Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thập Lực »»

(s: saṃbhoga-kāya, 報身): chỉ cho thân quả báo của Phật; còn gọi là Báo Phật (報佛), Báo Thân Phật (報身佛), Thọ Pháp Lạc Phật (受法樂佛); hoặc được dịch là Thọ Dụng Thân (受用身), Thực Thân (食身), Ứng Thân (應身); là một trong 3 thân (Pháp Thân, Ứng Thân và Hóa Thân) và 4 thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân và Hóa Thân) của Phật; tức là thân Phật có quả báo nhân vị vô lượng nguyện hạnh, vạn đức viên mãn. Đây cũng là thân kết quả của sự báo ứng các nguyện hạnh đầy đủ của vị Bồ Tát mới phát tâm tu tập cho đến tròn đầy Mười Địa. Như A Di Đà Phật, Dược Sư Như Lai, Lô Xá Na Phật, v.v., đều là Báo Thân Phật. Báo Thân lấy Đại Trí (大智, tức trí tuệ không phân biệt của bậc Thánh), Đại Định (大定, nghĩa là không tác ý) và Đại Bi (大悲, tâm từ bi có thể giúp cứu bạt nỗi khổ của chúng sanh) làm thể; có đầy đủ vô lượng sắc tướng, muôn công đức của Thập Lực (s: daśa-bala, p: dasa-bala, 十力, Mười Lực), Tứ Vô Úy (s: catur-vaiśāradya, p: catu-vesārajja, 四無畏, Bốn Vô Úy), v.v. Theo Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 9 cho biết rằng đức Phật co hai thân là Pháp Tánh Thân (法性身, Thân Pháp Tánh) và Phụ Mẫu Sanh Thân (父母生身, thân do cha mẹ sanh ra). Pháp Tánh Thân thì biến khắp cùng hư không, tướng hảo trang nghiêm, có vô lương hào quang sáng rực và vô lượng âm thanh. Quyển 30 cùng điển tịch này còn nêu rõ rằng đức Phật lại có hai thân là Chơn Thân (眞身) và Hóa Thân. Chơn Thân thì cùng khắp hư không, âm thanh thuyết pháp của thân này cũng biến khắp mười phương vô lượng thế giới, nhưng chỉ có vị Bồ Tát ở địa vị Thập Trụ (十住) mới có thể lấy trí lực phương tiện không thể nghĩ bàn mà nghe được. Quyển 33 lại nêu ra hai loại thân khác là Pháp Tánh Sanh Thân (法性生身) và Tùy Thế Gian Thân (隨世間身). Pháp Tánh Sanh Thân thường có vô lượng vô số không thể tính đếm các vị Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ theo hầu. Thông thường thân này chỉ cho Thật Báo Thân (實報身) của Phật. Đối với nội chứng cũng như ngoại dụng của Báo Thân, căn cứ trên nghĩa thọ dụng, Thiên Thai học giả chia Báo Thân thành Tự Thọ Dụng Báo Thân (自受用報身) và Tha Thọ Dụng Báo Thân (他受用報身); rồi căn cứ trên quốc độ cư trú của Báo Thân mà phân thành Chơn Báo Thân Độ (眞報身土) và Ảnh Hiện Báo Thân Độ (影現報身土). Chơn Báo Thân Độ chính là nơi chư vị Bồ Tát thị hiện trên mặt đất, là cõi nước Báo Thân để dùng phương tiện giáo hóa, truyền đạo. Thọ Dụng Thân (受用身) của Pháp Tướng Tông và Duy Thức Tông đồng nghĩa với thân này. Đại Thừa Đồng Tánh Kinh (大乘同性經, Taishō Vol. 16, No. 673) quyển Thượng cho rằng thành Phật nơi cõi uế độ tương đối là Hóa Thân, thành Phật nơi cõi Tịnh Độ là Báo Thân. Trong Phật Tam Thân Tán (佛三身讚, Taishō Vol. 32, No. 1678) có bài kệ về Báo Thân rằng: “Ngã kim khể thủ Báo Thân Phật, trạm nhiên an trú đại Mâu Ni, ai mẫn hóa độ Bồ Tát chúng, xứ hội như nhật nhi phổ chiếu, Tam Kỳ tích tập chư công đức, thỉ năng viên mãn tịch tĩnh đạo, dĩ đại âm thanh đàm diệu pháp, phổ linh hoạch đắc bình đẳng quả (我今稽首報身佛、湛然安住大牟尼、哀愍化度菩薩眾、處會如日而普照、三祇積集諸功德、始能圓滿寂靜道、以大音聲談妙法、普令獲得平等果, con nay cúi lạy Báo Thân Phật, sáng trong an trú đức Mâu Ni, xót thương hóa độ chúng Bồ Tát, khắp chốn như trời chiếu cùng khắp, ba đời tích tập các công đức, mới thể tròn đầy đạo vắng lặng, lấy âm thanh lớn bàn pháp mầu, khiến cho đạt được bình đẳng quả).” Hay trong Triệu Luận Lược Chú (肇論略註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 54, No. 873) quyển 5 có giải thích rằng: “Dĩ tam thế chư Phật khoáng kiếp tu nhân, chứng thử nhất tâm chi thể, danh vi Pháp Thân; dĩ thù quảng đại chi nhân, danh vi Báo Thân; tùy cơ ích vật, danh vi Hóa Thân; nhất thiết chư Phật giai cụ Tam Thân; Pháp Thân vi thể, Hóa Thân vi dụng, hữu cảm tức hiện, vô cảm tức ẩn (以三世諸佛曠劫修因、證此一心之體、名爲法身、以酬廣大之因、名爲報身、隨機益物、名爲化身、一切諸佛皆具三身、法身爲體、化身爲用、有感卽現、無感卽隱, vì ba đời các đức Phật muôn kiếp tu nhân, chứng thể nhất tâm này, nên gọi là Pháp Thân; để báo ứng nhân to lớn này, nên gọi là Báo Thân; tùy cơ duyên mà làm lợi ích muôn loài, nên gọi là Hóa Thân; hết thảy các đức Phật đều có đủ Ba Thân; Pháp Thân làm thể, Hóa Thân làm dụng, có cảm tức hiển hiện, không cảm thì ẩn tàng).” Trong Tứ Phần Luật Sưu Huyền Ký (四分律搜玄錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 41, No. 732) quyển 1 cho biết rằng: “Báo Thân danh Lô Xá Na (報身名盧舍那, Báo Thân có tên gọi là Lô Xá Na).” Vì vậy, có câu cúng dường “Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật (圓滿報身盧舍那佛).”
(s: pañca-bhikṣavah, p: pañcavaggiyā-bhikkhū, 五比丘): hay còn gọi là Ngũ Quần Tỳ Kheo (五群比丘, nhóm năm vị Tỳ Kheo), tên của 5 vị Tỳ Kheo mà trước khi chưa thành chánh quả, đức Thế Tôn đã từng chung sống tu khổ trong vòng 6 năm trường. Sau khi biết được việc tu khổ hạnh, ép xác không phải là pháp môn để đạt đến giải thoát, nên ngài xuống tắm dưới sông Ni Liên Thuyền (s: Nairañjanā,p: Nerañjarā, 尼連禪河), nhận bát cháo sữa của cô gái chăn dê cúng dường và trở lại ăn uống bình thường. Thấy vậy, 5 vị này khinh thường và bỏ ngài đi. Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn nhớ đến 5 người này, bèn đến Vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑) tuyên thuyết bài pháp đầu tiên hóa độ cho họ. Đây là những người đệ tử đầu tiên nhất của đức Phật và được gọi là 5 vị Tỳ Kheo, gồm:
(1) A Nhã Kiều Trần Như (p: Ājñātakauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 阿若憍陳如), còn gọi là A Nhã Cư Lân (阿若居隣), A Nhã Câu Lân (阿若拘隣), A Nhã Đa Kiều Trần Na (阿若多憍陳那), Kiều Trần Như (憍陳如),
(2) A Thấp Bà Thị (s: Aśvajit, Aśvaka; p: Assaji, 阿濕婆恃), hay còn gọi là A Thuyết Thị (阿說示), A Thuyết Chỉ (阿說旨), A Thấp Ti (阿濕卑), Mã Thắng (馬勝),
(3) Bạt Đề (s: Bhadrika, p:Bhaddiya, 跋提、拔提), còn gọi là Bà Đề (婆提), Bạt Đề Lê Ca (跋提黎迦), Bà Đế Lợi Ca (婆帝利迦),
(4) Ma Ha Nam (s, p: Mahānāma, 摩訶男), còn gọi là Ma Ha Na Ma (摩訶那摩), và
(5) Thập Lực Ca Diếp (s: Daśabala-kāśyapa, p: Das abala-kassapa, 十力迦葉).
Trường hợp Thập Lực Ca Diếp đôi khi được thay bằng Bà Sa Ba (s: Bāṣpa, p: Vappa, 婆沙波), như trong Trung Bổn Khởi Kinh (中本起經), Phật Sở Hành Tán (佛所行讚), v.v.
(s: dvatriṃśan-mahāpurisa-lakṣaṇāni, p: dvattiṃsa-mahāpurisa-lakkhaṇāni, 三十二相): 32 loại hình tướng và dung mạo rất thù thắng của vị Chuyển Luân Thánh Vương cũng như Phật, còn gọi là 32 tướng của một bậc đại nhân, 32 tướng của bậc đại trượng phu, 32 tướng của bậc đại sĩ. Theotruyền thuyết của Ấn Độ ngày xưa, người nào có đầy đủ các tướng hảo như thế này sẽ trở thành Chuyển Luân Vương thống trị thiên hạ; nếu người ấy xuất gia thì sẽ khai ngộ vô thượng chánh giác. Về thứ tự tên gọi các tướng có nhiều thuyết khác nhau, nay y cứ theo quyển 4 của Đại Trí Độ Luận (大智度論), 32 tướng gồm:
(1) Đứng an trụ dưới chân (s: su-pratiṣṭhita-pāda, 足下安平立): có nghĩa rằng lòng bàn chân của bằng phẳng, mềm mại, đứng trụ vững chắc trên mặt đất. Khi đức Phật còn đang hành đạo Bồ Tát, tu sáu ba la mật nên cảm được tướng mầu như vậy. Tướng này dẫn đến công đức có lợi ích. -
(2) Dưới bàn chân có hai bánh xe (足下二輪): hay còn gọi là tướng nghìn bánh xe, tướng này có thể hàng phục được oán địch, ác ma, thể hiện công đức chiếu phá vô minh và ngu si. Khi nói chân có nghĩa là cả tay chân, nên gọi là tướng tay chân có vòng tròn (s: cakrāṅkita-hasta-pāda-tala).
(3) Ngón tay dài (s: dīrghāṅguli, 長指): tức cả hai tay chân đều thon nhỏ, dài và thẳng, đó chính là do nhờ cung kính lễ bái các vị sư trưởng, phá trừ tâm kiêu căng ngã mạn nên cảm được tướng tốt như vậy. Nó thể hiện tuổi thọ lâu dài, có công đức khiến cho chúng sanh vui thích quy y theo. -
(4) Gót chân rộng và bằng phẳng (s: āyata-pāda-pārṣṇi, 足跟廣平): hay còn gọi là tướng gót chân tròn đầy, gót chân dài. Nhờ có giữ giới, nghe pháp, siêng năng tu tập mà có được tướng này. Nó thể hiện công đức hóa độ và làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh cho đến đời tương lai.
(5) Ngón tay ngón chân có màng lưới (s: jālāvanaddha-hasta-pāda, 手足指縵綱): hay còn gọi là tướng của vua chim nhạn giữa các ngón tay, nghĩa là giữa mỗi ngón tay và chân đều có lớp màng lưới giao nhau hình hoa văn, giống như vua loài chim nhạn khi dang móng vuốt ra liền hiện tướng này. Nhờ có tu tứ nhiếp pháp mà có được tướng như vậy. Nó có hiện ra hay mất đi một cách tự do tự tại, thể hiện công đức xa lìa phiền não, nghiệp ác, đạt đến bờ vô vi bên kia. -
(6) Tay chân mềm mại (s: mṛdu-taruṇa-hasta-pāda-tala, 手足柔軟): nghĩa là tay chân vô cùng mềm mại, như lông mịn. Nhờ có dùng các thức ăn uống cao quý, y cụ cúng dường cho thầy mình, hay khi cha mẹ và thầy bị bệnh hoạn, nhờ hết mình gần gủi chăm sóc, hầu hạ nên có được tướng tốt như vậy. Nó thể hiện công đức mà đức Phật dùng bàn tay mềm mại từ bi để nhiếp độ những người thân hay xa lạ.
(7) Mu bàn chân cao đầy (s: ucchaṅkha-pāda, 足趺高滿): hay còn gọi là mu bàn chân cao bằng, mu bàn chân thẳng dày. Nhờ tu phước, dũng mãnh tinh tấn nên có được tướng này, thể hiện công đức làm lợi ích cho chúng sanh và có tâm đại bi vô thượng. -
(8) Bắp đùi tròn mềm như con nai chúa (s: aiṇeya-jaṅgha, 腨鹿王): có nghĩa là xương thịt bắp đùi tròn mềm như con sơn dương, do vì xưa kia chuyên tâm nghe pháp và diễn thuyết, nên có được tướng tốt như vậy. Nó thể hiện công đức tiêu diệt hết tất cả tội chướng.
(9) Đứng thẳng tay dài quá gối (s: sthitānavanata-pralamba-bāhutā, 正立手摩膝): hay còn gọi là tướng tay buông xuống quá gối, đứng thẳng tay quá gối. Tướng này có được là nhờ xa lìa ngã mạn, khéo bố thí, không tham lam. Nó thể hiện công đức hàng phục hết thảy ác ma, thương xót xoa đầu chúng sanh. -
(10) Nam căn ẩn kín (s: kośopagata-vasti-guhya, 陰藏): có nghĩa là nam căn dấu kín trong cơ thể như âm vật của con ngựa hay con voi. Tướng này có được là nhờ đoạn trừ tà dâm, cứu giúp các chúng sanh sợ hãi, v.v. Nó thể hiện công đức tuổi thọ lâu dài và có nhiều đệ tử.
(11) Thân thể dài rộng (s: nyagrodha-parimaṇḍala, 身廣長等): thân Phật ngang rộng, phải trái, trên dưới, tất cả đều nhau, xung quanh thân tròn đầy, như cây Ni Câu Luật (s: nyagrodha, p: nigrodha, 尼拘律, Ficus indica), do vì ngài thường khuyên chúng sanh hành trì tam muội, làm việc bố thí không sợ hãi nên có được tướng tốt như vậy. Nó thể hiện công đức tự tại tôn quý của đấng pháp vương.
(12) Lông hướng lên trên (s: ūrdhvaṃ-ga-roma, 毛上向): hay lông tóc của thân thể đều hướng về bên phải, có màu xanh nhạt, mềm mại. Tướng này có được do nhờ hành tất cả các pháp, có thể khiến cho chúng sanh chiêm ngưỡng, tâm sanh vui vẻ, có được lợi ích vô lượng.
(13) Mỗi lỗ chân lông đều có lông mọc (s: ekaika-roma-pradakṣiṇāvarta, 一一孔一毛生): nghĩa là mỗi lỗ chân lông đều có lông mọc ra, lông ấy xanh như màu ngọc lưu ly, và nơi mỗi lỗ chân lông đều toát ra mùi thơm vi diệu. Tướng này có được là nhờ tôn trọng, cúng dường hết thảy chúng hữu tình, chỉ bày cho người không biết mệt mỏi, gần gủi người trí, dọn dẹp nhưng con đường gai góc. Người có được ánh sáng từ lỗ chân lông ấy có thể tiêu trừ 20 kiếp tội chướng. -
(14) Thân thể vàng rực (s: suvarṇa-varṇa, 金色): hay gọi là có thân tướng vàng rực tuyệt diệu, da thân màu vàng rực, tức là thân Phật cũng như tay chân đều có màu vàng rực, giống như đài vàng tuyệt diệu làm trang nghiêm cho các báu vật. Tướng này có được nhờ xa lìa các sự tức giận, nhìn chúng sanh với con mắt hiền từ. Đức tướng này có thể khiến cho chúng sanh chiêm ngưỡng, chán bỏ vui thích, diệt tội, phát sanh điều thiện.
(15) Thân phát ánh sáng lớn (大光): tức thân của Phật có ánh sáng chiếu khắp ba ngàn thế giới, bốn mặt xa đến 1 trượng. Tướng này có được nhờ phát tâm bồ đề lớn và tu tập vô lượng hạnh nguyện. Nó có thể trừ đi các hoặc, phá tan chướng ngại và thể hiện công đức có thể làm cho đầy đủ hết thảy các chí nguyện.
(16) Da mềm mỏng (s: sūkṣma-suvarṇacchavi, 細薄皮): tức da mềm mỏng, trơn láng, không bị nhiễm bởi bụi nhơ. Do nhờ lấy các thứ y phục, phòng ốc, lầu gác sạch sẽ cho chúng sanh, xa rời người ác, gần gủi người trí mà có được tướng tốt này. Nó thể hiện sự bình đẳng, không nhơ nhớp của đức Phật, và công đức từ bi lớn hóa độ và làm lợi ích cho chúng sanh.
(17) Bảy chỗ tròn đầy (s: saptotsada, 七處隆滿): có nghĩa là 7 chỗ gồm thịt ở hai tay, dưới hai chân, hai vai và cuống cổ đều tròn đầy, mềm mại. Tướng này có được nhờ không tham tiếc đồ vật mình yêu thích, đem cho chúng sanh. Nó thể hiện công đức làm cho hết thảy chúng sanh đạt được tướng này và tiêu diệt tội lỗi, sanh điều thiện. -
(18) Dưới hai nách đầy đặn (s: citāntarāṃsa, 兩股下隆滿): hay dưới hai nách bằng phẳng và đầy đặn, có nghĩa rằng xương thịt dưới hai nách của đức Phật đầy đặn không khuyết. Tướng này có được nhờ đức Phật ban cho chúng sanh thuốc men, thức ăn uống và có thể tự khám bệnh cho mình.
(19) Thân trên như sư tử (s: siṃha-pūrvārdha-kāya, 上身如師子): tức nữa phần trên của thân đức Phật rộng lớn, đi đứng nằm ngồi đều oai nghiêm, đoan chánh giống như con sư tử. Tướng này có được nhờ đức Phật trong vô lượng thế giới chưa bao giờ nới lời hai lưỡi, dạy người các pháp thiện, thực hành lòng nhân và sự hòa hợp, xa rời ngã mạn. Nó thể hiện công đức có dung mạo cao quý, đầy đủ lòng từ bi. -
(20) Thân thẳng to lớn (s: ṛjugātratā, 大直身): có nghĩa rằng trong tất cả thân con người, thân Phật là to lớn nhất mà thẳng. Nhờ cho thuốc, khám bệnh, giữ gìn giới không sát sanh, không trộm cắp, xa rời sự kiêu căng ngã mạn, nên có được tướng tốt như vậy. Nó có thể khiến cho chúng sanh thấy nghe, chấm dứt khổ đau, đạt được chánh niệm, tu 10 điều thiện.
(21) Vai tròn to (s: su-saṃvṛta-skandha, 肩圓好): tức hai vai tròn đầy, to lớn, ngay thẳng, thù thắng, tuyệt diệu. Tướng này có được nhờ thường hay làm tượng, tu bổ tháp, ban bố sự không sợ hãi. Nó thể hiện công đức vô lượng của sự diệt trừ các lậu hoặc và tiêu nghiệp chướng. -
(22) Có bốn mươi răng (s: catvāriṃśad-danta, 四十齒): tướng này chỉ đức Phật có đầy đủ 40 cái răng, cái nào cũng ngay thẳng, trắng như tuyết. Nhờ xa rời nghiệp không nói lời hai lưỡi, nói lời xấu ác, tâm tức giận, tu tập sự bình đẳng và từ bi nên có được tướng tốt như vậy. Nó thường tỏa ra mùi thơm vi diệu. Tướng tốt này có thể ngăn chận nghiệp nói lời xấu ác của chúng sanh, diệt hết tội vô lượng và thọ nhận sự vui vẻ vô lượng.
(23) Răng thẳng (s: sama-danta, 齒齊): nghĩa là răng đều, khít nhau, bằng phẳng, không to không nhỏ, giữa hai răng không có khoảng hở lọt qua một sợi lông. Tướng này có được nhờ lấy 10 điều thiện để hóa độ và làm lợi ích cho chúng sanh, cũng như thường hay tán dương công đức của người khác. Nó thể hiện công đức có thể làm cho được thanh tịnh, hòa thuận, tất cả quyến thuộc đều đồng tâm nhất trí. -
(24) Răng trắng như ngà (s: suśukla-danta, 牙白): hay răng trắng như tuyết, ngài 40 cái răng ra, trên dưới đều có 2 răng khác, màu sắc của nó tươi trắng, sáng trong, nhọn sắc như đỉnh núi, cứng rắn như kim cương. Tướng này có được nhờ thường suy nghĩ đến các pháp thiện, tu tập lòng từ. Tướng tốt này có thể giúp phá tan ba thứ độc cứng chắc, ương ngạnh của chúng sanh.
(25) Má như sư tử (s: siṃha-hanu, 獅子頰): tức hai má tròn đầy như má của con sư tử. Người thấy tướng này có thể trừ được tội sanh tử trong trăm kiếp và thấy được các đức Phật. -
(26) Trong nước miếng có chất thơm ngon (s: rasa-rasāgratā, 味中得上味): ám chỉ trong miệng của đức Phật thường có mùi vị thơm ngon nhất trong các mùi vị. Tướng này có được nhờ thường xem chúng sanh như con mình, và lấy các pháp thiện hồi hướng để trọn thành chánh quả. Nó biểu hiện công đức của Phật mà có thể làm cho đầy đủ chí nguyện của chúng sanh.
(27) Lưỡi dài rộng (s: prabhūta-tanu-jihva, 廣長舌): tức đầu lưỡi dài rộng, mềm mỏng, khi thè lưỡi ra có thể chạm đến tóc. Nhờ có tâm phát thệ nguyện rộng lớn, lấy hạnh đại bi mà hồi hướng khắp pháp giới, nên có được tướng tốt như vậy. Khi nhìn thấy được tướng này, người ta có thể diệt trừ được tội sanh tử của 24.000 kiếp, được gặp 80 ức các đức Phật và Bồ Tát thọ ký cho. -
(28) Tiếng nói của Phạm Thiên (s: brahma-svara, 梵聲): tiếng nói tròn đầy như tiếng vang của trống trời, cũng giống như tiếng chim Ca Lăng Tần Già (s: karaviṅka, kalaviṅka; p: karavīka, 迦陵頻伽). Nhờ có nói lời chân thật, lời nói hay, chế ngự hết thảy những lời nói xấu ác mà có được tướng tốt như vậy. Người nghe được tiếng nói như vậy, tùy theo căn cơ của mình mà có được lợi ích, sanh khởi điều tốt, cảm nhận và đoạn trừ được quyền thật lớn nhỏ, tiêu trừ mọi nghi ngờ.
(29) Mắt trong xanh (s: abhinīla-netta, 眞青眼): tức mắt Phật có màu trong xanh, như hoa sen xanh (s: utpala, p: uppala, âm dịch là Ưu Bát La [優鉢羅], 青 蓮). Nhờ đời đời kiếp kiếp lấy tâm từ bi, con mắt từ bi và tâm hoan hỷ ứng xử đối với người ăn xin, nên có được tướng tốt này. -
(30) Lông mi như bò rừng (s: go-pakṣmā, 牛眼睫): tức lông mi ngay thẳng, không tạp loạn. Tướng này có được nhờ quán hết thảy chúng sanh như cha mẹ mình, lấy tâm của người con mà thương xót, yêu mến.
(31) Có nhục kế trên đầu (s: uṣṇīṣa-śiraskatā, 頂髻): tức trên đỉnh đầu có nhục kế nhô lên. Tướng này có được nhờ dạy người thọ trì pháp 10 điều thiện và tự bản thân mình cũng thọ trì. -
(32) Lông mi trắng (s: ūrṇā-keśa, 白毫): tức giữa hai khoảng cách của lông mày có lông mi trắng, mềm mại như bông Đâu La (s, p: tūla, 兜羅), dài 1 trượng 5 thước, xoắn lại về phía bên phải. Do vì nó thường phóng ra ánh sáng nên được gọi là hào quang. Do nhờ thấy chúng sanh tu pháp Tam Học mà xưng dương tán thán nên có được tướng tốt như vậy.
Trên đây là 32 tướng tốt. Nếu như người nào làm 100 điều thiện mới có được 1 tướng tốt như vậy, cho nên được gọi là “bách phước trang nghiêm (百福莊嚴, trăm phước trang nghiêm”. Như trong Trung A Hàm Kinh (中阿含經), quyển 11, Tam Thập Nhị Tướng Kinh (三十二相經) thứ 2, có đoạn: “Nhược Thế Tôn vị chư Tỳ Kheo thuyết Tam Thập Nhị Tướng giả, chư Tỳ Kheo văn dĩ đương thiện thọ trì (若世尊爲諸比丘說三十二相者、諸比丘聞已當善受持, nếu Thế Tôn vì các Tỳ Kheo nói Ba Mươi Hai Tướng, các Tỳ Kheo nghe xong nên khéo thọ trì).” Hay trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經), Phẩm Đề Bà Đạt Đa (提婆達多品) thứ 12 cũng có đoạn: “Phật cáo chư Tỳ Kheo: 'Nhĩ thời vương giả, tắc ngã thân thị, thời tiên nhân giả, kim Đề Bà Đạt Đa thị; do Đề Bà Đạt Đa thiện tri thức cố, linh ngã cụ túc Lục Ba La Mật, từ bi hỷ xả, Tam Thập Nhị Tướng, Bát Thập Chủng Hảo, tử ma kim sắc, Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, Tứ Nhiếp Pháp, Thập Bát Bất Cọng, thần thông đạo lực, thành Đẳng Chánh Giác, quảng độ chúng sanh, giai nhân Đề Bà Đạt Đa thiện tri thức cố' (佛告諸比丘、爾時王者、則我身是、時仙人者、今提婆達多是、由提婆達多善知識故、令我具足六波羅蜜、慈悲喜捨、三十二相、八十種好、紫磨金色、十力、四無所畏、四攝法、十八不共、神通道力、成等正覺、廣度眾生、皆因提婆達多善知識故, Phật bảo các Tỳ Kheo: 'Vị vua lúc bấy giờ tức là thân ta, tiên nhân lúc ấy là Đề Bà Đạt Đa; do vì Đề Bà Đạt Đa là thiện tri thức, khiến cho ta đầy đủ Sáu Ba La Mật, từ bi hỷ xả, Ba Mươi Hai Tướng, Tam Mươi Loại Sắc Đẹp, sắc hình vàng tía, Mười Lực, Bốn Vô Úy, Bốn Nhiếp Pháp, Mười Tám Pháp Bất Cọng, đạo lực thần thông, thành Đẳng Chánh Giác, độ khắp chúng sanh, đều do Đề Bà Đạt Đa là thiện tri thức').”
(s: Śākya-muni, p: Sakya-muni, 釋迦牟尼): ý là bậc Thánh nhân xuất thân từ dòng họ Thích Ca; còn gọi là Thích Ca Văn Ni (釋迦文尼), Xa Ca Dạ Mâu Ni (奢迦夜牟尼), Thích Ca Mâu Nẵng (釋迦牟曩), Thích Ca Văn (釋迦文); gọi tắt là Thích Ca (釋迦), Mâu Ni (牟尼), Văn Ni (文尼); ý dịch là Năng Nhân (能仁), Năng Nhẫn (能忍), Năng Tịch (能寂), Tịch Mặc (寂默), Năng Mãn (能滿), Độ Ốc Tiêu (度沃焦), hay Thích Ca Tịch Tĩnh (釋迦寂靜), Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn (釋迦牟尼世尊), Thích Tôn (釋尊); là đấng giáo tổ của Phật Giáo. Nguyên do xưng hiệu của Ngài có thể tìm thấy trong Quán Chư Dị Đạo Phẩm (觀諸異道品) của Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 20, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 20, A Tỳ Đàm Bát Kiền Độ Luận (阿毘曇八犍度論, Taishō Vol. 26, No. 1543) quyển 30, v.v. Đức Thích Tôn vốn là Thái Tử của vua Tịnh Phạn (s: Śuddhodana, p: Suddhodana, 淨飯) thành Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛) thuộc miền Bắc Ấn Độ. Thành này hiện tại ở vùng phụ cận Tilori-Kot (提羅里克, Đề La Lí Khắc) thuộc phía Nam Nepal (尼泊爾, Ni Bạc Nhĩ), phía Đông Bắc sông Rapti (拉布提, Lạp Bố Đề). Diện tích tiểu quốc này khoảng 320 m2, thuộc vào vương quốc Kiều Tát La (s: Kauśala, Kośalā, p: Kosala, 憍薩羅). Đương thời Bắc Ấn thực hành chế độ Cộng Hòa quý tộc, phân thành 10 bang thành nhỏ, trong đó chọn ra vị lãnh đạo có thế lực nhất, và lúc bấy giờ vua Tịnh Phạn là vị lãnh tụ tối cao. Hoàng hậu Ma Da (s: Māyā, 摩耶), mẫu thân của đức Phật, là con gái của chủ Thành Thiên Tý (s: Devadaha, 天臂) thuộc bộ tộc Cư Lợi (居利) lân quốc. Trước khi hạ sinh Thái Tử, theo tập tục đương thời, phu nhân phải quay trở về Thành Thiên Tý để chờ ngày lâm bồn, dọc đường khi đang dừng chân nghỉ tại vườn Lâm Tỳ Ni (s, p: Lumbinī, 藍毘尼), ngay dưới gốc cây Vô Ưu (s: aśoka, 無憂), nàng hạ sinh Thái Tử. Theo Tu Hành Bản Khởi Kinh (修行本起經, Taishō Vol. 3, No. 184) quyển Thượng, Phẩm Giáng Thân (降身品), khi đản sanh, đức Thích Tôn đi bảy bước, đưa tay lên nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, Tam Giới giai khổ, ngô đương an chi (天上天下、唯我爲尊、三界皆苦、吾當安之, trên trời dưới đất, chỉ ta trên hết, Ba Cõi là khổ, ta sẽ làm yên).” Ngoài ra, các điển tịch như Vị Tằng Hữu Pháp Kinh (未曾有法經) của Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō Vol. 1, No. 26) quyển 8, dị xuất bồ tát bản khởi kinh (異出菩薩本起經, Taishō Vol. 3, No. 188), Phẩm Dục Sanh Thời Tam Thập Nhị Thụy (欲生時三十二瑞品) của Phổ Diệu Kinh (普曜經, Taishō Vol. 3, No. 186) quyển 2, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō Vol. 3, No. 189) quyển 1, Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh (眾許摩訶帝經, Taishō Vol. 3, No. 191) quyển 3, Phẩm Thọ Hạ Đản Sanh (樹下誕生品) của Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 8, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 20, A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 70, v.v., đều có ghi lại nhiều tướng lạ khác nhau khi đức Thích Tôn hạ sanh. Sau khi trở về cung, Thái Tử được đặt cho tên là Tất Đạt Đa (s: Siddhārtha, p: Siddhattha, 悉達多), hay Tát Bà Tất Đạt (s: Sarva-siddhārtha, p: Sabba-siddhattha, 薩婆悉達), Tát Bà Ngạch Tha Tất Đà (s: Sarvārtha-siddha, 薩婆額他悉陀), Tát Bà Hạt Thích Tha Tất Đà (薩婆曷刺他悉陀), Tất Đạt La Tha (悉達羅他), Tất Đạt (悉達); ý dịch là Nhất Thiết Nghĩa Thành (一切義成), Nhất Thiết Sự Thành (一切事成), Tài Cát (財吉), Cát Tài (吉財), Thành Lợi (成利), Nghiệm Sự (驗事), Nghiệm Nghĩa (驗義). Sau khi sanh con được 7 ngày, phu nhân qua đời, Thái Tử được dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề (s: Mahāprajāpatī, 摩訶波闍波提) nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn. Theo Phẩm Tập Học Kỷ Nghệ (習學技藝品) của Phật Bản Hạnh Tập Kinh quyển 11, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự (根本說一切有部毘奈耶破僧事, Taishō Vol. 24, No. 1450) quyển 3, v.v., cho biết rằng thưở thiếu thời Thái Tử từng theo học tập văn chương với Bà La Môn Tỳ Xa Mật Đa (s: Viśvamitra, 毘奢蜜多), học võ nghệ với Sàn Đề Đề Bà (s: Kṣāntideva, 羼提提婆), hết thảy đều thông hiểu. Khi trưởng thành, Thái Tử kết hôn với Da Du Đà La (s: Yaśodharā, p: Yasodharā, 耶輸陀羅), con gái của Thiện Giác Vương (s: Suprabuddha, 善覺王)—thành chủ của Thiên Tý Thành, hạ sanh La Hầu La (s, p: Rāhula, 羅睺羅). Theo Phẩm Du Quán (遊觀品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh quyển Hạ cho biết rằng Thái Tử từng ra bốn cửa thành dạo chơi, thấy các hình tượng già, bệnh, chết, vị Sa Môn (s: śramaṇa, p: samaṇa, 沙門), v.v., thâm cảm được nỗi thống khổ cũng như vô thường của kiếp người, bèn dấy khởi ý chí xuất gia tu đạo. Năm lên 29 tuổi (có thuyết cho là 19), nữa đêm Người rời khỏi vương cung, tự cởi bỏ áo mão để trở thành Sa Môn. Ban đầu, Thái Tử cầu đạo với tiên nhân Bạt Già Bà (s: Bhārgava, 跋伽婆) của nước Tỳ Xá Ly (s: Vaiśālī, p: Vesālī, 毘舍離), rồi đến thọ giáo với các hiền giả A La La Ca Lam (s: Ārāḍa-kālāma, 阿羅邏迦藍), Uất Đà Ca La Ma Tử (s: Udraka-rāmaputra, 鬱陀迦羅摩子) ở Thành Vương Xá (s: Rājagṛha; p: Rājagaha, 王舍城). Cuối cùng, Người đến Khổ Hạnh Lâm ở thôn Ưu Lâu Tần La (s: Uruvilvā, 優樓頻羅) thuộc phương Nam thành Già Da (s, p: Gayā, 伽耶) của vương quốc Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), bắt đầu cuộc sống khổ hạnh trong vòng 6 năm, và có 5 người thị giả do vua Tịnh Phạn phái đến cùng tu. Trong thời gian này, mỗi ngày Người chỉ ăn một hạt mè, một hột lúa mạch, đến nỗi thân hình khô gầy, tâm thể suy kiệt, nhưng cuối cùng vẫn không thành đạo; nên Người mới ngộ được rằng khổ hạnh không phải là nhân đạt đến đạo quả, bèn rời khỏi khu rừng này. Lúc bấy giờ, 5 người cùng tu ngộ nhận rằng Thái Tử thối thất đạo tâm, nên bỏ đi. Thái Tử đến tắm rửa bên dòng sông Ni Liên Thuyền (s: Nairañjanā, 尼連禪), thọ nhận bát sữa cúng dường của cô mục nữ. Sau khi phục hồi thể lực, Người đến dưới cây Tất Bát La (s: pippala, 畢鉢羅) ở thôn Già Da, lấy cỏ Cát Tường trãi thành tòa Kim Cang, ngồi Kiết Già xoay mặt về hướng Đông, thân ngay thẳng chánh niệm, tâm tĩnh lặng mặc chiếu, tư duy về đạo giải thoát. Sau 49 ngày, vào lúc trời hừng sáng ngày mồng 8 tháng 12, Người hoát nhiên đại ngộ, lúc đó là 35 tuổi (có thuyết cho là 32). Do nhân duyên này, cây Tất Bát La được gọi là Bồ Đề Thọ (s: bodhivṛkṣa, 菩提樹). Sự kiện đức Thích Tôn hàng phục ma quân, cho đến thành đạo được ghi lại trong các điển tịch như La Ma Kinh (羅摩經) của Trung A Hàm Kinh quyển 56, Lục Niên Cần Khổ Phẩm (六年勤苦品) và Hàng Ma Phẩm (降魔品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh quyển Hạ, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh quyển 3, phật bản hạnh tập kinh quyển 26~30, Ngũ Phần Luật (五分律, Taishō Vol. 22, No. 1421) quyển 15, v.v. Sau khi thành đạo, đức Phật đến vườn Lộc Dã (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿野, tức Lộc Uyển), Thành Ba La Nại (s: Vārāṇasī, p: Bārāṇasī, 波羅奈), độ cho 5 vị thị giả đã từng cùng tu với Ngài trước đây. Các vị này sau trở thành những Tỳ Kheo nổi tiếng là A Nhã Kiều Trần Như (p: Ājñāta-Kauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 阿若憍陳如), A Thấp Bà Thị (s: Aśvajit, Aśvaka; p: Assaji, 阿濕婆恃), Bạt Đề (s: Bhadrika, p: Bhaddiya, 跋提), Ma Ha Nam (s, p: Mahānāma, 摩訶男), Bà Sa Ba (s: Bāṣpa, p: Vappa, 婆沙波, tức Thập Lực Ca Diếp [s: Daśabala-kāśyapa, p: Dasabala-kassapa, 十力迦葉]). Liên quan đến sự tích đức Phật lần đầu tiên chuyển Pháp Luân, diễn thuyết Tứ Thánh Đế (s: catvāri-āryasatyāni, p: cattāri-ariyasaccāni, 四聖諦), Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道), v.v., Chuyển Pháp Luân Kinh (轉法輪經) của Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經, Taishō Vol. 2, No. 99) quyển 15, Ngũ Phần Luật quyển 15, Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự quyển 39, v.v., có ký lục đầy đủ. Như trong Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa (法華經通義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 31, No. 611) quyển 4 có đoạn rằng: “Thích Tôn sơ ư Lộc Uyển, tam chuyển Tứ Đế pháp luân, độ tham thị ngũ nhân, nhi Kiều Trần tiên ngộ, dĩ tối sơ đắc độ (釋尊初於鹿苑、三轉四諦法輪、度參侍五人、而憍陳先悟、以最初得度, đức Thích Tôn ban đầu tại Lộc Uyển, ba lần chuyển bánh xe pháp thuyết Tứ Đế, độ năm người hầu cận tham học, mà Kiều Trần Như ngộ trước, là người đắc độ đầu tiên).” Sau này, đức Phật tự xưng là Như Lai (s, p: tathāgata, 如來). Có rất nhiều ngữ nghĩa của từ này, nhưng nghĩa chung nhất của nó là “thừa như thật chi đạo, nhi thiện lai thử Ta Bà thế giới (乘如實之道、而善來此娑婆世界, mang đạo như thật mà khéo đến thế giới Ta Bà này).” Sau khi chuyển Pháp Luân lần đâu tiên, đức Thích Tôn đến nước Ma Kiệt Đà, hóa độ 3 anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (s: Uruvilvā-kāśyapa, 優樓頻羅迦葉), Na Đề Ca Diếp (s: Nadi-kāśyapa, 那提迦葉), Già Da Ca Diếp (s: Gayā-kāśyapa, 伽耶迦葉) của phái Bái Hỏa Giáo (拜火敎) và cả ngàn đệ tử của họ. Tiếp theo, Ngài hóa độ Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗) và Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連) thuộc Phái Ngụy Biện của Lục Sư Ngoại Đạo; về sau chính hai vị này trở thành đệ tử thượng túc của đức Phật. Sau đó, tại Thành Vương Xá, vua Tần Bà Ta La (s, p: Bimbisāra, 頻婆娑羅) quy y theo đức Phật; nhà vua cho xây dựng Tinh Xá trong vườn trúc do Trưởng giả Ca Lan Đà (s: Kalanda, 迦蘭陀) dâng cúng, lấy tên là Ca Lan Đà Trúc Lâm Tinh Xá (迦蘭陀竹林精舍). Đến đây, giáo đoàn Phật Giáo phát triển với thế lực mạnh. Về sau, đức Phật có trở về cố hương Ca Tỳ La Vệ một lần, số người quy y theo rất đông, trong đó có người em cùng cha khác mẹ Nan Đà (s, p: Nanda, 難陀), con trai La Hầu La, người em họ Đề Bà Đạt Đa (s, p: Devadatta, 提婆達多), người thợ hớt tóc Ưu Ba Ly (s, p: Upāli, 優波離), v.v., mọi người đều xuống tóc xuất gia. Ngài thuyết pháp cho trưởng giả Tu Đạt Đa (s, p: Sudatta, 須達多) ở Thành Xá Vệ (s: Śrāvastī, p: Sāvatthī, 舍衛), nhân đó trưởng giả kiến lập ngôi Đại Tinh Xá trong khu rừng do Thái Tử Kỳ Đà (s, p: Jeta, 祇陀) tặng, để dâng cúng đức Phật. Đây gọi là Kỳ Hoàn Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍) hay Kỳ Viên Tinh Xá (祇園精舍). Vào lúc này, vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿) cũng phát tâm quy y với đức Phật. Sau khi vua Tịnh Phạn băng hà, đức Phật lại trở về cố hương lần nữa. Về sau, bà di mẫu Ma Ha Bà Xà Ba Đề (s: Mahāprajāpatī, p: Mahāpajāpatī, 摩訶波闍波提), công chúa Da Du Đà La (s: Yaśodharā, p: Yasodharā, 耶輸陀羅) cũng xuống tóc xuất gia, và đây được xem như là khởi đầu cho giáo đoàn Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼); trong đó Ma Ha Bà Xà Ba Đề là Tỳ Kheo Ni đầu tiên. Từ đó về sau, đức Thích Tôn đi khắp Ấn Độ thuyết pháp giáo hóa, bất luận giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, thảy đều được hưởng ân huệ giáo pháp của Ngài. Giáo pháp ấy ảnh hưởng rất lớn đối với văn hóa cũng như tôn giáo Ấn Độ. Sau khi Ngài thành đạo, những nơi Ngài đã từng trãi qua Kết Hạ An Cư, đều được ghi rõ trong Tăng Già La Sát Sở Tập Kinh (僧伽羅剎所集經, Taishō Vol. 4, No. 194) quyển Hạ. Theo đó, đức Phật đã từng trú qua các nơi như nước Ba La Nại, núi Linh Thứu (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 靈鷲山), núi Ma Câu La (s: Makula, 摩拘羅), cõi Trời Ba Mươi Ba, cõi quỷ thần, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc (祇樹給孤獨) ở Thành Xá Vệ, Chá Lê Sơn (柘梨山), v.v. Theo Phật Thuyết Bát Đại Linh Tháp Danh Hiệu Kinh (佛說八大靈塔名號經, Taishō Vol. 32, No. 1685), đức Phật từng tu khổ hạnh trên núi Tuyết Sơn, sau từng sống tại rừng Tỳ Sa (毘沙), đỉnh núi Nhã Lí (惹里), các tụ lạc Đại Dã (s: Aḷāvī, 大野), Mao Nỗ (尾努), v.v. Hơn nữa, học giả Anh quốc T.W. Rhys Davids (1843-1922) căn cứ vào tích truyện Phật Giáo của Tích Lan, Miến Điện, bản pháp cú kinh chú (p: Dhammapada atthakathā, 法句經註) tiếng Pāli, v.v., cho rằng sau khi kiến lập vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, đức Phật đã từng trú tại Đại Lâm (p: Mahā-vana, 大林) của Thành Tỳ Xá Ly (s: Vaiśāli, 毘舍離), núi Ma Câu La, Tăng Ca Xá (p: Saṅkissa, 僧迦舍), Ba Lợi Lôi Nhã Tạp (s: Parileyyaka, 巴利雷雅卡), Mạn Đặc Lạt (p: Mantala, 曼特剌), v.v. Ngoài ra, Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 3, Phân Biệt Công Đức Luận (分別功德論, Taishō Vol. 25, No. 1507) quyển 2, Cao Tăng Pháp Hiển Truyện (高僧法顯傳, Taishō Vol. 51, No. 2085), v.v., cũng có ký lục như vậy. Tổng hợp các tư liệu trên, chúng ta có thể suy ra rằng địa phương hoằng pháp của đức Phật phần lớn tập trung tại hai thành Xá Vệ và Vương Xá. Về những sinh hoạt cuối đời của Ngài, Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō Vol. 2, No. 125) quyển 26, Phật Thuyết Nghĩa Túc Kinh (佛說義足經, Taishō Vol. 4, No. 198) quyển Hạ, Xuất Diệu Kinh (出曜經, Taishō Vol. 4, No. 212) quyển 16, Tỳ Ni Mẫu Kinh (毘尼母經, Taishō Vol. 24, No. 1463) quyển 4, Ngũ Phần Luật quyển 3, 21, 25, Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 46, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự quyển 13, 14, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙, Taishō Vol. 24, No. 1462) quyển 2, v.v., có ký lục rõ ràng. Lúc bấy giờ, Đề Bà Đạt Đa muốn bức bách đức Phật phải nhường lại giáo đoàn tăng chúng cho ông, nhưng ý đồ không thành, bèn phá tăng hoại Phật. Thêm vào đó, vua Lưu Ly (琉璃), con của vua Ba Tư Nặc, sau khi tức vị, tấn công Thành Ca Tỳ La Vệ, cố hương của đức Phật, diệt vong dòng họ Thích Ca. Vào năm cuối cùng khi đức Phật còn tại thế, Ngài rời nước Ma Kiệt Đà, đi về phía Bắc sông Hằng, kinh qua Tỳ Xá Ly, đến Thành Ba Bà (s: Pāvā, 波婆), thọ nhận bữa cơm cúng dường của người thợ vàng Thuần Đà (s, p: Cunda, 純陀), và nhân vì ăn loại nấm Tô Ca Lạp Ma Đạt Phạt (s: sūkaramaddava, 蘇迦拉摩達伐, tức nấm cây Chiên Đàn) mà mắc bệnh. Trước khi lâm chung, Ngài đến tắm lần cuối cùng tại dòng sông Câu Tôn (p: Kakuṭṭha, 拘孫河), rồi đến rừng Sa La Song Thọ (沙羅雙樹) ở Thành Câu Thi Na (s: Kuśinagara, p: Kusinagara, 拘尸那), đầu xoay về hướng Bắc, mặt hướng phía Tây, nằm thế cát tường. Vào nữa đêm, Ngài để lại lời giáo huấn cuối cùng cho chúng đệ tử, rồi sau đó thì an nhiên nhập diệt. Ban đầu, di cốt của đức Thích Tôn được an trí tại Thiên Quan Tự (s: Makuṭabandhana-cetiya, 天冠寺) của bộ tộc Mạt La (s, p: Malla, 末羅), sau đó hỏa táng. Khi tham gia lễ Trà Tỳ có sứ đoàn của 8 nước, gồm Câu Thi Na Yết La (拘尸那揭羅), Ba Bà (波婆), Giá La (遮羅), La Ma Già (羅摩伽), Tỳ Lưu Đề (毘留提), Ca Tỳ La (迦毘羅), Tỳ Xá Ly (毘舍離), Ma Kiệt Đà (摩揭陀), v.v., do vấn đề phân phối Xá Lợi (s: śarīra, p: sarīra, 舍利) mà nảy sinh đấu tranh lẫn nhau. Sau đó, nhờ sự điều đình của Bà La Môn Hương Tính (s: Doṇa, 香姓) mà được yên ổn, cho nên người này có được bình Xá Lợi. Từ đó, mỗi nước dựng tháp cúng dường, và đây là phát xuất của truyền thống thập tháp (10 ngôi tháp) ngày nay. Năm đức Phật nhập diệt, tại Hang Thất Diệp (s: Sapta-parṇa-guhā, 七葉窟) của Thành Vương Xá, cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên được tiến hành. Đương thời, Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 摩訶迦葉) là người triệu tập chủ yếu; A Nan (s, p: Ānanda, 阿難) và Ưu Ba Ly (s, p: Upāli, 優波離) thì tụng đọc các Kinh Luật của Phật thuyết trên cơ sở từng được nghe qua, rồi được đại chúng thảo luận, hiệu đính để trở thành tiêu chuẩn cho Kinh Luật đời sau. Về sau, trãi qua biết bao biến thiên, giáo pháp của đức Thích Tôn được phân thành hai hệ thống chính, truyền bá khắp nơi: Nam Truyền chủ yếu là tiếng Pāli và Bắc Truyền chủ yếu là kinh điển Hán dịch. Liên quan đến năm tháng xác thật đức Phật đản sanh, xuất gia, thành đạo, lần đầu chuyển Pháp Luân, tuổi thọ, nhập diệt, v.v., trong kinh điển có nhiều thuyết khác nhau. Về tuổi thọ, có 4 thuyết chính: (1) Tam Thế Đẳng Phẩm (三世等品) của Bồ Tát Tùng Đâu Thuật Thiên Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh (菩薩從兜術天降神母胎說廣普經, Taishō Vol. 12, No. 384, tức Bồ Tát Xử Thai Kinh [菩薩處胎經]) quyển 23 cho là thọ 84 tuổi. (2) Bát Nê Hoàn Kinh (般泥洹經, Taishō Vol. 1, No. 6) quyển Hạ cho là 79 tuổi. (3) Thọ Lượng Phẩm (壽量品) của Kim Quang Minh Kinh (金光明經, Taishō Vol. 16, No. 663) quyển 1, Phật Thuyết Bát Đại Linh Tháp Danh Hiệu Kinh (佛說八大靈塔名號經, Taishō Vol. 32, No. 1685), Đại Bát Niết Bàn Kinh (p: Mahāparinibbāna-sutta, 大般涅槃經) bản tiếng Pāli, truyền thống của Miến Điện, v.v., cho là 80. (4) A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 126 cho là hơn 80. Về niên đại đản sanh của Ngài, học giả hiện đại cũng có nhiều suy định khác nhau. Học giả Nhật Bản Vũ Tỉnh Bá Thọ (宇井伯壽, Ui Hakuju, 1882-1963) cho rằng năm Phật đản sanh là 466 trước CN. Trung Thôn Nguyên (中村元, Nakamura Hajime, 1912-1999) cũng ý cứ vào thuyết này, sau lấy sử liệu mới phát hiện của Hy Lạp, sau khi khảo chứng thì cho là năm 463 trước CN. Về ngày tháng đản sanh của đức Phật, có 5 thuyết khác nhau. (1) Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Vol. 1, No. 1) quyển 4, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō Vol. 3, No. 189) quyển 1, Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 7, Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa (薩婆多毘尼毘婆沙, Taishō Vol. 23, No. 1440) quyển 2, v.v., cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Bồ Tát Giáng Than Phẩm (菩薩降身品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh (修行本起經, Taishō Vol. 3, No. 184) quyển Thượng cho là ngày mồng 7 hay 8 tháng 4. (3) Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi Kinh (太子瑞應本起經, Taishō Vol. 3, No. 185) quyển Thượng, Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi Kinh (異出菩薩本起經, Taishō Vol. 3, No. 188), Sanh Phẩm (生品) của Phật Sở Hành Tán (佛所行讚, Taishō Vol. 4, No. 192) quyển 1, Phật Thuyết Thập Nhị Du Kinh (佛說十二遊經, Taishō Vol. 4, No. 195), Phật Thuyết Quán Tẩy Phật Hình Tượng Kinh (佛說灌洗佛形像經, Taishō Vol. 16, No. 695), v.v., thì cho là ngày mồng 8 tháng 4. (4) Điều Kiếp Tỷ La Phạt Tốt Đổ Quốc (劫比羅伐窣堵國條) của Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 6 thì cho là ngày mồng 8 hậu bán tháng Vesākhā. (5) Thượng Tọa Bộ (上座部) cho là ngày 15 hậu bán tháng Vesākhā. Về ngày tháng xuất gia của đức Phật, có 5 thuyết. (1) Trường A Hàm Kinh cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh quyển 2 cho là ngày mồng 7 tháng 2. (3) Xuất Gia Phẩm (出家品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh quyển Hạ cho là ngày mồng 7 tháng 4. (4) Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi Kinh quyển Thượng, Phật Thuyết Quán Tẩy Phật Hình Tượng Kinh, v.v., cho là mồng 8 tháng 4. (5) Bản Sanh Kinh Phật Truyện (本生經佛傳) bản tiếng Pāli cho là ngày thứ 15 của tháng A Sa Trà (s: Āsāḷhā, 阿沙荼). Về ngày tháng thành đạo của Ngài, có 4 thuyết. (1) Trường A Hàm Kinh quyển 4, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh quyển 3, Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 2, v.v., cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Bản Đại Sử (p: Mahāvaṃsa, 大史) tiếng Pāli cho là ngày trăng tròn tháng Vesākhā. (3) Đại Đường Tây Vức Ký quyển 8 cho là ngày mồng 8 hậu bán tháng Vesākhā. (4) Thượng Tọa Bộ cho là ngày 15 hậu bán tháng Vesākhā. Về ngày tháng lần đầu tiên chuyển Pháp Luân, có 2 thuyết. (1) Bồ Tát Xử Thai Kinh quyển 7 cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 182 cho là ngày mồng 8 của tháng Ca Lật Để Ca (s: Kārttika, 迦栗底迦, hay Ca Hi Na [迦絺那]). Về ngày tháng nhập diệt của Ngài, có 6 thuyết khác nhau. (1) Trường A Hàm Kinh quyển 4 cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 1, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa quyển 1, v.v., cho là ngày 15 tháng 2. (3) Bài tựa của Nhất Thiết Thiện Kiến Luật (p: Samantapāsādikā, 一切善見律) bản tiếng Pāli, Luật Tạng (p: Vinaya-piṭaka, 律藏) tiếng Pāli, chương thứ 3 của Đại Sử, Điều Câu Thi Na Yết La Quốc (拘尸那揭羅國條) của Đại Đường Tây Vức Ký quyển 6, v.v., cho là ngày 15 hậu bán tháng Vesākhā. (4) Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 2 cho là ngày mồng 8 tháng 8. (5) Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 191, Đại Đường Tây Vức Ký quyển 6 viện dẫn truyện của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, p: Sabbatthivādin, 說一切有部), cho là ngày mồng 8 hậu bán tháng Ca Lật Để Ca. (6) Phật Thuyết Quán Tẩy Phật Hình Tượng Kinh cho là ngày mồng 8 tháng 4. Bên cạnh đó, liên quan đến niên đại nhập diệt của đức Thích Tôn, cũng có nhiều thuyết bất đồng. Như học giả Vũ Tỉnh Bá Thọ của Nhật thì chủ trương là năm 386 trước CN. Tiến Sĩ Trung Thôn Nguyên cho là năm 383 trước CN. Pháp sư Ấn Thuận (印順, 1906-2005) của Trung Hoa thì chủ trương năm 390 trước CN. Tổng hợp tất cả những thông tin vừa nêu trên, ngày tháng đản sanh, xuất gia, thành đạo của đức Phật có thể phân thành 3 thuyết chính: (1) ngày 8 tháng 2, (2) ngày 8 tháng 4, (3) ngày 15 tháng 2. Ngày tháng nhập diệt cũng được chia thành 3 thuyết: (1) ngày 8 tháng 2, (2) ngày 15 tháng 2, (3) ngày 8 tháng 8. Ngoài ra, Nhị Giáo Luận (二敎論) của Đạo An (道安, 312[314]-385) nhà Bắc Chu, Câu Xá Luận Bảo Sớ (俱舍論寶疏) quyển 1, v.v., so sánh tháng của lịch Ấn Độ và lịch Trung Quốc, cho rằng tháng 2 của Ấn Độ tương đương với tháng 4 của Tàu. Thêm vào đó, vào ngày mồng 1 mỗi tháng của lịch Ấn Độ thì tương đương với ngày 16 âm lịch của Trung Quốc; ngày cuối tháng thì tương đương với ngày 15 của tháng kế tiếp theo lịch của Trung Quốc.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập