Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Đế »»

(金山): núi vàng, từ này được dùng để ví dụ cho thân Phật; như trong Phẩm Tựa của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) có câu: “Thân sắc như kim sơn, đoan nghiêm thậm vi diệu (身色如金山、端嚴甚微妙, thân màu như núi vàng, đoan nghiêm thật vi diệu).” Hay trong Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 27, phẩm Hướng Bồ Đề Thọ (向菩提樹品), còn có câu: “Thử tất thiên quang tân nhật xuất, uy đức chiếu diệu như kim sơn, lân mẫn nhất thiết chư thiên nhân, tạm đáo thọ vương như sư tử (此必千光新日出、威德照耀如金山、憐愍一切諸天人、漸到樹王如師子, đây ắt hào quang trời mới mọc, oai đức chiếu tỏa như núi vàng, thương xót hết thảy các trời người, tạm đến dưới cây như sư tử).” Hoặc trong Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (大方等陀羅尼經, Taishō Vol. 21, No. 1339) quyển 1, lại có đoạn: “Thế Tôn thân sắc như kim sơn, do như nhật quang chiếu thế gian, năng bạt nhất thiết chư khổ não, ngã kim khể thủ đại pháp vương (世尊身色如金山、猶如日光照世間、能拔一切諸苦惱、我今稽首大法王, Thế Tôn thân màu như núi vàng, giống như mặt trời chiếu thế gian, có thể bạt trừ các khổ não, con nay cúi lạy đấng pháp vương).” Kim sơn còn chỉ cho núi vàng bảy tầng ở chung quanh Tu Di Sơn (s, p: Sumeru, 須彌山).
(沙石集, Sasekishū hay Shasekishū): bộ sách kể chuyện Phật Giáo dưới thời đại Liêm Thương, gồm 10 quyển, do Vô Trú Đạo Hiểu (無住道曉, Mujū Dōgyō) trước tác từ năm thứ 2 (1279) niên hiệu Hoằng An (弘安) cho đến năm 6 (1283) cùng niên hiệu trên thì hoàn thành. Ban đầu tác phẩm được viết suông sẻ từ quyển 1 đến 5; nhưng rồi bị gián đoạn, dừng giữa chừng, và sau đó mới hoàn thành phần còn lại. Nếu nhìn từ tư tưởng Phật Giáo, Sa Thạch Tập thể hiện quan điểm tôn trọng việc tu hành, tư tưởng Không của Phật Giáo Đại Thừa, tư tưởng Tam Đế Viên Dung (三諦圓融) của Thiên Thai Tông, và quan niệm phủ định sự chấp trước đối với thế tục. Tác phẩm này chủ trương tính cọng thông của các tông phái, khắp nơi đều nêu rõ thái độ giảm thiểu sự luận tranh giữa các tông phái với nhau. Vô Trú được xem như là vị tăng học cả hai tông Lâm Tế và Chơn Ngôn; nên ông thể hiện rõ lập trường độc đáo dung hợp cả hai tông ấy. Ngoài Vô Trú ra, người có được lập trường như vậy không dễ mấy ai. Trong quyển 1, phần lớn ghi lại những việc liên quan đến sự tập hợp của Thần Phật, Bản Địa Thùy Tích (本地垂迹). Về danh nghĩa, Sa Thạch Tập có nghĩa là “lấy vàng ra từ cát, lấy ngọc ra từ đá” với ý nghĩa thuyết Chân Đế của phật giáo từ những sự việc mang tính thế tục; là một tác phẩm văn học trích dẫn khá nhiều kinh điển từ lập trường của vị tu sĩ, tạo sự hứng thú liên tục cho độc giả. Trước tác này có nội dung đa dạng, từ câu chuyện linh nghiệm cũng như truyện chư vị cao tăng của các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, cho đến sự tình do Vô Trú thấy nghe được ở các tiểu quốc, thực tế sinh hoạt của tầng lớp thứ dân, chuyện đàm tiếu, v.v. Chính lời văn nhẹ nhàng, thanh thoát của Sa Thạch Tập đã tạo ảnh hưởng to lớn đối với Đồ Nhiên Thảo (徒然草, Tsurezuregusa), Cuồng Ngôn (狂言), Lạc Ngữ (落語) sau này.
(三德): tức là Pháp Thân Đức (法身德), Bát Nhã Đức (般若德) và Giải Thoát Đức (解脫德). Căn cứ vào Phẩm Tựa của Kinh Đại Bát Niết Bàn, khi Phật sắp nhập diệt, các Phật tử đã chuẩn bị rất nhiều phẩm vật để dâng lên cúng dường đức Phật và chư Tăng một lần sau cuối. Những thực phẩm rất phong phú, đặc biệt có đầy đủ ba đức tính và sáu hương vị. Nghĩa là những thức ăn dâng cúng cho Phật và tăng thì phải đầy đủ 3 đức tính (yếu tố), gồm:
(1) Trong sạch, không nhơ nhớp;
(2) Mềm mại, ngon ngọt;
(3) Như pháp, tùy thời mà chế biến, làm ra đúng pháp.
Tam Đức này tượng trưng cho Ba Thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân) của Phật hoặc ba đức tướng (Trí Đức, Đoạn Đức, Ân Đức) của quả vị Phật. Từ sự kiện lịch sử này, đời sau, các chùa thường thiết lễ Cúng Ngọ và đọc câu “Tam Đức, Lục Vị, cúng Phật cập tăng, pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường (三德六味、供佛及僧、法界有情、普同供養, ba đức, sáu vị, cúng Phật cùng tăng, cùng khắp cúng dường).” Trong Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 90 có đoạn rằng: “Tại kính tắc Tam Đế viên dung, tại tâm tắc Tam Quán câu vận, tại nhân tắc Tam Đạo tương tục, tại quả tắc Tam Đức châu viên, như thị bản mạt tương thâu, phương nhập Đại Niết Bàn bí mật chi tạng (在境則三諦圓融、在心則三觀俱運、在因則三道相續、在果則三德周圓、如是本末相收、方入大涅槃祕密之藏, nơi kính thì Ba Đế viên dung, nơi tâm thì Ba Quán vận hành, nơi nhân thì Ba Đường liên tục, nơi quả thì Ba Đức tròn khắp, như vậy gốc ngọn cùng thâu, rồi nhập vào kho tàng bí mật của Đại Niết Bàn).” Hay như trong Thiền Môn Yếu Lược (禪門要略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 55, No. 908) cũng có câu: “Hựu Tam Quán thành cố tức Tam Đức mãn, Trung Quán thành tức Pháp Thân mãn, Giả Quán thành tức Bát Nhã mãn, Không Quán thành tức giải thoát mãn, Tam Đức mãn cố danh Bí Mật Tạng (又三觀成故卽三德滿、中觀成卽法身滿、假觀成卽般若滿、空觀成卽解脫滿、三德滿故名秘密藏, lại Ba Quán thành nên Ba Đức tròn, Trung Quán thành tức Pháp Thân tròn, Giả Quán thành tức Bát Nhã tròn, Không Quán thành tức giải thoát tròn, vì Ba Đức tròn nên gọi là Kho Tàng Bí Mật).” Hoặc như trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集, Taishō Vol. 48, No. 2017) quyển Trung lại có câu: “Lịch Ngũ Vị Bồ Đề chi đạo, nhập Tam Đức Niết Bàn chi thành, luyện Tam Nghiệp nhi thành Tam Luân, ly Tam Thọ nhi viên Tam Niệm (歷五位菩提之道、入三德涅槃之城、練三業而成三輪、離三受而圓三念, trãi qua con đường Bồ Đề Năm Vị, vào thành trì Niết Bàn Ba Đức, luyện Ba Nghiệp trở thành Ba Luân, lìa Ba Thọ tròn thành Ba Niệm).”
(中秋節): đây là ngày Tết truyền thống của nhân dân các nước Đông Á, vốn khởi nguồn từ Trung Quốc, nhằm vào ngày rằm tháng 8 Âm Lịch hằng năm. Theo Âm Lịch Trung Quốc, tháng Tám là tháng thứ hai của mùa Thu; xưa kia gọi là Trọng Thu (仲秋); sau này dân gian gọi là Trung Thu (中秋), Thu Tịch (秋夕), Bát Nguyệt Tiết (八月節), Bát Nguyệt Bán (八月半), Nguyệt Tịch (月夕), Nguyệt Tiết (月節). Hơn nữa, do vì vào lúc này mặt trăng tròn đầy, tượng trưng cho sự đoàn viên, nên có tên là Đoàn Viên Tiết (團圓節). Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, các nước như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, v.v., cũng xem Tết Trung Thu như là ngày Tết truyền thống của quốc gia. Từ ngữ “Trung Thu” được tìm thấy sớm nhất trong các thư tịch Chu Lễ (周禮), Lễ Ký (禮記), v.v. Như trong chương Nguyệt Lịnh (月令) của Lễ Ký có ghi rằng: “Trung Thu chi nguyệt dưỡng suy lão, hành mi chúc ẩm thực (仲秋之月養衰老、行糜粥飲食, tháng của giữa Thu dưỡng tuổi già, nấu cháu kê mà ăn uống).” Từ thời nhà Đường (唐, 618-907) trở về sau, Tết Trung Thu trở thành ngày Têt cố định. Truyền thuyết cho rằng vua Đường Huyền Tông Lý Long Cơ (唐玄宗李隆基, tại vị 658-762) mộng thấy đi chơi trên cung trăng, thưởng thức nhạc trời gọi là Nghê Thường Vũ Y Khúc (霓裳羽衣曲), từ đó dân gian bắt đầu thịnh hành tập tục Tết Trung Thu. Thông thường, người ta vẫn cho rằng lễ Tết này bắt đầu thịnh hành dưới thời nhà Tống (宋, 960-1279). Đến cuối thời nhà Nguyên (元, 1271-1368), khi khởi binh, Chu Nguyên Chương (朱元璋, tại vị 1368-1398) có bí mật lấy bánh Trung Thu làm tín hiệu “bát nguyệt thập ngũ nhật sát Thát Tử (八月十五日殺韃子, ngày Rằm tháng Tám giết quân Mông Cổ)”; cho nên vào năm 1368 (Hồng Võ [洪武] nguyên niên), Chu Nguyên Chương cho lấy bánh Trung Thu làm bánh ngọt thiết đãi quần thần. Vào thời nhà Minh (明, 1368-1644) và Thanh (清, 1616-1636), Tết Trung Thu đã trở thành một trong những ngày Tết truyền thống lớn nhất của Trung Quốc. Bộ Chánh Đức Giang Ninh Huyện Chí (正德江寧縣誌) có ghi lại rằng vào đêm Trung Thu, người dân Nam Kinh thường thưởng thức trăng Thu, cả nhà cùng nhau ngắm trăng được gọi là khánh đoàn viên (慶團圓), ngồi quanh quần ăn uống vui vẻ gọi là viên nguyệt (圓月), ra ngoài đi chơi các phố phường gọi là tẩu nguyệt (走月). Một trong những truyền thuyết nổi tiếng về nguồn gốc của Tết Trung Thu là Thường Nga Bôn Nguyệt (嫦娥奔月, Thường Nga [Hằng Nga] đùa giỡn với trăng). Tương truyền từ thời cổ đại xa xưa, anh hùng bắn mặt trời là Hậu Nghệ (后羿) cưới Hằng Nga làm vợ, trở thành đế vương, thường thi hành chính sách hung bạo, ác độc. Có một hôm nọ, Hậu Nghệ xin được một bao thuốc trường sinh bất tử từ tay Tây Vương Mẫu (西王母). Hậu Nghệ mang thuốc về nhà và cất vào trong một cái hộp. Hằng Nga biết được, sợ rằng sau khi uống thuốc này vào thì Hậu Nghệ sẽ trở thành trường sinh bất tử, làm cho muôn dân càng thống khổ hơn, bèn lấy toàn bộ thuốc ấy uống sạch, sau đó biến thành tiên nữ, bay lên trên cung trăng. Bá tánh sau khi biết Hằng Nga thành tiên bay lên cung trăng rồi, thiết bàn hương án dưới mặt trăng, cầu xin tiên nữ ban cho bình an, cát tường. Vì vậy có phong tục lạy mặt trăng vào dịp Tết Trung Thu. Mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều có những tập tục trong dịp Tết Trung Thu. Tại Trung Hoa, có một số phong tục chính như ngắm trăng Trung Thu, ăn Bánh Trung Thu, treo hay rước lồng đèn, đốt tháp đồ mã, v.v. Tập tục ngắm trăng được xem như là một trong những hoạt động truyền thống vào dịp này. Trong Lễ Ký có từ “Thu mộ tịch nguyệt (秋暮夕月)”, ý là bái tế Thần Mặt Trăng; vào lúc này thì thiết hương án để nghinh đón mùa lạnh và tế mặt trăng. Như trong Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) có ghi rằng: “Trung Thu dạ, quý gia kết sức đài tạ, dân gian tranh chiếm tửu lâu ngoạn nguyệt (中秋夜、貴家結飾台榭、民間爭占酒樓玩月, vào đêm Trung Thu, nhà cao sang thì trang trí đài cao, dân gian thì tranh nhau chiếm quán rượu để ngắm trăng).” Về Bánh Trung Thu, dân gian Trung Quốc có câu rằng: “Bát nguyệt thập ngũ nhật chánh viên, Trung Thu nguyệt bính hương hựu điềm (八月十五日正圓、中秋月餅香又甜, ngày Rằm tháng Tám trăng thật tròn, ăn bánh Trung Thu hương ngọt thơm).” Trong Mộng Lương Lục (夢梁錄) của Ngô Tự Mai (吳自牧, ?-?) nhà Nam Tống cho biết rằng Bánh Trung Thu đương thời là một loại thực phẩm điểm tâm. Sau này, loại bánh này được đem dùng ăn ngắm trăng và đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào dịp lễ hội này. Đồng thời, Bánh Trung Thu cũng là lễ vật để liên lạc cảm tình giữa bằng hữu với nhau trong dịp Tết Trung Thu. Ngoài các loại bánh thông thường ra, tại Triết Giang (江浙) còn có Bánh Trung Thu Thịt Tươi (鮮肉月餅, Tiên Nhục Nguyệt Bính). Riêng tập quán đốt tháp vàng mã rất thịnh hành ở các vùng nông thôn của Phúc Kiến (福建), Giang Tây (江西), Quảng Đông (廣東), Quảng Tây (廣西), v.v. Thân của tháp được kết thành bởi những miếng gạch vỡ vụn, thân cây, cỏ bện; hình tròn, trên nhỏ dưới to, bên trong rỗng. Tại bán đảo Triều Tiên, lễ hội này được gọi là Thu Tịch (秋夕), Trọng Thu Tiết (仲秋節), Gia Bài (嘉俳), Trọng Thu (仲秋), Gia Bài Nhật (嘉俳日), Trọng Thu Giai Tiết (仲秋佳節). Nhân ngày này, người dân ở đây có phong tục thường đi tảo mộ, lấy các loại sản phẩm thu hoạch được để cúng tế tổ tiên, trở về quê thăm người thân, v.v. Đối với Nhật Bản, Tết Trung Thu được gọi là Thập Ngũ Dạ (十五夜, jūgoya), Trung Thu Danh Nguyệt (中秋の名月, chūshū-no-meigetsu), Vu Danh Nguyệt (芋の名月, imo-no-meigetsu). Người Nhật cũng có phong tục ngắm trăng gọi là nguyệt kiến (月見, tsukimi) và ăn loại bánh gọi là tsukimidango (月見團子, nguyệt kiến đoàn tử). Đặc biệt đối với Việt Nam, Tết Trung Thu đã trở thành ngày Tết long trọng của trẻ em, còn được gọi là Tết Trông Trăng hay Tết Thiếu Nhi, Tết Nhi Đồng. Trẻ em Việt Nam rất mong đợi được đón Tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước, v.v., rồi các thứ bánh như bánh nướng, bánh dẻo. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức Múa Lân, Múa Sư Tử, Múa Rồng để các em vui chơi thỏa thích. Thi sĩ Tản Đà (傘沱, 1889-1939) có làm bài thơ về Trung Thu rằng: “Có bầu có bạn can chi tủi, cùng gió cùng mây thế mới vui, rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám, tựa nhau trông xuống thế gian cười.” Hay trong bài hát Rước Đèn Tháng Tám có câu như: “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường, lòng vui sướng với đèn trong tay, em múa ca trong ánh trăng rằm, đèn ông sao với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn bướm bướm, em rước đèn này đến cung trăng, đèn xanh lơ với đèn tím tím, đèn xanh lam với đèn trắng trắng, trong ánh đèn rực rỡ muôn màu.” Tết Trung Thu là một đề tài vô cùng phong phú cho các thi hào, văn sĩ. Như trong bài Thu Tiêu Nguyệt Hạ Hữu Hoài (秋宵月下有懷) của Mạnh Hạo Nhiên (孟浩然, 689-740) nhà Đường có câu: “Thu không minh nguyệt huyền, quang thái lộ triêm thấp, kinh thước thê vị định, phi oanh quyển liêm nhập (秋空明月懸、光彩露沾濕、驚鵲棲未定、飛螢捲簾入, trời Thu trăng sáng tỏ, rực rỡ sương thấm ướt, chim khách không bến đậu, đóm bay cuộn rèm thưa).” Thi nhân Trương Cửu Linh (張九齡, 678-740) nhà Đường lại diển tả một sắc thái khác qua bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn (望月懷遠): “Hải thượng sanh minh nguyệt, thiên nhai cọng thử thời, tình nhân oán dao dạ, cánh tịch khởi tương tư (海上生明月、天涯共此時、情人怨遙夜、竟夕起相思, trên biển vừng trăng sáng, bờ trời cùng lúc này, tình nhân đêm não nuột, trọn buổi ôm tương tư).” Trong bài Bát Nguyệt Thập Ngũ Nhật Dạ Bồn Đình Vọng Nguyệt (八月十五日夜湓亭望月), thi hào Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường đã gởi gắm cả nỗi niềm hoài vọng của ông rằng: “Tích niên bát nguyệt thập ngũ dạ, Khúc Giang trì bạn hạnh viên biên, kim niên bát nguyệt thập ngũ dạ, Bồn phố sa đầu thủy quán tiền, Tây Bắc vọng hương hà xứ thị, Đông Nam kiến nguyệt kỷ hồi viên, tạc phong nhất xuy vô nhân hội, kim dạ thanh quang tợ vãng niên (昔年八月十五夜、曲江池畔杏園邊、今年八月十五夜、湓浦沙頭水館前、西北望鄉何處是、東南見月幾回圓、昨風一吹無人會、今夜清光似往年, năm xưa đêm Rằm tháng Tám ấy, cạnh hồ Khúc Giang vườn mơ thơm, năm nay đêm Rằm tháng Tám đến, sông Bồn bãi cát quán nước còn, Tây Bắc trông quê nào chốn nhỉ, Đông Nam trăng ngắm mấy lần tròn, gió thổi hôm qua đâu ai gặp, đêm nay sáng tỏ tợ năm nào).” Vương Kiến (王建, ?-?), thi nhân nhà Đường, cũng chia xẻ cùng nỗi niềm qua bài Thập Ngũ Dạ Vọng Nguyệt (十五夜望月): “Trung đình địa bạch thọ thê nha, lãnh lộ vô thanh thấp quế hoa, kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng, bất tri Thu tư lạc thùy gia (中庭地白樹棲鴉、冷露無聲濕桂花、今夜月明人盡望、不知秋思落誰家, giữa sân nền sáng quạ trên xa, sương lạnh im lìm ướt quế hoa, đêm nay trăng tỏ người ngắm trọn, nào hay Thu niệm rụng ai nhà).” Trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 30 có đoạn rằng: “Phỉ tấn phỉ tu siêu Thập Địa, vô văn vô đắc việt Tam Kỳ, Trung Thu ngọc thố đoàn đoàn thạnh, bán dạ khuê đồng toàn toàn khuy, nhập hải ba tư tham bất dĩ, nghĩ tương từ khí hoán Ma Ni (匪進匪修超十地、無聞無得越三祇、中秋玉兔團團盛、半夜圭桐旋旋虧、入海波斯貪不已、擬將瓷器換摩尼, chẳng tiến chẳng tu qua Mười Địa, không nghe không chứng vượt Ba Kỳ, Trung Thu trăng sáng tròn vành vạnh, đêm nửa ngô đồng gió vút vi, vào biển sóng cồn tham chẳng dứt, nghĩ đem đồ sứ đổi Ma Ni).” Hay trong Hoàn Khê Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (環溪惟一禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1388) quyển Thượng lại có câu: “Kiểu khiết Trung Thu nguyệt, thanh quang xứ xứ đồng (皎潔中秋月、清光處處同, sáng rực Trung Thu nguyệt, trong vắt chốn chốn cùng).”
(神秀, Jinshū, 605-706): vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, xuất thân Huyện Úy Dân (尉民縣), Biện Châu (汴州, phía Nam Khai Phong, Hà Nam), họ Lý (李), thân cao 8 thước, mắt rộng mày dài, có đức tướng uy nghiêm. Theo bia văn của Trương Thuyết (張說), lúc nhỏ ông đã đọc các kinh sử (Nho học), học rộng nghe nhiều. Vào năm thứ 8 (625) niên hiệu Võ Đức (武德), ông xuất gia tại Thiên Cung Tự (天宮寺), Lạc Dương (洛陽). Sau đó, ông đi tìm thầy học đạo, đến Song Phong Tự (雙峰寺) ở Huyện Hoàng Mai (黃梅縣), Kì Châu (蘄州) tham yết Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (弘忍), thề nguyện chịu đựng tất cả khổ nhọc chỉ một lòng cầu đạo mà thôi. Lúc đó ông đã 50 tuổi. Nhờ đức nhẫn thụyc ấy, trong chúng ai cũng kính phục và trở thành Thượng Tọa trong chúng môn hạ hơn 700 người của Ngũ Tổ; cho nên ông có tên gọi là Thượng Tọa Thần Tú. Ông cũng có quan hệ thân thiện với Đại Giám Huệ Năng (大鑒慧能). Bài kệ nổi tiếng của ông là “thân thị bồ đề thọ, tâm như minh kính đài, thời thời cần phất thức, mạc sử nhạ trần ai (身是菩提樹、心如明鏡臺、時時勤拂拭、莫使惹塵埃, thân là cây bồ đề, tâm như đài gương sáng, hằng ngày siêng lau quét, chớ để nhuốm bụi trần)”. Vào tháng 10 năm thứ 2 (675) niên hiệu Thượng Nguyên (上元) đời vua Cao Tông nhà Đường, khi Hoằng Nhẫn viên tịch, ông chuyển đến Đương Dương Sơn (當陽山) ở Giang Lăng (江陵) giáo hóa, chúng đạo tục quy tụ về rất đông, từ đó đạo phong và tiếng tăm của ông càng vang xa. Trong thời gian niên hiệu Cửu Thị (久視, 700), Tắc Thiên Võ Hậu (則天武后) nghe tiếng của ông, cho triệu vào cung nội và cho xây dựng ở Đương Dương Sơn ngôi Độ Môn Tự (度門寺). Đến khi vua Trung Tông lên ngôi, vua lại càng trọng hậu ông và vị quan Trung Thư Lệnh Trương Thuyết (張說) cũng lấy lễ bái ông làm thầy. Vua Duệ Tông (睿宗) thì rất kính mộ ông, cho nên ông được gọi là Tam Đế Quốc Sư (三帝國師), được suy cử làm Pháp Chủ của Trường An và Lạc Dương trong vòng 6 năm. Chính ông đã từng tâu lên Võ Hậu cho triệu thỉnh Huệ Năng, nhưng Huệ Năng cố từ, trả lời rằng ông đã có duyên với Lãnh Nam (嶺南) rồi, nên không đến Đại Dữu Lãnh (大庾嶺) nữa, từ đó trong Thiền môn có câu “Nam Năng Bắc Tú (南能北秀, phía Nam có Huệ Năng, phía Bắc có Thần Tú)”. Ông thị tịch vào tháng 2 năm thứ 2 niên hiệu Thần Long (神龍) tại Thiên Cung Tự ở Lạc Dương (洛陽), hưởng thọ 101 tuổi. Ông được ban cho thụy hiệu là Đại Thông Thiền Sư (大通禪師), là người được nhận thụy hiệu Thiền sư sớm nhất. Thiền phong của ông chủ yếu là tiệm ngộ, thuyết về ly niệm và xem trọng Ngũ Phương Tiện (五方便), trái ngược với chủ trương đốn ngộ của Huệ Năng bên Nam Tông Thiền. Trong khi Nam Tông Thiền được phổ cập ở Hoa Nam (華南) và Giang Tây (江西), Bắc Tông Thiền của Thần Tú thì hưng thạnh ở Hoa Bắc (華北), hai kinh đô Trường An (長安) và Lạc Dương (洛陽) cũng như địa phương Giang Nam (江南). Môn nhân Đạo Tuyền (道璿) của ông là người đến Nhật Bản sớm nhất, cho nên những Thiền tăng thời kỳ đầu của Nhật Bản đều thuộc hệ thống này. Pháp từ của ông có Tung Sơn Huệ Tịch (嵩山慧寂), Kinh Triệu Nghĩa Phước (京兆義福), v.v. Trước tác của ông có Quán Tâm Luận (觀心論) 1 quyển, Đại Thừa Vô Sanh Phương Tiện Môn (大乘無生方便門) 1 quyển, Hoa Nghiêm Kinh Sớ (華嚴經疏) 30 quyển, Diệu Lý Viên Thành Quán (妙理圓成觀) 3 quyển. Kì Vương Phạm (岐王範), Yến Quốc Công Trương Thuyết (燕國公張說) và Trưng Sĩ Lô Hồng (徴士盧鴻) mỗi người soạn một bài bia minh.
(十住心論, Jūjūshinron): 10 quyển, gọi cho đủ là Bí Mật Mạn Đà La Thập Trụ Tâm Luận (秘密曼陀羅十住心論), một trong những trước tác đại biểu của Không Hải (空海, Kūkai), là thư tịch thuật rõ toàn bộ hệ thống Chơn Ngôn Mật Giáo, được viết theo yêu cầu của sắc chỉ của Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō, tại vị 758-764) vào khoảng năm 830, được xem như là thư tịch lập giáo khai tông. Đây là trước tác chia tâm con người thành 10 giai đoạn, rồi phối trí tư tưởng đại biểu đương thời cho mỗi tâm ấy và cấu trúc thành hệ thống. Bộ sách chủ trương rằng chính Chơn Ngôn Mật Giáo là cảnh giới tối cao mà tâm con người có thể đạt đến được. Mười tâm ấy gồm:
(1) Dị Sanh Đê Dương Tâm (異生羝羊心, Dị Sanh là phàm phu, tâm cảnh bị chi phối theo bản năng ăn uống, tánh dục giống như con dê đực);
(2) Ngu Đồng Trì Trai Tâm (愚童持齋心, tâm cảnh của Phật tánh vốn có xưa nay được khai mở từng chút một, tiết chế tự kỷ và thực hành con đường luân lý đạo đức, là cảnh giới của Nho Giáo);
(3) Anh Đồng Vô Úy Tâm (嬰童無畏心, tâm cảnh sợ khổ não cõi người và mong cầu quả vui trên cõi Trời, là cảnh giới của triết học Ấn Độ và tư tưởng Lão Trang);
(4) Duy Uẩn Vô Ngã Tâm (唯蘊無我心, tâm cảnh Ngã là không và pháp Ngũ Uẩn cấu thành nên Ngã ấy hiện hữu, là cảnh giới của Thanh Văn trong Phật Giáo Nguyên Thủy);
(5) Bạt Nghiệp Nhân Chủng Tâm (拔業因種心, tâm cảnh thể hiện nghiệp, phiền não tiêu diệt nhờ quán Thập Nhị Nhân Duyên, nhưng không có từ bi lợi tha, là cảnh giới của Duyên Giác trong Phật Giáo Nguyên Thủy);
(6) Tha Duyên Đại Thừa Tâm (他緣大乘心, từ đây trở về sau là tâm cảnh của Đại Thừa, tâm thường nghĩ đến việc cứu độ chúng sanh, nhưng vẫn chưa triệt để về lý Không, nên lập nên Ngũ Tánh Các Biệt, là cảnh giới của Duy Thức, Pháp Tướng Tông trong Phật Giáo Đại Thừa);
(7) Giác Tâm Bất Sanh Tâm (覺心不生心, Thức cũng như cảnh đều không, dừng lại và chấm dứt ở mặt phủ định, là cảnh giới của Trung Quán cũng như Tam Luận Tông trong Phật Giáo Đại Thừa);
(8) Nhất Đạo Vô Vi Tâm (一道無爲心, hay còn gọi là Như Thật Tri Tự Tâm [如實自知心], Không Tánh Vô Cảnh Tâm [空性無境心], cảnh giới thể đắc lý thú Nhất Niệm Tam Thiên, Tam Đế Viên Dung, nhưng đó vẫn là cảnh giới của nhân từ Duyên Khởi, là cảnh giới của Trung Quán cũng như Thiên Thai Tông trong Phật Giáo Đại Thừa);
(9) Cực Vô Tự Tánh Tâm (極無自性心, cảnh giới sự sự vô ngại, quán sát lý thú vô hạn trong tướng trạng của vạn hữu, là cảnh giới cực ý của Hiển Giáo, hết thảy đều quy về Không Vô Tướng, là cảnh giới của Trung Quán cũng như Hoa Nghiêm Tông trong Phật Giáo Đại Thừa); và
(10) Bí Mật Trang Nghiêm Tâm (秘密莊嚴心, cảnh giới phá tan chấp thủ về Không, biết rõ tận cùng tự tâm, thể nghiệm Pháp Thân Tự Nội Chứng, thực tại căn nguyên của Sắc Tâm Bất Nhị hay Vật Tâm Nhất Như, lấy ba bí mật của thân, miệng và ý để trang nghiêm quả vị tối cùng của Phật Tự Chứng, là cảnh giới của Chơn Ngôn Mật Giáo).
Tác phẩm giới thiệu nội dung giản lược của Thập Trụ Tâm Luận là bộ Bí Tạng Bảo Thược (秘藏寶鑰), 3 quyển.
(s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦): Đế (s: satya, p: sacca, 諦) ở đây nghĩa là chân thật, bất hư, chân lý. Tứ Đế chỉ cho 4 loại chân lý đúng dắn, không sai lầm, không hư dối, gồm: Khổ (苦), Tập (集), Diệt (滅) và Đạo (道); còn gọi là Tứ Chân Đế (四眞諦); 4 chân lý này do bậc thánh thấy được nên gọi là Tứ Thánh Đế (四聖諦), Tứ Diệu Đế (四妙諦). Đại thể, Tứ Đế là Phật Giáo dùng để giải thích hiện tượng vũ trụ theo quy nạp của thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣), là đại cương giáo nghĩa của Phật Giáo Nguyên Thủy, là bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật. Theo thứ tự, 4 chân lý này là Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Thánh Đế (苦集聖諦), Khổ Diệt Thánh Đế (苦滅聖諦), Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (苦滅道聖諦); hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Đế (苦習諦), Khổ Diệt Đế (苦滅諦), Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (苦滅道聖諦); hay Khổ Đế (苦諦), Khổ Tập Đế (苦集諦), Khổ Tận Đế (苦盡諦), Khổ Xuất Yếu Đế (苦出要諦); hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Tập Thánh Đế (集聖諦), Chơn Thánh Đế (眞聖諦), Đạo Thánh Đế (道聖諦). Trong đó, Khổ và Tập biểu thị quả và nhân của thế giới mê lầm; Diệt và Đạo biểu thị quả và nhân của thế giới chứng ngộ; nghĩa là quả của thế gian Hữu Lậu là Khổ Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Diệt Đế; nhân của thế gian Hữu Lậu là Tập Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Đạo Đế. Theo Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō Vol. 1, No. 26) quyển 7, Phân Biệt Thánh Đế Kinh (分別聖諦經), A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 77, Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (大乘阿毘達磨雜集論, Taishō Vol. 31, No. 1606) quyển 7, v.v., cụ thể Tứ Đế là: (1) Khổ Đế (s: duḥkha-satya, p: dukkha-sacca, 苦諦), còn gọi là Khổ Thánh Đế (s: duḥkhārya-satya, 苦聖諦); khổ tức chỉ trạng thái bức bách thân tâm khổ não; mọi sự vật trên thế gian, dù hữu tình hay chẳng phải hữu tình, đều phải chịu khổ; hết thảy thế gian bản chất là khổ. Khổ Đế tức là chân lý về cái khổ thật sự liên quan đến vấn đề sanh tử. (2) Tập Đế (s: samudaya-satya, p: samudaya-sacca, 集諦), còn gọi là Tập Thánh Đế (s: samudayārya-satya, 集聖諦); tập đây nghĩa là sự thật về tất cả phiền não hoặc nghiệp thật sự có thể chiêu tập quả của khổ sanh tử trong Ba Cõi. Tập Đế là chân lý liên quan đến sự sanh khởi cũng như căn nguyên các nỗi khổ của con người trên cõi đời này. (3) Diệt Đế (s: nirodha-satya, p: nirodha-sacca, 滅諦), còn gọi là Diệt Thánh Đế (s: nirodhārya-satya, 滅聖諦); diệt ở đây nghĩa là tịch diệt, vắng lặng, thật sự đoạn trừ căn bản của khổ là ái dục thì sẽ được diệt khổ, có thể nhập vào cảnh giới Niết Bàn. Diệt Đế là chân lý liên quan đến sự diệt tận Khổ và Tập. (4) Đạo Đế (s: mārga-satya, p: magga-sacca, 道諦), còn gọi là Đạo Thánh Đế (s: mārgārya-satya, 道聖諦); đạo nghĩa là có thể thông suốt, tức là con đường diệt khổ, như Chánh Kiến (正見), Chánh Tư Duy (正思惟), v.v., của Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道); nếu nương vào đây mà tu hành, tức có thể siêu thoát hai sự thật Khổ và Tập, đạt đến cảnh giới Niết Bàn vắng lặng. Đạo Đế là chân lý liên quan đến Bát Chánh Đạo ấy. Sau khi thành đạo, đức Phật thuyết Tứ Đế này cho 5 vị Tỳ Kheo, được xem như là lần chuyển Pháp Luân đầu tiên. Đây là giáo nghĩa căn bản nhất trong các giáo lý Phật Giáo, là phương pháp duy nhất dể giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Về sau, Tứ Đế được xem như là pháp của Thanh Văn; ngoại trừ Phật Giáo Nguyên Thủy thuyết về giáo lý này, trong các kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa cũng có đề cập đến giáo thuyết này, tỷ dụ như Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh (勝鬘獅子吼一乘大方便方廣經, Taishō Vol. 12, No. 353), Bắc Bản Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 12, 13, v.v., không những có giải thích theo quan điểm Đại Thừa mà còn phát huy áo nghĩa của Tứ Đế nữa. Về tự tánh của Tứ Đế, các bộ phái đều có những dị thuyết. Căn cứ A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 77, các luận sư của A Tỳ Đạt Ma (s: Abhidharma, 阿毘達磨) lấy Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊) là Khổ Đế, nhân của Hữu Lậu là Tập Đế, pháp Trạch Diệt (s: pratisaṃkhyā-nirodha, p: patisaṅkhā-nirodha, 擇滅) là Diệt Đế, pháp Học, Vô Học là Đạo Đế. Về thứ tự hiện quán của Tứ Đế, theo A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 22, A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 78 cho biết rằng trước quán Khổ Đế, kế đến quán Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế. Căn cứ vào Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖敎論, Taishō Vol. 31, No. 1602) quyển 7 Trung, Đại Thừa Phật Giáo lấy nội dung của Tứ Đế diễn thành 8 loại, gọi là Bát Đế (八諦, Tám Đế); gồm Hành Khổ Đế (行苦諦), Hoại Khổ Đế (壞苦諦), Khổ Khổ Đế (苦苦諦), Lưu Chuyển Đế (流轉諦), Tạp Nhiễm Đế (雜染諦, tương đương với Khổ Đế và Tập Đế), Lưu Tức Đế (流息諦, tương đương với Diệt Đế), Thanh Tịnh Đế (清淨諦, tương đương với Diệt Đế và Đạo Đế), Chánh Phương Tiện Đế (正方便諦, tương đương với Đạo Đế). Bên cạnh đó, Đại Sư Trí Khải của Thiên Thai Tông căn cứ vào thuyết của Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh, Đại Bát Niết Bàn Kinh lại lập ra 4 loại Tứ Đế có sâu cạn bất đồng, tương đương với 4 giáo tướng Tạng, Thông, Biệt, Viên; gồm: (1) Sanh Diệt Tứ Đế (生滅四諦), do Tạng Giáo (藏敎) thuyết ra, tùy theo việc sanh diệt Hữu Vi mà quán nhân quả của Tứ Đế là thật có sanh, diệt. (2) Vô Sanh Tứ Đế (無生四諦), hay Vô Sanh Diệt Tứ Đế (無生滅四諦), do Thông Giáo (通敎) thuyết ra, tùy theo nhân duyên các pháp tức là Không, Vô Sanh mà quán nhân quả mê ngộ của Tứ Đế, đều là không vô vốn chẳng có sanh diệt. (3) Vô Lượng Tứ Đế (無量四諦), do Biệt Giáo (別敎) thuyết ra, tùy theo trong cõi ngoài cõi với vô số sai biệt, vô số nhân, mà Tứ Đế cũng có vô lượng các tướng. (4) Vô Tác Tứ Đế (無作四諦), do Viên Giáo (圓敎) thuyết ra, tùy theo đương thể của mê ngộ tức là thật tướng, mà quán sự đối lập mâu thuẩn giữa mê với ngộ tức chẳng phải mâu thuẩn, và tất cả đều là thật tướng. Ngoài ra, Pháp Tướng Tông lấy Diệt Đế lập ra Ba Diệt Đế, gồm: Hữu Tự Tánh Diệt (有自性滅), Nhị Thủ Diệt (二取滅) và Bản Tánh Diệt (本性滅); đối với Đạo Đế thì lập ra Ba Đạo Đế, gồm: Biến Tri Đạo (徧知道), Vĩnh Đoạn Đạo (永斷道) và Tác Chứng Đạo (作證道). Trong Viên Giác Kinh Đại Sớ Thích Nghĩa Sao (圓覺經大疏釋義鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 9, No. 245) quyển 3 có đoạn rằng: “Hữu Khổ khả tri, hữu Tập khả đoạn, hữu Diệt khả chứng, hữu Đạo khả tu, mê tắc Khổ Tập diệt nhi chân đạo diệt, ngộ tắc Khổ Tập diệt nhi chánh đạo sanh, hữu khả sanh diệt, cố vân Sanh Diệt Tứ Đế (有苦可知、有集可斷、有滅可證、有道可修、迷則苦集生而眞道滅、悟則苦集滅而正道生、有可生滅、故云生滅四諦, có Khổ biết được, có Tập đoạn được, có Diệt chứng được, có Đạo tu được, mê thì Khổ Tập sanh mà chân đạo diệt, ngộ thì Khổ Tập diệt mà chánh đạo sanh, có khả năng sanh diệt như vậy, nên gọi là Sanh Diệt Tứ Đế).” Hay trong Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn (釋禪波羅蜜次第法門, Taishō Vol. 46, No. 1916) quyển 9 cũng có đoạn: “Niệm tử tức ngộ vô thường Tứ Đế, nhược Tam Giới bệnh tận tức đắc chứng đạo (念死卽悟無常四諦、若三界病盡卽得聖道, nghĩ nhớ bệnh là ngộ vô thường Tứ Đế, nếu Ba Cõi bệnh hết tức được chứng đạo).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.19 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập