Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Thành công có nghĩa là đóng góp nhiều hơn cho cuộc đời so với những gì cuộc đời mang đến cho bạn. (To do more for the world than the world does for you, that is success. )Henry Ford
Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Đế »»
(八風): tám ngọn gió, còn gọi là Bát Pháp (八法), Bát Thế Phong (八世風); là 8 pháp hay ngọn gió được thế gian yêu, ghét, có thể làm động nhân tâm, nên lấy gió làm ví dụ. Tám ngọn gió ấy gồm:
(1) Lợi (利), tức lợi ích; phàm có lợi ích đối với mình, đều gọi là lợi.
(2) Suy (衰), tức suy diệt; phàm có sự suy tổn đối với mình, đều gọi là suy.
(3) Hủy (毀), tức hủy báng, vì nhân ghét người nào đó, dùng lời không tốt để nói xấu họ.
(4) Dự (譽), tức khen ngợi, tán thán, nghĩa là do vì yêu thích người nào đó, cho dù chưa hề gặp mặt, cũng lấy lời lẽ tốt đẹp mà khen ngợi.
(5) Xưng (稱), xưng dương, nêu cao; nghĩa là do vì tôn trọng người nào đó, thường xưng dương họ trước mọi người.
(6) Cơ (譏), tức quở trách, chê bai; nghĩa là do vì ghét người nào đó, dù không có chuyện gì, cũng dối làm cho thành sự thật, chê bai, trình bày trước mọi người.
(7) Khổ (苦), tức có ý nghĩa bức bách; nghĩa là nhân gặp duyên hay cảnh không tốt mà thân tâm phải chịu bức bách, khổ não.
(8) Lạc (樂), ý là vui mừng; nghĩa là nhân gặp duyên hay cảnh tốt mà thân tâm đều vui mừng, hoan hỷ.
Trong Đại Thừa Vô Sanh Phương Tiện Môn (大乘無生方便門, Taishō Vol. 85, No. 2834) có câu: “Thân thể cập thủ túc, tịch nhiên an bất động, Bát Phong xuy bất động (身體及手足、寂然安不動、八風吹不動, thân thể và tay chân, vắng lặng yên chẳng động, Tám Gió thổi chẳng động).” Hay như trong Thiền Môn Chư Tổ Sư Kệ Tụng (禪門諸祖師偈頌, CBETA No. 1298), phần Tô Khê Hòa Thượng Mục Hộ Ca (蘇溪和尚牧護歌) lại có câu: “Sanh dã do như trước sam, tử dã hoàn đồng thoát khố, sanh tử vô hỷ vô ưu, Bát Phong khởi năng kinh bố (生也猶如著衫、死也還同脫袴、生死無喜無憂。八風豈能驚怖, sống cũng giống như mặc áo, chết chẳng khác gì cởi quần, sống chết chẳng vui chẳng buồn, Tám Gió tại sao kinh sợ).” Hoặc như trong Ngô Sơn Tịnh Đoan Thiền Sư Ngữ Lục (吳山淨端禪師語錄, CBETA No. 1449) có đoạn rằng: “Phổ Hóa Hàn Sơn Thập Đắc chi lưu, chỉ yếu đương nhân thời thời tỉnh bộ, bất tùy Bát Phong sở phiêu, hốt nhiên nhất niệm tương ưng, tức thị đáo gia thời tiết (普化寒山拾得之流、只要當人時時省捕、不隨八風所漂、忽然一念相應、卽是到家時節, dòng Thiền của Phổ Hóa, Hàn Sơn, Thập Đắc, chỉ cần người ấy luôn luôn tỉnh giác nắm bắt, chẳng bị Tám Gió cuốn theo, đột nhiên một niệm tương ưng, tức là đến lúc về nhà).” Tương truyền thi sĩ Tô Đông Pha (蘇東坡, 1036-1101) có làm một bài thơ thể hiện chỗ sở ngộ của ông và trình lên cho Thiền Sư Phật Ấn (佛印) xem, trong đó có hai câu rằng: “Bát Phong xuy bất động, đoan tọa Tử Kim Đài (八風吹不動、端坐紫金台, Tám Gió thổi chẳng động, ngồi yên Vàng Tía Đài).”
(s: poṣadha, upavasatha, upoṣadha, upavāsa, p: uposatha, posatha, 布薩): âm dịch là Ưu Ba Bà Tố Đà (優波婆素陀), Ưu Bà Ta (優婆娑), Bố Tát Đà Bà (布薩陀婆), Bố Sái Tha (布灑他), Bố Sa Tha (布沙他), Ổ Ba Bà Sa (鄔波婆沙), Bô Sa Đà (逋沙陀), Bao Sái Đà (褒灑陀), Ổ Bô Sa Tha (鄔逋沙他); ý dịch là Trưởng Tịnh (長淨), Trưởng Dưỡng (長養), Tăng Trưởng (增長), Thiện Túc (善宿), Tịnh Trú (淨住), Trường Trú (長住), Cận Trú (近住), Cọng Trú (共住), Đoạn (斷), Xả (捨), Trai (齋), Đoạn Tăng Trưởng (斷增長), hay Thuyết Giới (說戒). Nghĩa là vào mỗi nữa tháng, chư vị Tỳ Kheo cùng sống chung tập trung tại một trú xứ nhất định, hoặc tại Bố Tát Đường (s: uposathāgāra, 布薩堂, còn gọi là Nhà Thuyết Giới), cung thỉnh vị Tỳ Kheo hành trì giới luật tinh chuyên thuyết giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa (s: prātimokṣa, p: pātimokkha, 波羅提木叉), để phản tỉnh, xem xét lại trong nữa tháng vừa qua bản thân có tuân thủ đúng với giới bổn hay không. Nếu có người phạm giới, thì sẽ sám hối ngay trước đại chúng, giúp cho chúng tăng có thể an trụ lâu trong tịnh giới, làm tăng trưởng thiện pháp và công đức. Nếu như hàng Phật tử tại gia, vào trong 6 ngày trai mà thọ trì Bát Quan Trai Giới (s: aṣṭāṅga-samanvāgatopavāsa, p: aṭṭhaṅga-samannāgata uposatha, aṭṭhaṅgika uposatha, 八關齋戒), cũng được gọi là Bố Tát, nghĩa là có thể làm cho tăng trưởng thiện pháp. Hình thức Bố Tát vốn phát xuất từ nguồn gốc tế lễ từ thời Phệ Đà (s: Veda, 吠陀) của Ấn Độ; tức là ngày trước lễ Tế Đầu Tháng (s: darśā-māsa, 新月祭) và Tế Giữa Tháng (s: paurṇa-māsa, 滿月祭), người ta cử hành một lễ cúng tế dự bị, được gọi là Bố Tát. Chủ yếu vào ngày cúng tế này, mọi người không ăn, an trú trong giới pháp thanh tịnh, khiến cho cả thân lẫn tâm đều được trong sạch. Về sau, truyền thống này được truyền thừa đến thời đức Phật, nhóm ngoại đạo Ni Kiền Tử (s: Nirgrantha-putra, Nirgrantha-jñātaputra, p: Nigaṇtha-putta, 尼乾子) cũng thường tập trung tại một trú xứ nào đó, tác pháp hành trì 4 giới như không ăn, v.v. Đức Thế Tôn cũng cho phép Tăng chúng tiến hành pháp sự này; cho nên hình thức Bố Tát của Phật Giáo vốn căn cứ vào tập quán nói trên. Theo như sự chế định của Phật, vào dịp này chúng tăng nên tụng toàn bộ giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa; và nếu gặp các duyên nạn thì có thể tụng một phần của giới bổn cũng được. Tứ Phần Luật (四分律) quyển 58 phân Bố Tát thành 4 loại là: (1) Tam Ngữ Bố Tát (三語布薩); (2) Thanh Tịnh Bố Tát (清淨布薩), (3) Thuyết Ba La Đề Mộc Xoa Bố Tát (說波羅提木叉布薩) và (4) Tự Tứ Bố Tát (自恣布薩). Trong khi đó, Ngũ Phần Luật (五分律) quyển 18 lại phân làm 5 loại khác là: (1) Tâm Niệm Khẩu Ngôn Bố Tát (心念口言布薩), (2) Hướng Tha Thuyết Tịnh Bố Tát (向他說淨布薩), (3) Quảng Lược Thuyết Giới Bố Tát (廣略說戒布薩), (4) Tự Tứ Bố Tát (自恣布薩) và (5) Hòa Hợp Bố Tát (和合布薩). Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙) quyển 16 thì liệt kê 9 loại là: (1) Thập Tứ Nhật Bố Tát (十四日布薩), (2) Thập Ngũ Nhật Bố Tát (十五日布薩), (3) Hòa Hợp Bố Tát (和合布薩), (4) Tăng Bố Tát (僧布薩), (5) Chúng Bố Tát (眾布薩), (6) Nhất Nhân Bố Tát (一人布薩), (7) Thuyết Ba La Đề Mộc Xoa Bố Tát (說波羅提木叉布薩), (8) Tịnh Bố Tát (淨布薩) và (9) Sắc Bố Tát (敕布薩). Ngay như ngày Bố Tát, các kinh điển cũng nêu lên khác nhau. Như Đại Thiên Nại Lâm Kinh (大天捺林經) của Trung A Hàm (中阿含經) quyển 14, Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經) quyển 16, v.v., cho rằng mỗi tháng vào 6 ngày trai giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 thì tiến hành Bố Tát. Tứ Phần Luật quyển 58 thì cho rằng mồng 1, 14, 15 là những ngày Bố Tát. Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 13 thì giải thích ngày mồng 1, mồng 8, 14, 16, 23, 29. Nhìn chung, mỗi tháng 3 lần Bố Tát, dần dần sinh ra quy định mỗi nữa tháng một lần. Hơn nữa, từ xưa phong trào Bố Tát và ăn chay vốn đã rất thịnh hành tại Trung Quốc, Nhật Bản cũng như Việt Nam. Trong Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi (大比丘三千威儀, Taishō No. 1470) quyển Thượng có đoạn rằng: “Bố Tát giả, Tần ngôn tịnh trú, nghĩa ngôn trưởng dưỡng Tỳ Kheo hòa hợp; nhược tác bách nhất Yết Ma, nhi bất tri hòa hợp, thị danh bất tri Bố Tát (布薩者、秦言淨住、義言長養比丘和合、若作百一羯磨、而不知和合、是名不知布薩, Bố Tát, Tàu dịch là tịnh trú [an trú trong thanh tịnh], nghĩa là nuôi lớn sự hòa hợp của chúng Tỳ Kheo; nếu thực hành trăm lẽ một pháp Yết Ma mà không biết hòa hợp, có nghĩa là không biết Bố Tát).” Hay như trong Thọ Thập Thiện Giới Kinh (受十善戒經, Taishō No. 1486 ) giải thích rằng: “Kim ư tam thế chư Phật, A La Hán tiền, Hòa Thượng tăng tiền, chí thành phát lộ, Ngũ Thể đầu địa, sám hối chư tội, thị danh hành Bố Tát pháp (今於三世諸佛、阿羅漢前、和上僧前,至誠發露,五體投地,懺悔諸罪,是名行布薩法, nay đối trước ba đời chư Phật, trước A La Hán, trước Hòa Thượng tăng, chí thành bộc bạch, năm vóc gieo đất, sám hối các tội, ấy gọi là hành pháp Bố Tát).” Trong Nhập Bố Tát Đường Thuyết Kệ Văn Đẳng (入布薩堂說偈文等, Taishō No. 2852) có bài Thanh Tịnh Diệu Kệ Văn (清淨妙偈文) rằng: “Thanh tịnh như mãn nguyệt, thanh tịnh ưng Bố Tát, thân khẩu nghiệp thanh tịnh, nhĩ nãi đồng Bố Tát (清淨如滿月、清淨應布薩、身口業清淨、爾乃同布薩, trong sạch như trăng rằm, trong sạch nên Bố Tát, nghiệp thân miệng trong sạch, ngươi hãy cùng Bố Tát).”
(革凡成聖): hay cách phàm đăng Thánh (革凡登聖), nghĩa là thay đổi, chuyển hóa phàm tâm để trở thành thánh nhân. Như trong bản Sắc Xá Đạo Sự Phật (敕舍道事佛) của vua Lương Võ Đế (梁武帝, tại vị 502-549) thời Nam Triều có đoạn: “Lão Tử, Chu Công, Khổng Tử đẳng tuy thị Như Lai đệ tử, nhi vi hóa ký tà, chỉ thị thế gian chi thiện, bất năng cách phàm thành Thánh (老子、周公、孔子等雖是如來弟子、而爲化旣邪、止是世間之善、不能革凡成聖, Lão Tử, Chu Công, Khổng Tử tuy vậy cũng là đệ tử của Như Lai, mà vì mọi người giáo hóa các sai lầm trước, làm dừng lại điều thiện của thế gian, không thể chuyển phàm thành Thánh được).” Hay trong A Di Đà Kinh Nghĩa Ký (阿彌陀經義記) của Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397) có câu: “Hữu cảm tư ứng, cơ ngộ chi thần, tức ư hội cách phàm thành Thánh (有感斯應、機悟之辰、卽於會革凡成聖, có cảm với ứng ấy, gặp khi cơ ngộ, tức nơi ấy mà hiểu được chuyển phàm thành Thánh).” Hoặc trong bức Đáp Thích Trí Khải Di Chỉ Thư (答釋智顗遺旨書) của Tùy Dương Đế (隋煬帝, tại vị 604-618) cũng có câu: “Thế thế sanh sanh, sư tư bất khuyết, cách phàm đăng Thánh, cấp thị vô khuy (世世生生、師資不闕、革凡登聖、給侍無虧, đời đời kiếp kiếp, thầy trò chẳng dứt, chuyển phàm chứng Thánh, hầu hạ không sót).”
(十方住持制, Juppōjūjisei): chế độ quy định khi cung đón vị Trú Trì mới về nhậm chức, các tự viện Thiền Tông không quan tâm đến quan hệ về pháp hệ cũng như môn phái của vị tăng ấy, mà tự do cung thỉnh chư vị danh tăng khắp các nơi trong thiên hạ về làm trú trì. Phần lớn những ngôi tự viện Lâm Tế Tông thuộc loại Ngũ Sơn Thập Sát như Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji), Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji), v.v., đều thực hiện chế độ này.
(空也, Kūya, Kōya, 903-972): vị tăng sống giữa thời Bình An, vị tổ của Phái Không Dã Niệm Phật (空也念佛派, Kūyanembutsu-ha), tổ của pháp môn Odorinembutsu (踊り念佛, Niệm Phật Nhảy), húy là Không Dã, Hoằng Dã (弘也), Quang Thắng (光勝); không rõ xuất thân ở đâu. Khi tuổi thanh niên, dưới hình thức cư sĩ tại gia, ông đi khắp các tiểu quốc, làm các công việc xã hội như đắp đường, xây cầu cống, đào giếng, v.v. Khoảng độ hơn 20 tuổi, ông xuất gia ở Quốc Phận Tự (國分寺, Kokubun-ji) vùng Vĩ Trương (尾張, Owari), thọ giới Sa Di, lấy hiệu là Không Dã. Đến năm 938, ông lên kinh đô, lấy nơi đây làm trung tâm để tiến hành bố giáo pháp môn “miệng xưng niệm Phật”, không kể giàu nghèo sang hèn gì cả; từ đó ông được gọi là Thị Thánh (市聖, vị Thánh ngoài chợ) hay A Di Đà Thánh. Vào năm 948, ông có thọ giới với Diên Xương (延昌), vị Thiên Thai Tọa Chủ đương thời, ở Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) với giới danh là Quang Thắng, nhưng sau đó ông không bao giờ dùng đến tên này. Trong khoảng niên hiệu Ứng Hòa (應和, 961-964), khi bệnh dịch lưu hành khắp nơi, ông sáng kiến Tây Quang Tự (西光寺, tức Lục Ba La Mật Tự [六波羅蜜寺, Rokuharamitsu-ji]) để an trí tượng Thập Nhất Diện Quan Âm và cầu nguyện cho bệnh tật tiêu trừ. Ông được xem như là người khai sáng Tịnh Độ Giáo của Nhật Bản. Trước tác của ông có Di Đà Hòa Tán (彌陀和讚).
(金山): núi vàng, từ này được dùng để ví dụ cho thân Phật; như trong Phẩm Tựa của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) có câu: “Thân sắc như kim sơn, đoan nghiêm thậm vi diệu (身色如金山、端嚴甚微妙, thân màu như núi vàng, đoan nghiêm thật vi diệu).” Hay trong Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 27, phẩm Hướng Bồ Đề Thọ (向菩提樹品), còn có câu: “Thử tất thiên quang tân nhật xuất, uy đức chiếu diệu như kim sơn, lân mẫn nhất thiết chư thiên nhân, tạm đáo thọ vương như sư tử (此必千光新日出、威德照耀如金山、憐愍一切諸天人、漸到樹王如師子, đây ắt hào quang trời mới mọc, oai đức chiếu tỏa như núi vàng, thương xót hết thảy các trời người, tạm đến dưới cây như sư tử).” Hoặc trong Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (大方等陀羅尼經, Taishō Vol. 21, No. 1339) quyển 1, lại có đoạn: “Thế Tôn thân sắc như kim sơn, do như nhật quang chiếu thế gian, năng bạt nhất thiết chư khổ não, ngã kim khể thủ đại pháp vương (世尊身色如金山、猶如日光照世間、能拔一切諸苦惱、我今稽首大法王, Thế Tôn thân màu như núi vàng, giống như mặt trời chiếu thế gian, có thể bạt trừ các khổ não, con nay cúi lạy đấng pháp vương).” Kim sơn còn chỉ cho núi vàng bảy tầng ở chung quanh Tu Di Sơn (s, p: Sumeru, 須彌山).
(s: ṣaḍ-indriyāṇi, 六根): hay còn gọi là Lục Tình (六情), tức 6 cơ quan cảm giác hay năng lực nhận thức, là Sáu Xứ trong Mười Hai Xứ, Sáu Căn Giới trong Mười Tám Giới. Căn (s, p: indriya, 根) có nghĩa là cơ quan nhận thức. Sáu Căn gồm:
(1) Nhãn (s: cakṣus, p: cakkhu, 眼, mắt, cơ quan và năng lực thị giác);
(2) Nhĩ (s: śrotra, śrotas, p: sota, 耳, tai, cơ quan và năng lực thính giác);
(3) Tỷ (s: ghrāṇa, p: ghāna, 鼻, mũi, cơ quan và năng lực khứu giác);
(4) Thiệt (s: jihvā, p: jivhā, 舌, lưỡi, cơ quan và năng lực vị giác);
(5) Thân (s, p: kāya, 身, thân thể, cơ quan và năng lực xúc giác); và
(6) Ý (s: manaḥ, p: mano, manas, 意, ý, cơ quan và năng lực tư duy).
Năm Căn đầu được gọi là Ngũ Căn (五根), thuộc về sắc pháp, có 2 loại: cơ quan sinh lý là Phù Trần Căn (浮塵根, hay Thô Sắc Căn [粗色根]), tức 5 căn này hiện hình trạng ra bên ngoài; còn Ý Căn là nơi nương tựa của tâm để sanh khởi tâm lý, nương vào Phù Trần Căn để có thể phát sinh tác dụng thấy, nghe, hiểu biết, v.v.; có tên là Thắng Nghĩa Căn (勝義根, hay Tịnh Sắc Căn [淨色根]). Như trong Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō No. 945) quyển 6 có dạy rằng: “Nhất thiết chúng sanh, Lục Thức tạo nghiệp, sở chiêu ác báo, tùng Lục Căn xuất (一切眾生、六識造業、所招惡報、從六根出, hết thảy chúng sanh, Sáu Thức tạo nghiệp, ác báo nhận lấy, do Sáu Căn ra).” Hay trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) có giải thích về Lục Căn thanh tịnh rằng: “Lục Ba La Mật giả, tức tịnh Lục Căn dã; Hồ danh Ba La Mật, Hán danh đạt bỉ ngạn, dĩ Lục Căn thanh tịnh, bất nhiễm Lục Trần, tức thị độ phiền não hà, chí Bồ Đề ngạn; cố danh Ba La Mật (六波羅蜜者、卽淨六根也、胡名波羅蜜、漢名達彼岸、以六根清淨、不染六塵、卽是度煩惱河、至菩提岸、故名六波羅蜜, Sáu Ba La Mật tức là làm trong sạch Sáu Căn; người Ấn Độ gọi là Ba La Mật, người Trung Quốc gọi là qua bờ bên kia; do Sáu Căn trong sạch, không nhiễm Sáu Trần, tức là qua sông phiền não, đến bờ Bồ Đề; nên được gọi là Ba La Mật).” Hoặc trong bài Di Sơn Phát Nguyện Văn (怡山發願文) của Thiền Sư Di Sơn Kiểu Nhiên (怡山皎然, ?-?) nhà Đường cũng có câu: “Đệ tử mỗ giáp, tự vi chơn tánh, uổng nhập mê lưu, tùy sanh tử dĩ phiêu trầm, trục sắc thanh nhi tham nhiễm; Thập Triền Thập Sử, tích thành Hữu Lậu chi nhân; Lục Căn Lục Trần, vọng tác vô biên chi tội (弟子某甲、自違眞性、枉入迷流、隨生死以飄沉、逐色聲而貪染、十纏十使、積成有漏之因、六根六塵、妄作無邊之罪, đệ tử …, tự sai chơn tánh, lầm nhập dòng mê, theo sanh tử để thăng trầm, đắm sắc thanh mà tham nhiễm; Mười Triền Mười Sử, tích thành Hữu Lậu nhân sâu, Sáu Căn Sáu Trần, lầm tạo vô biên tội lỗi).”
(原坦山, Hara Tanzan, 1819-1892): vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa hai thời đại Giang Hộ và Minh Trị, húy Thản Sơn (坦山), thụy hiệu Hạc Sào (鶴巢), xuất thân vùng Lục Áo (陸奥, Michinoku, thuộc Fukushima-ken [福島縣]). Năm 1833, ông vào Trường Xương Bình (昌平) học về kinh sử, rồi theo Đa Kỷ An Thúc (多紀安叔) học về y học. Về sau nhân cuộc thi giảng ở Chiên Đàn Lâm (栴檀林) của Cát Tường Tự (吉祥寺, Kichijō-ji), ông được Đại Trung Kinh Sán (大中京璨) khai ngộ cho nên ông chuyển sang Thiền Tông. Ông xuất gia học đạo với Thật Sơn (實山) ở Tổng Tuyền Tự (總泉寺, Sōsen-ji), sau đó kế thừa dòng pháp của Kinh Sán. Ông đã từng sống qua các chùa như Tâm Tánh Tự (心性寺, Shinshō-ji) trên kinh đô, Tối Thừa Tự (最乘寺, Saijō-ji) ở Thần Nại Xuyên (神奈川, Kanagawa). Ông cũng có mối quan tâm đến khoa học phương Tây, và hy vọng sẽ làm sáng tỏ được tâm thức luận của Phật Giáo thông qua khoa học. Năm 1879, ông làm Giảng Sư cho Phân Khoa Triết Học Ấn Độ của Trường Đại Học Đông Kinh (東京大學, Tokyo Daigaku), đến năm 1885 thì làm hội viên của Hội Học Sĩ Viện Đế Quốc (帝國學士院), và năm 1891 thì làm Học Giám của Đại Học Tào Động Tông (曹洞宗大學). Trước tác của ông có Thời Đắc Sao (時得抄), Tâm Tánh Thật Nghiệm Lục (心性實驗錄), Tâm Thức Luận Lược Biện Đối Phá (心識論略辨對破), Đại Thừa Khởi Tín Luận Lưỡng Dịch Thắng Nghĩa (大乘起信論兩譯勝義), Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa (楞嚴經講義), Thản Sơn Hòa Thượng Toàn Tập (坦山和尚全集) 1 quyển.
(日像, Nichizō, 1269-1342): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Tượng (日像), tên lúc nhỏ là Kinh Nhất Hoàn (經一丸); hiệu là Phì Hậu A Xà Lê (肥後阿闍梨), Nhật Tượng Bồ Tát (日像菩薩), Phì Hậu Phòng (肥後房), Long Hoa Thọ Viện (龍華樹院); xuất thân vùng Bình Hạ (平賀, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), Hạ Tổng (下總, Shimōsa); con trai của Bình Hạ Trung Tình (平賀忠晴), em cùng mẹ khác cha của Nhật Lãng (日朗). Năm 1275, ông đầu sư với Nhật Lãng, rồi theo Nhật Liên tu hành, rồi khi Nhật Liên lâm chung thì ông được phó chúc truyền bá Kinh Pháp Hoa ở kinh đô Kyoto. Đến năm 1293, ông quyết tâm đến khai giáo ở kinh đô, và sau khi truyền đạo xong ở vùng Bắc Lục (北陸, Hokuriku) thì ông đến kinh đô. Nơi đây ông chuyên tâm truyền bá Kinh Pháp Hoa và được sự ủng hộ của tầng lớp thương nhân; nhưng bị phía các tông phái khác đả kích; nên ông đã 3 lần bị đuổi ra khỏi kinh đô. Vào năm 1326, ông được Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō) ban sắc chỉ hứa khả cho sáng lập Diệu Hiển Tự (妙顯寺) ở kinh đô. Ông có rất nhiều tín đồ thuộc tầng lớp võ gia chính quyền, nên đã xác lập được cơ sở vững chắc cho giáo đoàn Nhật Liên Tông ở vùng Tây Quốc (西國, Saigoku). Trước tác của ông có Pháp Hoa Tông Chỉ Vấn Đáp Sao (法華宗旨問答抄) 1 quyển, Bổn Tôn Tương Thừa (本尊相承) 1 quyển, Pháp Hoa Tông Hoằng Thông Sao (法華宗弘通抄) 1 quyển, Kỳ Đảo Kinh Chi Sự (祈禱經之事) 1 quyển, v.v.
(s: dharmaparyāya, p: dhammaparyāya, 法門): nghĩa là cửa pháp, là cánh cửa thông nhập vào tín tâm để đạt được Thánh trí, là cửa thoát ly sanh tử, dẫn vào Niết Bàn. Như trong kinh dạy rằng pháp môn của Phật có bốn vạn tám ngàn loại khác nhau.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.10 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập