Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thánh Hiến »»
(指月錄, Shigetsuroku): 32 quyển, do Cù Nhữ Tắc (瞿汝稷) nhà Minh soạn, san hành vào năm thứ 30 (1602) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆). Đây là bộ thâu lục các ngữ cú về cơ duyên, hành trạng khởi đầu với 7 vị Phật quá khứ, chư vị thánh hiền ứng hóa, 28 vị tổ Tây Thiên, 6 vị tổ sư Đông Độ, 16 đời các bậc Thiền tượng; 2 quyển cuối cùng là ngữ yếu của Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲).
(祝嘏): chúc phúc, chúc mừng lễ thọ, phần lớn dùng cho tầng lớp Hoàng thất, quý tộc, v.v. Như trong Thanh Sử Cảo (清史稿), phần Đức Tông Kỷ (德宗紀), có đoạn: “Dụ bổn niên Vạn Thọ vô dong cáo tế, đình thăng điện lễ, miễn các tỉnh văn võ đại viên lai kinh chúc hỗ (諭本年萬壽毋庸告祭、停升殿禮、免各省文武大員來京祝嘏, [vua ban] hiểu dụ rằng lễ Vạn Thọ năm nay chớ dùng cáo tế, đình chỉ việc lên điện lễ bái, miễn cho quan viên văn võ các tỉnh về kinh chúc thọ).” Hay trong tác phẩm Đối Sơn Dư Mặc (對山餘墨), chương Mỗ Công Tử (某公子), của Mao Tường Lân (毛祥麟, ?-?) nhà Thanh, cũng có câu: “Thám tri công tử đản thần, đặc lai chúc hỗ (探知公子誕辰、特來祝嘏, hỏi thăm biết sinh nhật công tử, tôi đặc biệt đến chúc mừng thọ).” Hoặc trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tục Biên (淨土聖賢錄續編, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1550) quyển 4, phần Lục An Nhân (陸安人), lại có đoạn: “Tứ tuần sinh nhật, hựu ư Sư Lâm Tự cúng phạn tăng, thân hữu chúc hỗ giả, dĩ sở phán Pháp Hoa, Hoa Nghiêm đẳng kinh thí tặng (四旬生日、又於師林寺供飯僧、親友祝嘏者、以所刊法華、華嚴等經施贈, vào ngày sinh nhật bốn mươi tuổi, ông lại cúng dường trai tăng tại Sư Lâm Tự, thân hữu đến chúc mừng thọ, lấy các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, v.v., được san hành ban tặng).”
(禔躬): an thân, tu thân; đồng nghĩa với đề thân (禔身). Như trong Minh Sử (明史), chương Ẩn Dật Truyện (隱逸傳), Lưu Mẫn (劉閔), có câu: “Cầu cổ thánh hiền đề cung huấn gia chi pháp, suất nhi hành chi (求古聖賢禔躬訓家之法、率而行之, cầu thánh hiền xưa pháp tu thân dạy nhà, dẫn dắt mà thực hành pháp đó).”
(醍醐寺, Daigo-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đề Hồ (醍醐派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiệu núi là Thâm Tuyết Sơn (深雪山), hiện tọa lạc tại Daigo (醍醐), Fushimi-ku (伏見區), Kyoto-shi (京都市). Theo truyền ký của chùa cho biết, Thánh Bảo (聖寶) là người khai sáng chùa vào năm 874 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 16). Ban đầu ông trú tại Tây Nam Viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), vùng đất chùa này là khoảng giữa của Thạch Sơn Tự (石山寺) và Đông Đại Tự. Ông điêu khắc hai bức tượng Chuẩn Đề và Quan Âm, rồi an trí trên núi. Người con gái của nhà hào tộc vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) là Dận Tử (胤子) theo làm cung phi của Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō, tại vị 887-897) và hạ sanh Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930). Hay đời sau Châu Tước Thiên Hoàng (朱雀天皇, Suzaku Tennō, tại vị 930-946) hạ sanh cũng nhờ cầu nguyện đức Chuẩn Đề. Với mối quan hệ dó, chùa được tầng lớp Hoàng Thất quy y theo. Vì thế, năm 904 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 4), Thích Ca Đường; rồi đến năm 907 thì Dược Sư Đường, Ngũ Đại Dường lần lượt được kiến lập, và đến năm 913 thì nơi đây trở thành chùa được cấp định ngạch của Hoàng triều. Vào năm 949 (niên hiệu Thiên Lịch [天曆] thứ 3), Pháp Hoa Tam Muội Đường được kiến lập dưới chân núi; đến năm 952, ngôi tháp 5 tầng hiện tồn được tạo dựng và coi như ngôi già lam được hoàn bị. Đối với các công trình kiến trúc này, hệ thống của Đề Hồ Thiên Hoàng đã có nỗ lực rất lớn; nhưng đến khi dòng họ Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara) nắm chính quyền thì sự ngoại hộ từ phía Hoàng Thất trở nên thưa thớt dần, song đến thời Viện Chính thì chùa lại được phục hưng nhờ vị Tọa Chủ xuất thân dòng họ Nguyên (源, Minamoto). Tức là các vị Tọa Chủ đời thứ 13 là Giác Nguyên (覺源, con thứ 4 của Hoa Sơn Thiên Hoàng [花山天皇, Kazan Tennō, tại vị 984-986]), đời thứ 14 là Định Hiền (定賢, con của Nguyên Long Quốc [源隆國]), đời thứ 15 là Thắng Giác (勝覺) cũng như đời thứ 18 là Thật Vận (實運, con của Nguyên Tuấn Phòng [源俊房]), đời thứ 16 là Định Hải (定海, con của Nguyên Hiển Phòng Tử [源顯房子]), đời thứ 17 là Nguyên Hải (元海, con của Nguyên Nhã Tuấn [源雅俊]), v.v. Thêm vào đó, nhờ có các danh tăng xuất hiện nên mọi người đều quy ngưỡng về chùa này. Vốn là con cháu đích truyền của Dòng Tiểu Dã (小野流), là trung tâm nghiên cứu dòng pháp, hiện tại Đề Hồ Tự vẫn bảo quản khá nhiều sách khẩu truyền, nghiên cứu, đặc biệt là các đồ hình, tượng, v.v. Vào năm 1115 (niên hiệu Vĩnh Cửu [永久] thứ 3), tiếp theo việc kiến lập Tam Bảo Viện của Thắng Giác, Kim Cang Vương Viện của Thánh Hiền (聖賢), Lý Tánh Viện của Hiền Giác (賢覺), Vô Lượng Thọ Viện của Nguyên Hải, Báo Ân Viện của Thành Hiền (成賢), Địa Tạng Viện của Đạo Giáo (道敎) lần lượt xuất hiện, hình thành nên 6 dòng phái Đề Hồ. Về mặt chính trị, dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) thì không có can hệ gì, chùa trở thành trung tâm nghiên cứu sự tướng, đồ tượng cho các tông phái. Về sau, chùa bị cháy hơn phân nữa trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁). Đến thời Nghĩa Diễn (義演) làm Tọa Chủ nơi đây, nhờ sự hỗ trợ của dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi), ông tiến hành phục hưng chùa. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), nhờ sự bảo hộ phái Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗), nên chùa không bị dao động gì cả. Chùa hiện tồn rất nhiều quần thể kiến trúc cũng như bảo vật có giá trị cấp quốc bảo như Dược Sư Đường, Khai Sơn Đường, Như Ý Luân Đường, Kim Đường, 5 bức Ngũ Đại Tôn Tượng, Diêm Ma Thiên Tượng, Đại Nhật Kim Luân, A Di Đà Tam Tôn, v.v.
(荻生徂徠, Ogyū Sorai, 1666-1728): Nho gia và là Tổ của Học Phái Cổ Văn Từ, sống vào khoảng giữa thời Giang Hộ; tên là Song Tùng (雙松); tự Mậu Khanh (茂卿); thông xưng là Vật Hữu Vệ Môn (惣右衛門); hiệu Tồ Lai (徂徠); xuất thân vùng Giang Hộ. Vì thân phụ ông, Phương Am (方庵)—thị y cho Quán Lâm Hầu (館林候, sau này là Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát [德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi]), đắc tội nên ông theo cha lên sống ở vùng Thượng Tổng (上總, Kazusa). Vào năm 1690 (Nguyên Lộc [元祿] 3), ông trở về lại Giang Hộ. Ông viết cuốn Dịch Văn Thuyền Đế (譯文筌蹄), nghiên cứu rất rõ ràng về cách đọc âm Kun của chữ Hán, nên thanh danh bắt đầu nổi dậy. Năm 1696 (Nguyên Lộc 9), ông phục vụ cho Liễu Trạch Cát Bảo (柳澤吉保), rồi cảm xúc trước thi văn của Lý Phàn Long Vương Thế Trinh (李攀龍王世貞) nhà Minh, ông chủ xướng ra Cổ Văn Từ Học (古文辭學). Khi Cương Cát qua đời và Cát Bảo lui về ẩn cư, ông rời khỏi Phiên và khai sáng trường dạy tư Gia Thục Huyên Viên (家塾萱園) tại Mao Trường Đinh (茅塲町, Kayaba-chō), Nhật Bản Kiều (日本橋, Nihonbashi); rồi hình thành nên một dòng phái là Huyên Viên Học Phái (萱園學派). Năm 1714 (Chánh Đức [正德] 4), ông cho san hành cuốn Huyên Viên Tùy Bút (萱園隨筆), phê phán Cổ Nghĩa Học Phái (古義學派) của Y Đằng Nhân Trai (伊藤仁齋) vốn lấy bộ Luận Ngữ (論語) làm trung tâm, và chủ trương Cổ Học kiểu mới, làm cơ sở lý giải chính xác Lục Kinh (六經) theo phương pháp của Cổ Văn Từ Học để làm sáng tỏ con đường của chư vị Thánh hiền xưa. Ông lấy hệ thống văn hóa đồ sộ của Trung Quốc cổ đại làm chỉ tiêu cho con đường của chư vị tiền vương, mà phê phán những ngôn thuyết của hàng Nho gia hậu thế. Biện Đạo (辨道), Biện Danh (辨名) là hai tác phẩm của ông, đã làm sáng tỏ khái niệm cơ bản về Đạo, Đức, Nhân, v.v., từ lập trường của ông. Hơn nữa, ông còn trước tác cuốn Luận Ngữ Trưng (論語徵) với lối chú thích độc đáo, rồi cống hiến bản Chính Đàm (政談) thể theo sự tư vấn của Tướng Quân Cát Tông. Chính ông đã tạo uy thế mạnh mẽ cho Huyên Viên Học Phái ở Giang Hộ, đối xứng với Cổ Nghĩa Học Phái ở kinh đô Kyoto. Đệ tử của ông có một số nhân vật kiệt xuất như Thái Tể Xuân Đài (太宰春台), Phục Bộ Nam Quách (服部南郭), Sơn Tỉnh Côn Luân (山井崑崙), An Đằng Đông Dã (安藤東野), v.v. Tư thế phục cổ của ông đã tạo ảnh hưởng lớn cho nền Quốc Học đương thời, và đương nhiên dẫn đến những phản bác về chủ thuyết của Tồ Lai. Bên cạnh các trước tác nêu trên, còn có một số tác phẩm khác của ông như Nam Lưu Biệt Chí (南留別志), v.v.
(嘉泰普燈錄, Kataifutōroku): 30 quyển, tổng mục có 3 quyển, do Lôi Am Chánh Thọ (雷庵正受) biên tập, san hành dưới thời nhà Tống. Lôi Am Chánh Thọ ở Báo Ân Quang Hiếu Tự (報恩光孝寺) thuộc Phủ Bình Giang (平江府) bắt đầu biên tập bộ này trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Thái (嘉泰, 1201-1204) đời vua Ninh Tông nhà Nam Tống, hoàn thành vào năm thứ 4 (1204), đem dâng lên đức vua xem và được phép cho nhập vào Đại Tạng Kinh. Là bộ Đăng Sử Thiền Tông kế thừa bước chân của Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄), Thiên Thánh Quảng Đăng Lục (天聖廣燈錄), Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄) và bổ sung thêm cho các bộ sử thư đi trước, tác phẩm này đã thâu tập 17 đời môn hạ của Nam Nhạc (南岳) cho đến 16 đời môn hạ của Thanh Nguyên (青原). Lôi Am cho rằng xưa nay các bộ Truyền Đăng Sử chỉ thâu lục truyền ký, hành trạng của các vị tu sĩ, chứ không đề cập đến tầng lớp vương hầu, sĩ thứ, nữ lưu, ni chúng, v.v.; cho nên trong tác phẩm này từ đầu cho đến quyển 21 thì thuộc về tầng lớp xuất gia, từ quyển 22 trở đi được chia làm các phần như Thánh Quân (聖君), Hiền Thần (賢臣), Ứng Hóa Thánh Hiền (應化聖賢), Thập Di (拾遺), Chư Phương Quảng Ngữ (諸方廣語), Niêm Cổ (拈古), Tụng Cổ (頌古), Kệ Tán (偈贊), Tạp Trước (雜著), v.v., toàn bộ thánh hiền, thứ dân đều được thâu lục vào. Vì vậy nó có tên là Phổ Đăng Lục (普燈錄, Futōroku). Ngoài san bản nhà Tống ra, còn có khá nhiều dị bản như Bản Ngũ Sơn, v.v.
(憲深, Kenjin, 1192-1263): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng đầu và giữa thời kỳ Liêm Thương, trú trì đời thứ 35 của Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji), tổ của Dòng Báo Ân Viện (報恩院流); húy là Hiến Thâm (憲深), thông xưng là Báo Ân Viện Tăng Chánh (報恩院僧正), Kiểm Hiệu Tăng Chánh (檢校僧正), hiệu là Cực Lạc Phòng (極樂房); con của Thị Tùng Đằng Nguyện Thông Thành (藤原通成). Năm 1214, ông thọ Truyền Pháp Quán Đảnh với Thành Hiền (成賢) ở Tam Bảo Viện (三寶院) của Đề Hồ Tự; chuyên tâm nghe pháp và thọ lãnh mật ấn. Sau đó, ông thiết lập giáo trường ở Báo Ân Viện (報恩院), khai sáng một dòng phái và giáo huấn cho nhóm Lại Du (賴瑜), Định Thọ (定壽), Thánh Thủ (聖守). Vào năm 1251, ông tựu nhiệm chức Tọa Chủ Đề Hồ Tự; vì triều đình mà tiến hành tu bí pháp và tương truyền có linh nghiệm. Đến năm 1253, ông nhường chức Tọa Chủ lại cho Thật Thâm (實深) và làm Kiểm Hiệu. Vào năm 1255, ông được thăng chức Tăng Chánh. Trước tác của ông để lại có rất nhiều như Hạnh Tâm Lưu Quán Đảnh Cực Bí Khẩu Quyết Sao (幸心流灌極秘口決抄) 1 quyển, Hạnh Tâm Sao (幸心抄) 5 quyển, Đại Pháp Ngoại Nghi (大法外儀) 1 quyển, Hành Pháp Ngoại Nghi Pháp Tắc Tập (行法外儀法則集) 1 quyển, Báo Ân Viện Ký (報恩院記) 1 quyển, v.v.
(花筵): nguyên nghĩa là chiếc chiếu mỹ lệ được trang trí những hoa văn trang nhã, tuyệt đẹp; loại chiếu này thường được dùng trong các buổi yến hội, tiệc tùng và đặc biệt để dọn bày các phẩm vật dâng cúng; từ đó, dọn mâm cúng được gọi là “thiết hoa diên (設花筵, dọn chiếu hoa).” Như trong bài Thất Tịch Phú (七夕賦) của Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường có câu: “Phất hoa diên nhi thảm trắc, phi diệp tự nhi thản dương, kết diêu tình ư Hán Mạch, phi vĩnh đệ ư Hà Trang (拂花筵而慘惻、披葉序而徜徉、结遥情於汉陌,飞永睇於霞庄。結遙情於漢陌、飛永睇於霞莊, bày chiếu hoa mà thảm thương, mang chùm lá mà đùa vui, kết tình xa nơi Hán Mạch, phóng mắt nhìn chốn Hà Trang).” Hay trong bài thơ Bệnh Trung Giá Nữ Kĩ (病中嫁女妓) của Tư Không Thự (司空曙, ?-?) nhà Đường lại có câu: “Vạn sự thương tâm tại mục tiền, nhất thân thùy lệ đối hoa diên (萬事傷心在目前、一身垂淚對花筵, vạn chuyện thương tâm trước mắt mình, một thân rơi lệ trước chiếu hoa).” Cũng như trong bài Cửu Nhật Phụng Bồi Thị Trung Yến Hậu Đình (九日奉陪侍中宴後亭) của Lô Luân (盧綸, 739-799) nhà Đường có câu: “Ngọc hồ khuynh cúc tửu, nhất cố đắc yêm lưu, thái bút chinh mai tẩu, hoa diên vũ mạc sầu, quản huyền năng trú cảnh, tùng quế bất đình thu, vi tạ bồng hao bối, như hà sương tản trù (玉壺傾菊酒、一顧得淹留、彩筆征枚叟、花筵舞莫愁、管弦能駐景、松桂不停秋、爲謝蓬蒿輩、如何霜霰稠, bình ngọc rót rượu cúc, ngoảnh nhìn còn ngâm mãi, bút màu lão đồ già, chiếu hoa múa thêm buồn, dây đàn dừng cảnh vật, tùng quế chẳng giữ thu, cám ơn hàng bèo cỏ, sao biết sương tuyết nhiều).” Câu “ngưỡng tuân giáo điển, kính thiết hoa diên (仰遵敎典、敬設花筵)” có nghĩa là cung kính tuân theo lời dạy của thánh hiền, thành tâm thiết bày lễ cúng.
(和光同塵): vốn xuất xứ từ lời dạy của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh (道德經) rằng: “Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần (和其光、同其塵, hòa với ánh sáng ấy, đồng với bụi trần ấy)”; nghĩa là cùng với trần tục hợp lại với nhau, nhưng không tự lập dị. Theo Phật Giáo, từ này chỉ cho chư Phật, Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà ẩn tàng ánh sáng trí tuệ, lấy phương tiện quyền giả của Ứng Hóa Thân (應化身) mà sanh ra nơi cõi trần thế đầy rẫy phiền não, khổ đau; cùng kết duyên với chúng sanh, dần dần dẫn dắt họ đến với Phật pháp, nhưng vẫn siêu trần thoát tục; như trường hợp Phổ Môn Thị Hiện của Bồ Tát Quan Âm (s: Avalokiteśvara, 觀音), v.v. Như trong Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀, Taishō Vol. 46, No. 1911) quyển 6 có dạy rằng: “Hòa quang đồng trần, kết duyên chi thỉ; Bát Tướng Thành Đạo, dĩ luận kỳ chung (和光同塵、結緣之始、八相成道、以論其終, hòa quang đồng trần, ban đầu kết duyên; Tám Tướng Thành Đạo, để luận chung cuộc).” Tuy nhiên, Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 375) quyển 6 lại đưa ra thuyết “hòa quang bất đồng trần (和光不同塵)” với ý nghĩa rằng chư Phật, Bồ Tát vì muốn đạt mục đích cứu độ chúng sanh nên cùng hòa hợp với chúng sanh nơi cõi trần thế, nhưng không bị ô nhiễm. Cho nên, Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Ký (維摩經略疏垂裕記, Taishō Vol. 38, No. 1779) quyển 5 có dạy rằng: “Hòa quang bất đồng kỳ trần giả phương tiện hiện tật, cố viết hòa quang; nội vô hoặc nghiệp, cố bất đồng trần (和光不同其塵者方便現疾、故曰和光、內無惑業、故不同塵, hòa cùng ánh sáng mà chẳng đồng với bụi trần ấy, phương tiện hiện ra tật bệnh, nên gọi là hòa quang; trong không có nghiệp mê hoặc, nên không đồng trần).” Trong Quy Sơn Cảnh Sách Chú (溈山警策註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1239) lại có câu rằng: “Ẩn mai kỳ tích nhi hòa quang đồng trần, thao tàng hư danh nhi khử hoa vụ thật (隱晦其跡而和光同塵、韜藏虛名而去華務實, mai danh ẩn tích mà hòa quang đồng trần, giấu kín hư danh mà bỏ hoa lấy quả).” Hay trong Phạm Võng Kinh Trực Giải (梵網經直解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 38, No. 697) cũng có đoạn rằng: “Chư Phật Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh, tất nhiên ẩn Thánh hiện liệt, hòa quang đồng trần, dĩ đồng chúng sanh thân tướng sự nghiệp, như ảnh tùy hình, cửu hóa phương quy, sử kỳ giải thoát; thị cố giả thọ Tứ Đại huyễn thân, giả thọ Ngũ Uẩn hình mạng, nhi nhập lợi ích Tam Muội (諸佛菩薩、敎化眾生、必然隱聖現劣、和光同塵、以同眾生身相事業、如影隨形、久化方皈、使其解脫、是故假受四大幻身、假受五蘊形命、而入利益三昧, chư Phật Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh, tất nhiên giấu sự Thánh thiện mà hiện ra sự yếu kém, hòa quang đồng trần, để cùng với thân tướng sự nghiệp của chúng sanh, như bóng theo hình, hóa độ lâu mới quy phục; cho nên mới giả thọ thân huyễn Bốn Đại, giả thọ hình hài Năm Uẩn, mà nhập vào lợi ích Tam Muội).”
(鴻名): tên to lớn, vĩ đại, trọng thể; hay danh hiệu linh thiêng. Như trong Khai Nguyên Nguyên Niên Xá Thư (開元元年赦書) của Tô Đĩnh (蘇頲, 670-727) nhà Đường có câu: “Hồng danh bất khả dĩ thâm cự, thạnh điển bất khả dĩ cố vi (鴻名不可以深拒、盛典不可以固違, tên vĩ đại không thể nào chối từ, lễ trọng thể không thể nào sai phạm).” Hay trong bài Hao Lí Khúc (蒿里曲) của Tôn Chi Úy (孫枝蔚, 1620-1687) nhà Thanh có câu: “Thiên tử hữu đạo trọng nhân mạng, hồng danh hách hách thùy vô cùng (天子有道重人命、鴻名赫赫垂無窮, thiên tử có đạo xem trọng mạng người, tiếng tăm lừng lẫy mãi không cùng).” Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tục Biên (淨土聖賢錄續編, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1550) quyển 3 có đoạn: “Phật duyên hạnh ngộ thức hồng danh, hỏa cấp Tây quy thử nhất sanh, bất hướng thử sanh bính lực khứ, bào thai tái nhập đọa vô minh (佛緣幸遇識鴻名、火急西歸此一生、不向此生拼力去、胞胎再入墮無明, duyên Phật may gặp biết hồng danh, gấp rút về Tây một kiếp nhanh, chẳng để một đời phí uổng sức, bào thai đọa nữa mãi vô minh).” Hay trong Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Luân Quán (地藏本願經綸貫, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 383) lại có câu rằng: “Kim phù chư Phật danh hiệu, danh thật giai chơn; cố tài cử hồng danh, vạn đức toàn bị, nhất xưng gia hiệu, chúng tội tề tiêu (今夫諸佛名號、名實皆眞、故纔舉鴻名、萬德全備、一稱嘉號、眾罪齊消, nay phàm danh hiệu của chư Phật, tên gọi chân thật; cho nên vừa mới xướng hồng danh thì muôn đức có đủ, xưng một thánh hiệu, các tội đều tiêu).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập