Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Hầu hết mọi người đều cho rằng sự thông minh tạo nên một nhà khoa học lớn. Nhưng họ đã lầm, chính nhân cách mới làm nên điều đó. (Most people say that it is the intellect which makes a great scientist. They are wrong: it is character.)Albert Einstein
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Đừng cố trở nên một người thành đạt, tốt hơn nên cố gắng trở thành một người có phẩm giá. (Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.)Albert Einstein
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Đa »»

(証眞, Shōshin, ?-?): học tăng của Thiên Thai Tông thuộc Phái Chánh Thống, sống vào khoảng cuối thời Bình An và đầu thời Liêm Thương, húy là Chứng Chơn (証眞), con của vị Trưởng Quan Kami vùng Tuấn Hà (駿河, Suruga) là Đằng Nguyên Thuyết Định (藤原說定). Ông là người đầu tiên phê phán tư tưởng Bản Giác của Thiên Thai Tông Nhật Bản. Ban đầu ông theo Long Huệ (隆慧), Vĩnh Biện (永辨) học giáo lý Thiên Thai; rồi chuyên tâm đọc Đại Tạng Kinh ở Bảo Xứ Viện (寳處院), cho nên tương truyền ông chẳng hề hay biết gì về cuộc loạn tranh giữa hai dòng họ Nguyên (源, Minamoto) và Bình (平, Taira). Sau đó, ông thiết lập hội thuyết giảng ở Hoa Vương Viện (華王院) và cống hiến tất cả cho trước thuật ở Bảo Địa Phòng (寳地房). Đến năm 1186, ông đến nghe giảng về giáo nghĩa Tịnh Độ của Nguyên Không (源空, Genkū, tức Pháp Nhiên [法然, Hōnen]) ở Thắng Lâm Viện (勝林院) vùng Đại Nguyên (大原, Ōhara), Sơn Thành (山城, Yamashiro) và tương truyền ông có thọ Viên Đốn Giới tại đây. Cho nên, ông đã từng giao du với Pháp Nhiên, người có khuynh hướng phê phán tư tưởng Bản Giác từ lập trường của Tịnh Độ Niệm Phật. Năm 1204, ông khuyến thỉnh Từ Viên (慈圓, Jien), vị Thiên Thai Tọa Chủ lúc bấy giờ, phục hưng lại truyền thống An Cư. Trước tác của ông để lại rất nhiều như Pháp Hoa Tam Đại Bộ Tư Ký (法華三大部私記) 30 quyển, Niết Bàn Luận Sớ Nghĩa Sao (涅槃論私記) 4 quyển, Trí Độ Luận Tư Ký (智度論私記) 2 quyển, Kim Phê Luận Tư Ký (金錍論私記) 1 quyển, v.v.
(九泉): chín suối, nơi mai táng người chết, là tên gọi khác của Huỳnh Tuyền (黃泉), Âm Ty (陰司) hay Địa Ngục (地獄). Từ này vốn xuất xứ từ bài thơ Thất Ai (七哀) của Nguyễn Vũ (阮瑀, ?-212) nhà Hán: “Minh minh Cửu Tuyền thất, man man trường dạ đài (冥冥九泉室,漫漫長夜台, mịt mờ nhà Cửu Tuyền, mênh mang đài đêm trường).” Hay như trong Dương Bình Vương Truyện (陽平王傳) của Ngụy Thư (魏書) có câu: “Nhược vi tử quỷ, vĩnh khoáng thiên nhan, Cửu Tuyền chi hạ, thật thâm trùng hận (若爲死鬼、永曠天顏、九泉之下、實深重恨, nếu làm quỷ chết, mãi xa mặt trời, dưới cõi Chín Suối, thật sâu thẳm hận).” Trong Truyện Kiều cũng có câu: “Trên Tam Đảo dưới Cửu Tuyền, tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.” Về con số 9, theo quan niệm của cổ đại Trung Quốc, nó biểu thị ý nghĩa nhiều, cực lớn; như sách y thuật cổ Tố Vấn (素問) có giải thích rằng: “Thiên địa chi chí số, thỉ ư nhất, chung ư cửu yên (天地之至數、始於一、終於九焉, con số tột cùng của trời đất khởi đầu bằng số 1 và kết thúc bằng số 9).” Quan niệm về Cửu Tuyền vốn phát xuất từ kinh nghiệm đào giếng của người xưa. Khi đào sâu xuống lòng đất, người ta phát hiện dòng nước suối, nước chảy ra từ lớp đất vàng, thường có màu vàng; cho nên, cổ nhân thường gọi tầng sâu thẳm của lòng đất là Huỳnh Tuyền (Suối Vàng). Thế giới của người chết thường được xem như là dưới Âm Tào Địa Phủ (陰曹地府), trong lòng đất sâu thẳm; từ đó, người ta thêm số 9 vào chữ tuyền (泉) để chỉ một nơi sâu thẳm như Âm Tào Địa Phủ và cũng là nơi yên nghĩ của người chết.
(s: sāsava, p: sāsrava, 有漏): đối nghĩa với Vô Lậu (s: anāsrava, 無漏). Lậu (s: āsrava, 漏) nghĩa là chảy mất, rỉ rỏ ra, là tên gọi khác của phiền não (s: kleśa, p: kilesa, 煩惱). Con người do vì sai lầm, khổ quả vốn sanh ra từ phiền não, khiến cho họ cử trôi lăn mãi trong thế giới mê lầm, không bao giờ dừng nghỉ, khó có thể thoát ra biển sanh tử; nên goi là Hữu Lậu. Nếu đạt đến cảnh giới đoạn diệt phiền não, được gọi là Vô Lậu. Trong Tứ Thánh Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-arya-sacca, 四聖諦), Khổ Đế và Tập Đế thuộc về nhân và quả của mê lầm, là pháp Hữu Lậu; Diệt Đế và Đạo Đế là nhân và quả của giác ngộ, thuộc về pháp Vô Lậu. Các pháp Hữu Lậu cũng như Vô Lậu vốn ở trong nhân, quả tu hành, có vị trí vô cùng quan trọng. Có nhiều tên gọi khác về Hữu Lậu, A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 1 có nêu lên một số như Thủ Uẩn (取蘊), Hữu Tránh (有諍), Khổ (苦), Tập (集), Thế Gian (世間), Kiến Xứ (見處), Tam Hữu (三有), v.v. Ngoài ra, còn có các danh xưng khác như Hữu Nhiễm (有染), Hữu Nhiễm Ô (有染污), Hữu Phú (有覆), Trần Cấu (塵垢), v.v. Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (另據大乘阿毘達磨雜集論, Taishō Vol. 31, No. 1606) quyển 3 nêu ra 6 loại Hữu Lậu, gồm: Lậu Tự Tánh (漏自性), Lậu Tướng Thuộc (漏相屬), Lậu Sở Phược (漏所縛), Lậu Sở Tùy (漏所隨), Lậu Tùy Thuận (漏隨順), Lậu Chủng Loại (漏種類). Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō Vol. 2, No. 125) có đoạn: “Tư duy Thất Giác Ý thời, Hữu Lậu tâm tận, tiện đắc giải thoát, hậu thành vô thượng chánh chân chi đạo (思惟七覺意時、有漏心盡、便得解脫、後成無上正眞之道, khi tư duy về Thất Giác Chi, tâm Hữu Lậu diệt tận, bèn được giải thoát, sau chứng được đạo vô thượng chánh chân).” Hay trong Du Già Sư Địa Luận Thích (瑜伽師地論釋, Taishō Vol. 30, No. 1580) lại có đoạn: “Khởi chư phiền não, phát Hữu Lậu nghiệp, luân hồi Ngũ Thú, thọ tam đại khổ (起諸煩惱、發有漏業、輪迴五趣、受三大苦, khởi các phiền não, sinh nghiệp Hữu Lậu, luân hồi Năm Đường, chịu ba khổ lớn).”
(屈大均, 1630-1696): xuất thân Phiên Ngu (番禺) Quảng Đông (廣東); ban đầu ten là Thiệu Long (紹隆), tự là Ông Sơn (翁山), Giới Tử (介子). Vào cuối thời nhà Minh, gặp loạn lạc, ông xuống tóc xuất gia tu hành, họ Thích, tự Nhất Linh (一靈), hay Tao Dư (騷余). Về sau ông hoàn tục, lấy lại tên cũ. Ông có sở trường về thơ, chuyên về thể Ngũ Ngôn, cùng nổi danh với Trần Cung Duẫn (陳恭尹), Lương Bội Lan (梁佩蘭), xưng là Lĩnh Nam Tam Đại Gia (嶺南三大家). Ông còn có tài năng về vẽ hoa Lan, có bài thơ Họa Lan Sách (畫蘭冊). Trước tác của ông có Ông Sơn Thi Ngoại (翁山詩外), Dịch Ngoại (易外), Đạo Viên Đường Tập (道援堂集), Quảng Đông Tân Ngữ (廣東新語), v.v.
(金山): núi vàng, từ này được dùng để ví dụ cho thân Phật; như trong Phẩm Tựa của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) có câu: “Thân sắc như kim sơn, đoan nghiêm thậm vi diệu (身色如金山、端嚴甚微妙, thân màu như núi vàng, đoan nghiêm thật vi diệu).” Hay trong Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 27, phẩm Hướng Bồ Đề Thọ (向菩提樹品), còn có câu: “Thử tất thiên quang tân nhật xuất, uy đức chiếu diệu như kim sơn, lân mẫn nhất thiết chư thiên nhân, tạm đáo thọ vương như sư tử (此必千光新日出、威德照耀如金山、憐愍一切諸天人、漸到樹王如師子, đây ắt hào quang trời mới mọc, oai đức chiếu tỏa như núi vàng, thương xót hết thảy các trời người, tạm đến dưới cây như sư tử).” Hoặc trong Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (大方等陀羅尼經, Taishō Vol. 21, No. 1339) quyển 1, lại có đoạn: “Thế Tôn thân sắc như kim sơn, do như nhật quang chiếu thế gian, năng bạt nhất thiết chư khổ não, ngã kim khể thủ đại pháp vương (世尊身色如金山、猶如日光照世間、能拔一切諸苦惱、我今稽首大法王, Thế Tôn thân màu như núi vàng, giống như mặt trời chiếu thế gian, có thể bạt trừ các khổ não, con nay cúi lạy đấng pháp vương).” Kim sơn còn chỉ cho núi vàng bảy tầng ở chung quanh Tu Di Sơn (s, p: Sumeru, 須彌山).
(鈴木正三, Suzuki Shōsan, 1579-1655): vị Thiền Tăng sống vào đầu thời kỳ Giang Hộ; húy là Chánh Tam (正三), Xương Tam (昌三), Thánh Tam (聖三), hay Trùng Tam (重三); thông xưng là Cửu Thái Phu (九太夫); hiệu Huyền Huyền Hiên (玄玄軒), Thạch Bình Đạo Nhân (石平道人); xuất thân vùng Túc Trợ (足助, Asuke), Tam Hà (三河, Mikawa, thuộc Aichi-ken [愛知縣]); trưởng nam của Linh Mộc Trùng Thứ (鈴木重次, Suzuki Shigetsugi), anh của Linh Mộc Trùng Thành (鈴木重成, Suzuki Shigenari). Ông đã từng phục vụ cho hai Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) và Đức Xuyên Tú Trung (德川秀忠, Tokugawa Hidetada), lập nhiều chiến công trong trận chiến Sekigahara (關ヶ原) cũng như trận công kích Thành Osaka; nhưng đến năm 42 tuổi, ông xuất gia. Ông từng đến tham Thiền học đạo với chư vị cao tăng của Lâm Tế Tông cũng như Tào Động Tông. Đến năm 1624, ông sáng lập Ân Chơn Tự (恩眞寺) ở vùng Tam Hà. Vào năm 1641, sau vụ Loạn Đảo Nguyên (島原の亂, Shimabara-no-ran), ông đến vùng Thiên Thảo (天草, Amakusa), viết cuốn Phá Cát Lợi Chi Đan (破吉利支丹) và nổ lực bài trừ Thiên Chúa Giáo. Đến cuối đời, ông chuyên tâm giáo hóa chúng đạo tục, khuyến khích hành Thiền ở Liễu Tâm Am (了心庵) vùng Thiển Thảo (淺草, Asakusa), Giang Hộ. Trước tác của ông có rất nhiều như Lô Án Kiều (驢案橋) 3 quyển, Nhị Nhân Tỳ Kheo Ni (二人比丘尼) 2 quyển, Vạn Dân Đức Dụng (萬民德用) 1 quyển, Manh An Trượng (盲安杖) 1 quyển, Phá Cát Lợi Chi Đan (破吉利支丹) 1 quyển, Niệm Phật Thảo Chỉ (念佛草紙) 2 quyển, Linh Mộc Chánh Tam Đạo Nhân Toàn Tập (鈴木正三道人全集) 1 quyển, Phản Cố Tập (反故集), Nhân Quả Vật Ngữ (因果物語), v.v.
(梁佩蘭, 1629-1705): tự là Chi Ngũ (芝五), hiệu Dược Đình (藥亭), người Nam Hải (南海); đỗ kỳ thi Hương vào năm thứ 14 (1657) niên hiệu Thuận Trị (順治). Ông nổi danh về thi ca, cùng với Khuất Đại Quân (屈大均), Trần Cung Duẫn (陳恭尹) xưng là Lĩnh Nam Tam Đại Gia (嶺南三大家). Vào năm thứ 20 (1681) đời Khang Hy, ông lên miền Bắc, kết Thi Xã với nhóm phục hưng Chu Trúc Xá (朱竹垞), v.v. Đến năm thứ 27 (1688), ông trở về miền Nam. Ông có năng khiếu về thư pháp, vẽ tranh; thư thể có phong cách chữ Lệ, thư bút thì diễm tuyệt, nhàn hạ.
(良源, Ryōgen, 912-985): vị tăng của Thiên ThaiTông Nhật Bản, sống dưới thời đại Bình An, thụy hiệu Từ Huệ Đại Sư (慈慧大師), người đời thường gọi ông là Nguyên Tam Đại Sư (元三大師), Ngự Miếu Đại Sư (御廟大師), Giác Đại Sư (角大師), Đậu Đại Sư (豆大師), họ là Mộc Tân (木津), xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Năm lên 12 tuổi, ông theo học pháp với Lý Tiên (理仙), và sau khi thầy qua đời, ông đến thọ giới với Thiên Thai Tọa Chủ Tôn Ý (尊意, Soni), rồi theo học với Hỷ Khánh (喜慶, Kikei), Giác Huệ (覺惠, Kakue) và Vân Tình (雲晴, Unsei). Vào năm 937, tại Duy Ma Hội của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), ông đã đối luận với Nghĩa Chiêu (義昭, Gishō) của Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji) và hàng phục được vị này. Đến năm 963, tại Pháp Hoa Hội ở Thanh Lương Điện, ông lại luận phá được Pháp Tàng (法藏, Hōzō) của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), nên thanh danh của ông vang khắp thiên hạ. Năm 964, ông được liệt vào hàng Nội Cúng Phụng (內供奉, hàng ngũ của 10 vị Thiền Sư), rồi năm sau thì làm Quyền Luật Sư, năm kế đến thì trở thành Thiên Thai Tọa Chủ. Trong thời gian làm Tọa Chủ được khoảng 20 năm, ông đã nỗ lực phục hưng Giảng Đường và giáo dưỡng đồ chúng. Chính ông đã định ra Nhị Thập Lục Điều Thức (二十六條式) để chỉnh đốn quy luật trongSơn Môn. Ông được sùng ngưỡng như là vị Tổ Sư thời Trung Hưng, và ngoài thế gian thì sùng bái như là hóa thân của Quan Âm, hay của Bất Động Minh Vương Bồ Tát. Môn hạ của ông có một số nhân vật kiệt xuất như Nguyên Tín (源信, Genshin), Giác Vận (覺運, Kakuun), Tầm Thiền (尋禪, Jinzen), Giác Siêu (覺超, Kakuchō) và hơn 3000 người. Trước tác của ông để lại có Bách Ngũ Thập Tôn Khẩu Quyết (百五十尊口訣), Cửu Phẩm Vãng Sanh Nghĩa (九品徃生義), Danh Biệt Nghĩa Thông Tư Ký (名別義通私記), Thai Kim Niệm Tụng Hành Ký (胎金念誦行記).
(五色): 5 sắc màu, gồm: hồng, vàng, lam, trắng và đen. Theo Đạo Giáo, 5 màu này là hồng, vàng, xanh lá cây, trắng và đen; đối ứng với Ngũ Hành, như phương Đông, Giáp Ất, Mộc, thuộc màu xanh lá cây; phương Nam, Bính Đinh, Hỏa, màu hồng; phương Tây, Canh Tân, Kim, màu trắng; phương Bắc, Nhâm Quý, Thủy, màu đen; phương giữa, Mậu Kỷ, Thổ, màu vàng. Ngũ sắc tường vân (五色祥雲) là đám mây lành có 5 sắc màu, như một số câu đối thường dùng trong nhà như: “Tứ thời giai khí thân nhân lí, ngũ sắc tường vân tích thiện gia (四時佳氣親仁里、五色祥雲積善家, bốn thời khí tốt thân nhân xóm, năm sắc mây lành chứa thiện nhà)”, “Nhất đại tường vân huy ngũ sắc, bách niên cảnh phước khánh Tam Đa (一代祥雲輝五色、百年景福慶三多, một đời mây lành sáng năm sắc, trăm năm hưởng phước rạng Ba Điều [phước nhiều, thọ nhiều và sanh con trai nhiều]).”
(日隆, Nichiryū, 1385-1464): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng thời đại Thất Đinh, vị Tổ khai sơn của Bổn Hưng Tự (本興寺) và Bổn Năng Tự (本能寺), vị Tổ đời thứ 7 của Diệu Liên Tự (妙蓮寺), vị Tổ của Phái Bát Phẩm (八品派, tức Dòng Bổn Môn Pháp Hoa Tông [法華宗本門流]); húy là Nhật Long (日隆), Nhật Lập (日立); tự là Thâm Viên (深圓), hiệu Tinh Tấn Viện (精進院), Quế Lâm Phòng (桂林房); xuất thân vùng Việt Trung (越中, Ecchū, thuộc Toyama-ken [富山縣]). Ông xuất gia ở Viễn Thành Tự (遠成寺) vùng Việt Trung, rồi theo hầu Nhật Tễ (日霽) ở Diệu Bổn Tự (妙本寺, tức Diệu Hiển Tự [妙顯寺]) ở kinh đô Kyoto. Sau khi Nhật Tễ qua đời, ông đối lập với Nguyệt Minh (月明), người kế thừa ngôi chùa này; rồi ông cùng với bác là Nhật Tồn (日存) rời khỏi chùa, chuyển đến sống ở Tượng Sư Đường (像師堂, tức Diệu Liên Tự). Ông đã từng kiến lập các chùa như Bổn Hưng Tự ở vùng Nhiếp Tân (攝津), Bổn Ứng Tự (本應寺, tức Bổn Năng Tự) ở kinh đô, v.v., và mở riêng một dòng phái khác. Trước tác của ông có rất nhiều như Tứ Thiếp Sao (四帖抄) 4 quyển, Bổn Môn Hoằng Kinh Sao (本門弘經抄) 113 quyển, Ngự Thư Văn Đoạn Tập (御書文段集) 5 quyển, Thập Tam Vấn Đáp Sao (十三問答抄) 2 quyển, Khai Tích Hiển Bổn Tông Yếu Tập (開迹顯本宗要集) 66 quyển, Tam Đại Bộ Lược Đại Ý (三大部略大意) 17 quyển, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập