc quyển 7 của Pháp Hoa Kinh (法華經), quyển 57 của Cựu Hoa Nghiêm Kinh (舊華嚴經), quyển 4 của Thập Địa Kinh (十地經), v.v., có đề cập đến loại thần chú dữ này. Đức Thế Tôn cấm chỉ hàng đệ tử tu tập chú thuật, sử dụng nó để mưu sinh, mà chỉ cho phép dùng chú để trị bệnh hay hộ thân mà thôi. Thông thường từ mantra được dịch là chú (呪). Hiện tồn bản tiếng Sanskrit của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), Đà La Ni Nhập Lăng Già Kinh (陀羅尼入楞伽經) có xuất hiện từ mantra này. Thế nhưng, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙) quyển 11 lại dịch từ Pāli vijjāmayā là chú. Trong Phẩm Đà La Ni thuộc quyển 7 của Pháp Hoa Kinh dịch từ Sanskrit dhārāṇī là chú. Từ đó, chúng ta thấy rằng từ Hán dịch chú có nhiều nguyên ngữ khác nhau. Bên cạnh đó, dhārāṇī còn có nghĩa là tổng trì (總持), vidya (p: vijjā) là minh (明), thuật (術), mantra là chơn ngôn. Nghĩa các từ tuy có khác nhau nhưng đã được dùng lẫn lộn nhau. Có khá nhiều vị tăng ngoại quốc truyền Phật Giáo đầu tiên đến Trung Quốc rất sở trường về chú thuật, như trường hợp Đàm Vô Sấm (曇無讖) được xem như là Đại Chú Sư. Đạo Giáo Trung Quốc từ đó cũng bắt đầu lưu hành chú thuật. Trong Đăng Thiệp Thiên (登涉篇) thuộc quyển 4 của Bảo Bốc Tử Nội Thiên (抱朴子) có phần Lục Giáp Bí Chú (六甲祕呪), có khả năng khiến cho người trong chiến trận không bị tử thương. Hay trong Thái Thượng Tử Vi Trung Thiên Thất Nguyên Chân Kinh (太上紫微中天七元眞經, Đạo Giáo quyển 1055) có Bắc Đẩu Thất Tinh Chú (北斗七星呪), Cơ Tinh Chân Nhân Chân Quân Bảo Mạng Chú (機星眞人眞君保命呪), v.v. Hơn nữa, trong Thái Thượng Nguyên Thỉ Thiên Tôn Thuyết Bảo Nguyệt Quang Hoàng Hậu Thánh Mẫu Khổng Tước Minh Vương Kinh (太上元始天尊說寶月光皇后聖母孔雀明王經, Đạo Giáo quyển 1058) có Bí Mật Khu Tà Phân Quỷ Nhân Đạo Chú (祕密驅邪分鬼人道呪), v.v., tất cả đều có pha lẫn Phạn ngữ. Cũng giống như vậy, các kinh điển Phật Giáo như Quán Đảnh Kinh (灌頂經), Thích Ma Ha Diên Luận (釋摩訶衍論) quyển 9 có nêu rõ các loại thần chú, Uế Tích Kim Cang Cấm Bách Biến Pháp Kinh (穢跡金剛禁百變法經) thì đề cập đến những loại phù chú, ấn pháp. Tất cả đều có ảnh hưởng đến kinh điển Đạo Giáo. Ngoài ra, Mật Giáo của Nhật Bản cũng sử dụng rất nhiều mật chú.
(s: pratyaya, p: paccaya, j: en, 緣): đối với nhân (s, p: hetu, 因) hay quán nhân (觀因) là nguyên nhân trực tiếp, còn duyên hay trợ duyên là nguyên nhân gián tiếp. Cũng có khi cả hai từ được gộp lại chung và có nghĩa là duyên. Có nhiều loại duyên như Tứ Duyên (四緣, Bốn Duyên), Thập Duyên (十緣, Mười Duyên), Thập Nhị Nhân Duyên (十二因緣, Mười Hai Nhân Duyên), v.v. Từ đó, chữ này được dùng rất phổ biến với ý nghĩa là duyên cố, sự quan hệ, v.v.
(s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺): âm dịch là Bích Chi Phật (辟支佛), Bích Chi Ca Phật (辟支迦佛); ý dịch ngày xưa là Duyên Nhất Giác (緣一覺), ý dịch ngày nay là Độc Giác (獨覺). Duyên Giác cùng với Thanh Văn (s: śrāvaka, 聲聞) hình thành Nhị Thừa, và thêm quả vị Phật vào là Tam Thừa. Nhị Thừa được xem là Tiểu Thừa, còn Phật Thừa là Đại Thừa. Duyên Giác là người không ý cứ vào lời dạy của người khác, tự mình quán pháp Duyên Khởi (s: pratītya-samutpāda, p: paticca-samppāda, 緣起) mà khai ngộ. Đối xứng với hàng Thanh Văn thì nghe pháp Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦) mà khai ngộ; trong khi đó, hàng Duyên Giác lại quán Thập Nhị Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣) mà chứng ngộ. Duyên Giác có hai loại: loại độc hành như con Tê Giác, và loại tập trung thành nhóm tu tập.
(覺運, Kakuun, 953-1007): học tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa thời Bình An, vị tổ của Dòng Đàn Na (檀那流), húy Giác Vận (覺運), thông xưng là Đàn Na Tăng Chánh (檀那僧正), xuất thân kinh đô Kyōto, con của Đằng Nguyên Trinh Nhã (藤原貞雅). Sau khi xuất gia, ông lên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), làm việc cho hội Quảng Học Thụ Nghĩa (廣學竪義, Kōgakuryūgi) với tư cách là người có học thức cao và để lại khá nhiều trước tác. Vì ông trú tại Đàn Na Viện (檀那院) ở Tây Tháp, nên pháp phái của ông được gọi là Dòng Đàn Na; và cùng sánh ngang hàng với Dòng Huệ Tâm (惠心流) của Nguyên Tín (源信, Genshin), cả hai được gọi là Nhị Đại Học Lưu (二大學流, hai dòng phái học thức lớn). Ông đã từng làm Giảng Sư tại các pháp hội như giảng nghĩa về Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀) cho Tướng Quân Đằng Nguyên Đạo Trưởng (藤原道長) nghe và gần gủi với tầng lớp quý tộc trong cung nội. Trước tác của ông có Chỉ Quán Khám Văn (止觀勘文) 1 quyển, Niệm Phật Bảo Hiệu (念佛寳號) 1 quyển, Thảo Mộc Phát Tâm Tu Hành Thành Phật Ký (草木發心修行) 1 quyển, Thập Nhị Nhân Duyên Nghĩa Tư Ký (十二因緣義私記) 1 quyển, Nhất Tâm Tam Quán Ký (一心三觀記) 1 quyển, v.v.
(s: Mahākauṣṭhila, p: Mahākoṭṭhita, 摩訶俱絺羅): một trong 10 vị đại đệ tử của đức Phật, còn gọi là Ma Ha Sắt Xã La (摩訶瑟社羅), Câu Sắt Để La (俱瑟底羅), gọi tắt là Câu Hy La (s: Kauṣṭhila, p: Koṭṭhita, 俱絺羅); ý dịch là Đại Tất (大膝), Đại Đỗ Trì (大肚持), Đại Thắng (大勝). Sau khi theo Phật xuất gia, ông đắc quả A La Hán, chứng được lý Năm Uẩn là không, nên có tên là Ngộ Không (悟空). Căn cứ vào Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經) quyển 12, khi Câu Hy La đang trú tại Kỳ Xà Quật Sơn (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山), Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗) đến hỏi về nghĩa Thập Nhị Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣), Câu Hy La đều trả lời rõ ràng từng chi tiết; vì vậy Xá Lợi Phất tán thán ông có trí tuệ thông suốt như viên châu báu vô giá trên đỉnh đầu. Hơn nữa, trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經) quyển 3 cho rằng Ma Ha Câu Hy La có đủ 4 biện tài. Ngoài ra, trong Soạn Tập Bách Duyên Kinh (撰集百緣經) quyển 10, Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 1, Hữu Bộ Tỳ Nại Da Xuất Gia Sự (有部毘奈耶出家事) quyển 1, 2, v.v., đều cho rằng Câu Hy La là Trường Trảo Phạm Chí (長爪梵志), cậu của Xá Lợi Phất.
(s: yāna-traya, tri-yāna, 三乘): ba cỗ xe. Cỗ xe là ví dụ cho giáo lý dẫn dắt chúng sanh đi đến giác ngộ; có Nhất Thừa (一乘) cho đến Ngũ Thừa (五乘); đức Phật tùy theo căn cơ của chúng sanh là chậm chạp, trung bình, lanh lợi mà chế ra 3 loại pháp môn khác nhau gọi là Tam Thừa.
(1) Thanh Văn Thừa (s: śrāvaka-yāna, 聲聞乘), còn gọi là Tiểu Thừa (小乘); nếu nhanh thì trong 3 đời, chậm thì trong vòng 60 kiếp, tu pháp Không, cuối cùng đến đời này nghe giáp pháp của đức Như Lai, ngộ lý Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦), chứng quả A La Hán (s: arhat, p: arahant, 阿羅漢).
(2) Duyên Giác Thừa (s: pratyeka-buddha-yāna, 緣覺乘), còn gọi là Trung Thừa (中乘), Bích Chi Phật Thừa (辟支佛乘), Độc Giác Thừa (獨覺乘); nếu nhanh thì trong 4 đời, chậm thì trong 100 kiếp tu pháp Không, vào đời cuối cùng thì không nương vào giáo pháp của Như Lai, mà cảm các ngoại duyên như hoa bay, lá rụng, suối reo, v.v., tự giác ngộ lý Thập Nhị Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣), và chứng quả Bích Chi Phật (辟支佛).
(3) Bồ Tát Thừa (s: bodhisattva-yāna, 菩薩乘), hay còn gọi là Phật Thừa (佛乘), Đại Thừa (s: mahāyāna, 大乘); trong khoảng thời gian vô số kiếp tu hành hạnh Lục Độ (六度), rồi trong 100 kiếp trồng nhân 32 phước tướng để chứng vô thượng Bồ Đề.
Ba cỗ xe này được ví cho xe dê, hươu, xe trâu; hay ví cho ba loại thú là voi, ngựa và thỏ. Như trong Thích Ca Như Lai Thành Đạo Ký Chú (釋迦如來成道記註) quyển hạ do Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường soạn, Huệ Ngộ Đại Sư (慧悟大師) ở Nguyệt Luân Sơn (月輪山), vùng Tiền Đường (錢唐) chú giải, có đoạn rằng: “Pháp Hoa Kinh Tam Xa dụ dã, Dương Xa dụ Thanh Văn Thừa, Lộc Xa dụ Duyên Giác Thừa, Ngưu Xa dụ Bồ Tát Thừa; Tam Thừa câu dĩ vận tải vi nghĩa (法華經三車喻也、羊車喻聲聞乘、鹿車喻緣覺乘、牛車喻菩薩乘、三乘俱以運載爲義, về thí dụ Ba Xe của Kinh Pháp Hoa, Xe Dê ví cho Thanh Văn Thừa, Xe Nai ví cho Duyên Giác Thừa, Xe Trâu ví cho Bồ Tát Thừa; cả Ba Thừa đều có nghĩa vận tải).” Hay như trong Phẩm Thí Dụ (譬喻品) của Pháp Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經) có giải thích rằng: “Nhược hữu chúng sanh, nội hữu trí tánh, tùng Phật Thế Tôn, văn pháp tín thọ, ân cần tinh tấn, dục tốc xuất Tam Giới, tự cầu Niết Bàn, thị danh Thanh Văn Thừa. … Nhược hữu chúng sanh, tùng Phật Thế Tôn, văn pháp tín thọ, ân cần tinh tấn, cầu tự nhiên tuệ, độc lạc thiện tịch, thâm tri chư pháp nhân duyên, thị danh Bích Chi Phật Thừa. … Nhược hữu chúng sanh, tùng Phật Thế Tôn, văn pháp tín thọ, cần tu tinh tấn, cầu nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, Như Lai tri kiến, lực, vô sở úy, mẫn niệm an lạc, vô lượng chúng sanh, lợi ích nhân thiên, độ thoát nhất thiết, thị danh Đại Thừa (若有眾生、內有智性、從佛世尊、聞法信受、慇懃精進、欲速出三界、自求涅槃、是名聲聞乘…若有眾生、從佛世尊、聞法信受、慇懃精進、求自然慧、獨樂善寂、深知諸法因緣、是名辟支佛乘…若有眾生、從佛世尊、聞法信受、勤修精進、求一切智、佛智、自然智、無師智、如來知見、力、無所畏、愍念安樂、無量眾生、利益天人、度脫一切、是名大乘, Nếu có chúng sanh, theo Phật Thế Tôn, nghe pháp tin thọ, siêng năng tinh tấn, muốn mau ra Ba Cõi, tự cầu Niết Bàn, đó là Thanh Văn Thừa. … Nếu có chúng sanh, theo Phật Thế Tôn, nghe pháp tin thọ, siêng năng tinh tấn, cầu trí tuệ tự nhiên, vui một mình, khéo vắng lặng, biết sâu nhân duyên các pháp, đó là Bích Chi Phật Thừa. … Nếu có chúng sanh, theo Phật Thế Tôn, nghe pháp tin thọ, siêng tu tinh tấn, cầu tất cả trí tuệ, trí tuệ Phật, trí tuệ tự nhiên, trí tuệ không cần thầy chỉ dạy, tri kiến của Như Lai, năng lực, sự khoogn sợ hãi, niệm thương xót an lạc, vô lượng chúng sanh, làm lợi ích trời người, độ thoát hết thảy, đó là Đại Thừa).” Hoặc như trong Tứ Giáo Nghi Chú (四敎儀註) quyển Thượng cho biết rằng: “Tam Thừa, thừa dĩ vận tải vi nghĩa; Thanh Văn dĩ Tứ Đế vi thừa, Duyên Giác dĩ Thập Nhị Nhân Duyên vi thừa, Bồ Tát dĩ Lục Độ vi thừa, vận xuất Tam Giới quy ư Niết Bàn (三乘、乘以運載爲義、聲聞以四諦爲乘、緣覺以十二因緣爲乘、菩薩以六度爲乘、運出三界歸於涅槃, Ba Thừa, thừa có nghĩa là vận chuyển, Thanh Văn lấy Tứ Đế làm phương tiện vận chuyển, Duyên Giác lấy Thập Nhị Nhân Duyên làm phương tiện vận chuyển, Bồ Tát lấy Lục Độ làm phương tiện vận chuyển, chở cả Ba Cõi quay về Niết Bàn).” Hai Thừa đầu chỉ có tự lợi, không có lợi tha, nên được gọi là Tiểu Thừa (小乘, cỗ xe nhỏ). Riêng Bồ Tát Thừa thì có đầy đủ cả tự lợi và lợi tha, nên có tên là Đại Thừa (大乘, cỗ xe lớn). Một số kinh điển như Tịch Điều Âm Sở Vấn Kinh (寂調音所問經), Đại Tỳ Bà Sa Luận (大毘婆沙論) quyển 127, Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 11 gọi Tam Thừa là Hạ Thừa (下乘), Trung Thừa (中乘) và Thượng Thừa (上乘). Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận (大乘莊嚴經論) quyển 4, Lương Dịch Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (梁譯攝大乘論釋) quyển 1 gọi chung cả 2 thừa trước là Hạ Thừa, Bồ Tát Thừa là Thượng Thừa. Hoa Nghiêm Tông, Thiên Thai Tông lấy Tam Thừa làm pháp môn phương tiện, cứu cánh đều quy về Nhất Phật Thừa (一佛乘); cho nên hai tông phái này chủ xướng tư tưởng “Tam Thừa Phương Tiện Nhất Thừa Chân Thật (三乘方便一乘眞實, Ba Thừa Phương Tiện Một Thừa Chân Thật).” Trong khi đó, Pháp Tướng Tông lại chủ trương ngược lại là “Tam Thừa Chân Thật Nhất Thừa Phương Tiện (三乘眞實一乘方便, Ba Thừa Chân Thật Một Thừa Phương Tiện).” Bên cạnh đó, Tam Thừa còn có nghĩa là Ba Thừa tùy thời tu tập của vị Bồ Tát, gồm:
(1) Thiên Thừa (天乘), tức Sơ Thiền (初禪), Nhị Thiền (二禪), Tam Thiền (三禪) và Tứ Thiền (四禪).
(2) Phạm Thừa (梵乘), tức từ, bi, hỷ và xả.
(3) Thánh Thừa (聖乘), tức là Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, āryāṣṭāṇgika-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道), gồm Chánh Kiến (s: samyag-dṛṣṭi, p: sammā-diṭṭhi, 正見), Chánh Tư Duy (s: samyak-saṃkalpa, p: sammā-saṅkappa, 正思惟), Chánh Ngữ (s: samyag-vāc, p: sammā-vācā, 正語), Chánh Nghiệp (s: samyakkarmanta, p: sammā-kammanta, 正業), Chánh Mạng (s: samyag-ājīva, p: sammā-ājīva, 正命), Chánh Tinh Tấn (s: samyag-vyāyāma, p: sammā-vāyāma, 正精進), Chánh Niệm (s: samyak-smṛti, p: sammā-sati, 正念), và Chánh Định (s: samyak-samādhi, p: sammā-samādhi, 正定).
(十二輪轉, Mười Hai Luân Chuyển): tức là sự luân hồi chuyển sanh theo Thập Nhị Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣), gồm (1) Vô Minh (s: avidyā, p: avijjā, 無明), (2) Hành (s: saṁskāra, p: saṅkhāra, 行), (3) Thức (s: vijñāna, p: viññāṇa, 識), (4) Danh Sắc (s, p: nāma-rūpa, 名色), (5) Lục Xứ (s: saḍ-āyatana, p: salāyatana, 六處, hay Lục Nhập [六入]), (6) Xúc (s: sparśa, p: phassa, 觸), (7) Thọ (s, p: vedanā, 受), (8) Ái (s: tṛṣṇā, p: taṇhā, 愛), (9) Thủ (s, p: upādāna, 取), (10) Hữu (s, p: bhava, 有), (11) Sanh (s, p: jāti, 生), (12) Lão Tử (s, p: jarā-maraṇa, 老死).
(十住心論, Jūjūshinron): 10 quyển, gọi cho đủ là Bí Mật Mạn Đà La Thập Trụ Tâm Luận (秘密曼陀羅十住心論), một trong những trước tác đại biểu của Không Hải (空海, Kūkai), là thư tịch thuật rõ toàn bộ hệ thống Chơn Ngôn Mật Giáo, được viết theo yêu cầu của sắc chỉ của Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō, tại vị 758-764) vào khoảng năm 830, được xem như là thư tịch lập giáo khai tông. Đây là trước tác chia tâm con người thành 10 giai đoạn, rồi phối trí tư tưởng đại biểu đương thời cho mỗi tâm ấy và cấu trúc thành hệ thống. Bộ sách chủ trương rằng chính Chơn Ngôn Mật Giáo là cảnh giới tối cao mà tâm con người có thể đạt đến được. Mười tâm ấy gồm:
(1) Dị Sanh Đê Dương Tâm (異生羝羊心, Dị Sanh là phàm phu, tâm cảnh bị chi phối theo bản năng ăn uống, tánh dục giống như con dê đực);
(2) Ngu Đồng Trì Trai Tâm (愚童持齋心, tâm cảnh của Phật tánh vốn có xưa nay được khai mở từng chút một, tiết chế tự kỷ và thực hành con đường luân lý đạo đức, là cảnh giới của Nho Giáo);
(3) Anh Đồng Vô Úy Tâm (嬰童無畏心, tâm cảnh sợ khổ não cõi người và mong cầu quả vui trên cõi Trời, là cảnh giới của triết học Ấn Độ và tư tưởng Lão Trang);
(4) Duy Uẩn Vô Ngã Tâm (唯蘊無我心, tâm cảnh Ngã là không và pháp Ngũ Uẩn cấu thành nên Ngã ấy hiện hữu, là cảnh giới của Thanh Văn trong Phật Giáo Nguyên Thủy);
(5) Bạt Nghiệp Nhân Chủng Tâm (拔業因種心, tâm cảnh thể hiện nghiệp, phiền não tiêu diệt nhờ quán Thập Nhị Nhân Duyên, nhưng không có từ bi lợi tha, là cảnh giới của Duyên Giác trong Phật Giáo Nguyên Thủy);
(6) Tha Duyên Đại Thừa Tâm (他緣大乘心, từ đây trở về sau là tâm cảnh của Đại Thừa, tâm thường nghĩ đến việc cứu độ chúng sanh, nhưng vẫn chưa triệt để về lý Không, nên lập nên Ngũ Tánh Các Biệt, là cảnh giới của Duy Thức, Pháp Tướng Tông trong Phật Giáo Đại Thừa);
(7) Giác Tâm Bất Sanh Tâm (覺心不生心, Thức cũng như cảnh đều không, dừng lại và chấm dứt ở mặt phủ định, là cảnh giới của Trung Quán cũng như Tam Luận Tông trong Phật Giáo Đại Thừa);
(8) Nhất Đạo Vô Vi Tâm (一道無爲心, hay còn gọi là Như Thật Tri Tự Tâm [如實自知心], Không Tánh Vô Cảnh Tâm [空性無境心], cảnh giới thể đắc lý thú Nhất Niệm Tam Thiên, Tam Đế Viên Dung, nhưng đó vẫn là cảnh giới của nhân từ Duyên Khởi, là cảnh giới của Trung Quán cũng như Thiên Thai Tông trong Phật Giáo Đại Thừa);
(9) Cực Vô Tự Tánh Tâm (極無自性心, cảnh giới sự sự vô ngại, quán sát lý thú vô hạn trong tướng trạng của vạn hữu, là cảnh giới cực ý của Hiển Giáo, hết thảy đều quy về Không Vô Tướng, là cảnh giới của Trung Quán cũng như Hoa Nghiêm Tông trong Phật Giáo Đại Thừa); và
(10) Bí Mật Trang Nghiêm Tâm (秘密莊嚴心, cảnh giới phá tan chấp thủ về Không, biết rõ tận cùng tự tâm, thể nghiệm Pháp Thân Tự Nội Chứng, thực tại căn nguyên của Sắc Tâm Bất Nhị hay Vật Tâm Nhất Như, lấy ba bí mật của thân, miệng và ý để trang nghiêm quả vị tối cùng của Phật Tự Chứng, là cảnh giới của Chơn Ngôn Mật Giáo).
Tác phẩm giới thiệu nội dung giản lược của Thập Trụ Tâm Luận là bộ Bí Tạng Bảo Thược (秘藏寶鑰), 3 quyển.
(s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦): Đế (s: satya, p: sacca, 諦) ở đây nghĩa là chân thật, bất hư, chân lý. Tứ Đế chỉ cho 4 loại chân lý đúng dắn, không sai lầm, không hư dối, gồm: Khổ (苦), Tập (集), Diệt (滅) và Đạo (道); còn gọi là Tứ Chân Đế (四眞諦); 4 chân lý này do bậc thánh thấy được nên gọi là Tứ Thánh Đế (四聖諦), Tứ Diệu Đế (四妙諦). Đại thể, Tứ Đế là Phật Giáo dùng để giải thích hiện tượng vũ trụ theo quy nạp của thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣), là đại cương giáo nghĩa của Phật Giáo Nguyên Thủy, là bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật. Theo thứ tự, 4 chân lý này là Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Thánh Đế (苦集聖諦), Khổ Diệt Thánh Đế (苦滅聖諦), Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (苦滅道聖諦); hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Đế (苦習諦), Khổ Diệt Đế (苦滅諦), Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (苦滅道聖諦); hay Khổ Đế (苦諦), Khổ Tập Đế (苦集諦), Khổ Tận Đế (苦盡諦), Khổ Xuất Yếu Đế (苦出要諦); hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Tập Thánh Đế (集聖諦), Chơn Thánh Đế (眞聖諦), Đạo Thánh Đế (道聖諦). Trong đó, Khổ và Tập biểu thị quả và nhân của thế giới mê lầm; Diệt và Đạo biểu thị quả và nhân của thế giới chứng ngộ; nghĩa là quả của thế gian Hữu Lậu là Khổ Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Diệt Đế; nhân của thế gian Hữu Lậu là Tập Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Đạo Đế. Theo Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō Vol. 1, No. 26) quyển 7, Phân Biệt Thánh Đế Kinh (分別聖諦經), A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 77, Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (大乘阿毘達磨雜集論, Taishō Vol. 31, No. 1606) quyển 7, v.v., cụ thể Tứ Đế là: (1) Khổ Đế (s: duḥkha-satya, p: dukkha-sacca, 苦諦), còn gọi là Khổ Thánh Đế (s: duḥkhārya-satya, 苦聖諦); khổ tức chỉ trạng thái bức bách thân tâm khổ não; mọi sự vật trên thế gian, dù hữu tình hay chẳng phải hữu tình, đều phải chịu khổ; hết thảy thế gian bản chất là khổ. Khổ Đế tức là chân lý về cái khổ thật sự liên quan đến vấn đề sanh tử. (2) Tập Đế (s: samudaya-satya, p: samudaya-sacca, 集諦), còn gọi là Tập Thánh Đế (s: samudayārya-satya, 集聖諦); tập đây nghĩa là sự thật về tất cả phiền não hoặc nghiệp thật sự có thể chiêu tập quả của khổ sanh tử trong Ba Cõi. Tập Đế là chân lý liên quan đến sự sanh khởi cũng như căn nguyên các nỗi khổ của con người trên cõi đời này. (3) Diệt Đế (s: nirodha-satya, p: nirodha-sacca, 滅諦), còn gọi là Diệt Thánh Đế (s: nirodhārya-satya, 滅聖諦); diệt ở đây nghĩa là tịch diệt, vắng lặng, thật sự đoạn trừ căn bản của khổ là ái dục thì sẽ được diệt khổ, có thể nhập vào cảnh giới Niết Bàn. Diệt Đế là chân lý liên quan đến sự diệt tận Khổ và Tập. (4) Đạo Đế (s: mārga-satya, p: magga-sacca, 道諦), còn gọi là Đạo Thánh Đế (s: mārgārya-satya, 道聖諦); đạo nghĩa là có thể thông suốt, tức là con đường diệt khổ, như Chánh Kiến (正見), Chánh Tư Duy (正思惟), v.v., của Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道); nếu nương vào đây mà tu hành, tức có thể siêu thoát hai sự thật Khổ và Tập, đạt đến cảnh giới Niết Bàn vắng lặng. Đạo Đế là chân lý liên quan đến Bát Chánh Đạo ấy. Sau khi thành đạo, đức Phật thuyết Tứ Đế này cho 5 vị Tỳ Kheo, được xem như là lần chuyển Pháp Luân đầu tiên. Đây là giáo nghĩa căn bản nhất trong các giáo lý Phật Giáo, là phương pháp duy nhất dể giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Về sau, Tứ Đế được xem như là pháp của Thanh Văn; ngoại trừ Phật Giáo Nguyên Thủy thuyết về giáo lý này, trong các kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa cũng có đề cập đến giáo thuyết này, tỷ dụ như Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh (勝鬘獅子吼一乘大方便方廣經, Taishō Vol. 12, No. 353), Bắc Bản Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 12, 13, v.v., không những có giải thích theo quan điểm Đại Thừa mà còn phát huy áo nghĩa của Tứ Đế nữa. Về tự tánh của Tứ Đế, các bộ phái đều có những dị thuyết. Căn cứ A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 77, các luận sư của A Tỳ Đạt Ma (s: Abhidharma, 阿毘達磨) lấy Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊) là Khổ Đế, nhân của Hữu Lậu là Tập Đế, pháp Trạch Diệt (s: pratisaṃkhyā-nirodha, p: patisaṅkhā-nirodha, 擇滅) là Diệt Đế, pháp Học, Vô Học là Đạo Đế. Về thứ tự hiện quán của Tứ Đế, theo A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 22, A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 78 cho biết rằng trước quán Khổ Đế, kế đến quán Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế. Căn cứ vào Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖敎論, Taishō Vol. 31, No. 1602) quyển 7 Trung, Đại Thừa Phật Giáo lấy nội dung của Tứ Đế diễn thành 8 loại, gọi là Bát Đế (八諦, Tám Đế); gồm Hành Khổ Đế (行苦諦), Hoại Khổ Đế (壞苦諦), Khổ Khổ Đế (苦苦諦), Lưu Chuyển Đế (流轉諦), Tạp Nhiễm Đế (雜染諦, tương đương với Khổ Đế và Tập Đế), Lưu Tức Đế (流息諦, tương đương với Diệt Đế), Thanh Tịnh Đế (清淨諦, tương đương với Diệt Đế và Đạo Đế), Chánh Phương Tiện Đế (正方便諦, tương đương với Đạo Đế). Bên cạnh đó, Đại Sư Trí Khải của Thiên Thai Tông căn cứ vào thuyết của Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh, Đại Bát Niết Bàn Kinh lại lập ra 4 loại Tứ Đế có sâu cạn bất đồng, tương đương với 4 giáo tướng Tạng, Thông, Biệt, Viên; gồm: (1) Sanh Diệt Tứ Đế (生滅四諦), do Tạng Giáo (藏敎) thuyết ra, tùy theo việc sanh diệt Hữu Vi mà quán nhân quả của Tứ Đế là thật có sanh, diệt. (2) Vô Sanh Tứ Đế (無生四諦), hay Vô Sanh Diệt Tứ Đế (無生滅四諦), do Thông Giáo (通敎) thuyết ra, tùy theo nhân duyên các pháp tức là Không, Vô Sanh mà quán nhân quả mê ngộ của Tứ Đế, đều là không vô vốn chẳng có sanh diệt. (3) Vô Lượng Tứ Đế (無量四諦), do Biệt Giáo (別敎) thuyết ra, tùy theo trong cõi ngoài cõi với vô số sai biệt, vô số nhân, mà Tứ Đế cũng có vô lượng các tướng. (4) Vô Tác Tứ Đế (無作四諦), do Viên Giáo (圓敎) thuyết ra, tùy theo đương thể của mê ngộ tức là thật tướng, mà quán sự đối lập mâu thuẩn giữa mê với ngộ tức chẳng phải mâu thuẩn, và tất cả đều là thật tướng. Ngoài ra, Pháp Tướng Tông lấy Diệt Đế lập ra Ba Diệt Đế, gồm: Hữu Tự Tánh Diệt (有自性滅), Nhị Thủ Diệt (二取滅) và Bản Tánh Diệt (本性滅); đối với Đạo Đế thì lập ra Ba Đạo Đế, gồm: Biến Tri Đạo (徧知道), Vĩnh Đoạn Đạo (永斷道) và Tác Chứng Đạo (作證道). Trong Viên Giác Kinh Đại Sớ Thích Nghĩa Sao (圓覺經大疏釋義鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 9, No. 245) quyển 3 có đoạn rằng: “Hữu Khổ khả tri, hữu Tập khả đoạn, hữu Diệt khả chứng, hữu Đạo khả tu, mê tắc Khổ Tập diệt nhi chân đạo diệt, ngộ tắc Khổ Tập diệt nhi chánh đạo sanh, hữu khả sanh diệt, cố vân Sanh Diệt Tứ Đế (有苦可知、有集可斷、有滅可證、有道可修、迷則苦集生而眞道滅、悟則苦集滅而正道生、有可生滅、故云生滅四諦, có Khổ biết được, có Tập đoạn được, có Diệt chứng được, có Đạo tu được, mê thì Khổ Tập sanh mà chân đạo diệt, ngộ thì Khổ Tập diệt mà chánh đạo sanh, có khả năng sanh diệt như vậy, nên gọi là Sanh Diệt Tứ Đế).” Hay trong Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn (釋禪波羅蜜次第法門, Taishō Vol. 46, No. 1916) quyển 9 cũng có đoạn: “Niệm tử tức ngộ vô thường Tứ Đế, nhược Tam Giới bệnh tận tức đắc chứng đạo (念死卽悟無常四諦、若三界病盡卽得聖道, nghĩ nhớ bệnh là ngộ vô thường Tứ Đế, nếu Ba Cõi bệnh hết tức được chứng đạo).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.46 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập