Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tả Truyện »»
(北海): biển phía Bắc, có nhiều nghĩa khác nhau.
(1) Tên gọi một địa phương rất xa xôi, rất ít được dùng đến thời cổ đại. Như trong Tả Truyện (左傳), chương Hy Công Tứ Niên (僖公四年) có câu: “Quân xử Bắc Hải, quả nhân xử Nam Hải, duy thị phong mã ngưu bất tương cập dã (君處北海、寡人處南海、唯是風馬牛不相及也, người ở biển Bắc, quả nhân ở biển Nam, chỉ là gió trâu ngựa không cùng đến được).” Hay trong Tuân Tử (荀子), phần Vương Chế (王制) cũng có đoạn: “Bắc Hải tắc hữu tẩu mãu phệ khuyển yên, nhiên nhi Trung Quốc đắc nhi súc sử chi (北海則有走馬吠犬焉、然而中國得而畜使之, biển Bắc tất có ngựa chạy chó sủa, vì vậy Trung Quốc bắt đem về nuôi và sử dụng chúng).”
(2) Tên gọi khác của Bột Hải (渤海), như trong Trang Tử (莊子), phần Thu Thủy (秋水) có câu: “Thuận lưu nhi Đông hành, chí ư Bắc Hải, Đông diện nhi thị, bất kiến thủy đoan (順流而東行、至於北海、東面而視、不見水端, theo dòng mà đi về phía Đông, đến nơi Bột Hải, xoay mặt về phía đông mà nhìn, chẳng thấy nguồn nước).”
(3) Tên gọi của Quận Bắc Hải (北海郡) dưới thời nhà Hán, hiện ở tại địa phương Huyện Xương Lạc (昌樂縣), Tỉnh Sơn Đông (山東省). Như trong Văn Tâm Điêu Long (文心雕龍), phần Lụy Bi (誄碑) có đoạn rằng: “Phó Nghị chi lụy Bắc Hải, vân 'bạch nhật u quang, phân vụ yểu minh' (傅毅之誄北海、云'白日幽光、雰霧杳冥', Phó Nghị thuật về Quận Bắc Hải rằng: 'ban ngày tối tăm, sương khói mù mịt).” Vào cuối thời nhà Hán, Khổng Dung (孔融) được bổ nhiệm làm tướng ở Quận Bắc Hải, nên người đời gọi ông là Khổng Bắc Hải (孔北海). Trong bài thơ Thanh Uyển Vọng Lang Sơn Hữu Hoài Chu Khắc Trai (清苑望郎山有懷朱克齋) của Diêu Nãi (姚鼐, 1731-1815) nhà Thanh lại có câu: “Dục tương Bắc Hải đồng tôn tửu, nhiễu tận Tây Sơn đáo Vệ Châu (欲將北海同樽酒、遶盡西山到衛州, muốn đến Bắc Hải cùng nhắp rượu, đi khắp Tây Sơn đến Vệ Châu).”
(4) Bên cạnh đó, đây là tên gọi của Hồ Baikan của Siberia. Trong Tô Võ Truyện (蘇武傳) nhà Hán có đoạn rằng: “Hung Nô tỉ Tô Võ ư Bắc Hải thượng (匈奴徙蘇武於北海上, giặc Hung Nô đuổi Tô Võ lên vùng Hồ Baikan).”
(后土): có nhiều nghĩa khác nhau:
(1) Tôn xưng đối với đại địa, như trong chương Hy Công Thập Ngũ Niên (僖公十五年) của Tả Truyện (左傳) có đoạn rằng: “Quân lý Hậu Thổ nhi đái Hoàng Thiên (君履后土而戴皇天, người tuy đạp lên Thần Đất mà đội ông Trời).”
(2) Chỉ Thần Thổ Địa, Thần Đất, Địa Thần (地神), đồng nghĩa với Địa Kỳ (地祗), hay chỉ cho nơi thờ tự Thần Thổ Địa. Như trong Chu Lễ (周禮), phần Xuân Quan (春官), Đại Tông Bá (大宗伯) có câu: “Vương đại phong, tắc tiên cáo Hậu Thổ (王大封、則先告后土, nhà vua phong chức, trước phải cáo Thần Thổ Địa).” Hay trong Hán Thư (漢書), phần Võ Đế Kỷ (武帝紀) lại có câu: “Trẫm cung tế Hậu Thổ Địa Kỳ, kiến quang tập vu linh đàn, nhất dạ tam chúc (朕躬祭后土地祇、見光集于靈壇、一夜三燭, Trẫm cung kính cúng tế Thần Thổ Địa, thấy ánh sáng tập trung nơi linh đàn, một đêm ba lần thắp nến sáng).”
(3) Tên gọi khác của Thổ Công (土公), xem chú thích Thổ Công bên trên.
(4) Tên gọi của một chức quan chuyên quản lý đất đai thời Thượng Cổ, như trong Tả Truyện, chương Chiêu Công Nhị Thập Cửu Niên (昭公二十九年) có giải thích rằng: “Ngũ Hành chi quan, thị vị Ngũ Quan …, Thủy Chánh viết Huyền Minh, Thổ Chánh viết Hậu Thổ (五行之官、是謂五官…水正曰玄冥、土正曰后土, quan Ngũ Hành được gọi là Ngũ Quan; … quan trông coi về thủy đạo là Huyền Minh, quan trông coi về đất đai là Hậu Thổ).”
Trong dân gian Trung Quốc có câu chuyện Hậu Thổ Phu Nhân (后土夫人) cưới chàng họ Vi (韋). Trong khoảng thời gian niên hiệu Nguyên Hòa (元和, 806-820), khi tướng Cao Biền (高駢, 821-887) làm Tiết Độ Sứ (節度使) Hoài Nam (淮南), bộ tướng (呂用之) ngụy tạo ra điềm linh dị của Hậu Thổ Phu Nhân và khuyên Cao Biền nên cát cứ một phương. Như trong bài thơ Hậu Thổ Miếu (后土廟) của La Ẩn (羅隱, 833-909) nhà Đường có câu: “Cửu Thiên Huyền Nữ do vô Thánh, Hậu Thổ Phu Nhân khởi hữu linh (九天玄女猶無聖、后土夫人豈有靈, Cửu Thiên Huyền Nữ chẳng phải Thánh, Hậu Thổ Phu Nhân sao có linh)” để nói lên sự hôn mê, vô tri của Cao Biền lúc bấy giờ. Hậu Thổ còn có tên gọi khác là Thổ Hoàng (土皇), vị Địa Thần của Đạo Giáo, được liệt vào trong Tứ Ngự (四御). Thần hiệu của Hậu Thổ là Thừa Thiên Hiệu Pháp Khai Hoàng Hậu Thổ Nguyên Quân (承天効法開皇后土元君), còn gọi là Địa Mẫu Nương Nương (地母娘娘), Hậu Thổ Nương Nương (后土娘娘). Trong điện thờ Tứ Ngự có thần tượng hay thần vị của Hậu Thổ. Tại Trung Quốc, kể từ thời nhà Đường trở đi, theo đà phát triển của thuật Phong Thủy, mỗi khi động thổ, thượng lương, về nhà mới, trấn trạch, làm cầu, đắp đường, v.v., người dân đều có thiết trai nghi dâng cúng tạ Hậu Thổ để cầu cho gia trạch bình an, cầu đường hanh thông, ban phước tiêu tai cát tường. Truyền thống này cũng được tìm thấy trong văn hóa tín ngưỡng Việt Nam. Tại Huế mỗi năm có 2 tháng để Cúng Đất là tháng 2 hoặc tháng 8 Âm Lịch. Trong lễ này, ngoài những lễ vật độc đáo như cua, trứng vịt luộc, rau muống luộc mắm nêm, v.v., còn có luộc một con gà kiến tuổi đã trưởng thành và con gà đó phải được chọn lựa kỹ lưỡng, đặc biệt đôi chân phải “đẹp”. Sau khi cúng đất xong, theo tục lệ cặp chân gà được đem đi nhờ thầy xem bói giò để biết thời vận trong gia đình, hoặc được đem treo ở chàng bếp cho khô.
(火德星君):
(1) Dân gian thường gọi là Hỏa Thần Da (火神爺, Ông Thần Lửa), hay Hỏa Thiên Kim Cang (火天金剛), Xích Đế (赤帝), là con của vị trưởng bộ tộc thời cổ đại xa xưa. Ông là người phát hiện ra phương pháp khẻ đá châm lửa. Hoàng Đế (黃帝) biết được bèn phong cho ông làm quan chưởng quản về lửa, cũng ban cho tên là Chúc Dung (祝融). Dưới thời đại của Hoàng Đế, ở phương nam có một thị tộc tên Xí Vưu (蚩尤), thường vào gây rối ở Trung Nguyên; nhân đó, Hoàng Đế hạ lệnh cho Chúc Dung đem binh mã thảo phạt. Tuy nhiên Xí Vưu người nhiều thế mạnh, anh em lại rất đông, mỗi người đều mang áo da thú, đầu đội sừng trâu, trông rất hùng mạnh và ghê tợn. Chúc Dung chỉ biết dùng lửa làm vũ khí, đốt cháy quân đội của Xí Vưu. Địch quân tháo chạy, Chúc Dung đuổi đến tận Hoàng Hà (黃河), Trường Giang (長江) và cuối cùng đánh bại Xí Vưu. Sau khi trở về triều, Chúc Dung được Hoàng Đế ban cho chưởng quan phương Nam, cho nên tại đây ông đã giáo hóa dân chúng biết cách dùng lửa trong sinh hoạt hằng ngày, như dùng lửa để xua đuổi dã thú, muỗi, để chế tạo các đồ dùng kim thuộc; nhờ vậy cuộc sống của người dân được cải thiện hơn nhiều. Cảm kích trước ân đức đó, người dân tôn xưng ông là Xích Thần (赤帝, xích là màu đỏ, cũng có ý là lửa). Ông sống được hơn trăm tuổi, và sau khi qua đời, bá tánh lập Xích Đế Điện để tôn thờ và tưởng nhớ đến ân đức cao dày của ông. Lịch đại chư vị đế vương đều phong hiệu cho ông như Hỏa Thần (火神), Hỏa Đức Tinh Quân (火德星君). Như trong Thần Đản Phổ (神誕譜) có giải thích rằng: “Hỏa Đức Tinh Quân, vi Viêm Đế Thần Nông thị chi linh, tự chi vi Hỏa Thần, dĩ nhương hỏa tai (火德星君、爲炎帝神農氏之靈、祀之爲火神、以禳火災, Hỏa Đức Tinh Quân là linh của Viêm Đế Thần Nông, thờ làm Hỏa Thần để giải trừ hỏa tai).” Sử Ký (史記) ghi rõ rằng: “Hỏa Thần vi Chúc Dung, Chuyên Húc chi tử, danh Lê (火神爲祝融、顓頊之子、名黎, Thần Lửa là Chúc Dung, con của Chuyên Húc, tên là Lê).” Trong khi đó, Quốc Ngữ (國語) lại cho hay một thông tin thú vị khác: “Hỏa Thần vi Hồi Lộc (火神爲回祿, Thần Lửa là Hồi Lộc).” Hồi Lộc hay Hồi Lục (回陸), do vì xưa kia tại nước Sở có một người tên Ngô Hồi (吳回), làm quan trông coi về lửa, nên có thuyết cho rằng ông là Hồi Lộc. Vì vậy trong Tả Truyện (左傳) có đoạn rằng: “Trịnh nhương hỏa vu Hồi Lộc (鄭禳火于回祿, Trịnh cầu nguyện lửa nơi Hồi Lộc).” Và người thời nay gọi hỏa hoạn là “Hồi Lộc chi tai (回祿之災, tai họa Hồi Lộc).”
(2) Là tên gọi khác của Táo Quân (竈君), vị thần chưởng quản Nhà Bếp.
(3) Là tên gọi của một trong Ngũ Đức Tinh Quân (五德星君), gồm Đông Phương Mộc Đức Tinh Quân (東方木德星君), húy Trọng Hoa (重華); Nam Phương Hỏa Đức Tinh Quân (南方火德星君), húy Huỳnh Hoặc (熒惑); Tây Phương Kim Đức Tinh Quân (金德星君), húy Thái Bạch (太白); Bắc Phương Thủy Đức Tinh Quân (水德星君), húy Tứ Thần (伺晨); Trung Ương Thổ Đức Tinh Quân (土德星君), húy Địa Nhật Hầu (地日侯).
(4) Là tên gọi của một trong Cửu Diệu (九曜), gồm Kế Đô Tinh Quân (計都星君), Hỏa Đức Tinh Quân (火德星君), Mộc Đức Tinh Quân (木德星君), Thái Âm Tinh Quân (太陰星君), Thổ Đức Tinh Quân (土德星君), La Hầu Tinh Quân (羅睺星君), Thái Dương Tinh Quân (太陽星君), Kim Đức Tinh Quân (金德星君), và Thủy Đức Tinh Quân (水德星君).
Hằng năm vào ngày 23 tháng 6 Âm Lịch, dân gian vẫn thường hành lễ kỷ niệm Thánh đản của Hỏa Đức Tinh Quân. Trong Phật Giáo vẫn công nhận Hỏa Đức Tinh Quân là một vị thần. Từ thời nhà Tống (宋, 960-1279) trở đi, trước tượng thờ chính trong Chánh Điện của các Thiền viện đều có treo bài vị “Nam Phương Hỏa Đức Tinh Quân Thần (南方火德星君神).” Mỗi tháng vào ngày mồng 4 và 18, chư tăng tụng kinh hồi hướng để cầu nguyện cho già lam hưng thạnh, yên ổn, không bị hỏa hoạn. Tương truyền Hòa Thượng Đạo Tế (道濟, tức Tế Công [濟公]) của Linh Ẩn Tự (靈隱寺) đã từng thấy Hỏa Đức Tinh Quân hóa hiện người nữ vào chùa, bèn chạy đến trước mặt cô ta chận đường, liền bị quở trách là đùa giỡn với nữ nhân. Tế Công trở về phòng nhập định và kết quả chùa bị hỏa hoạn thảm khốc. Có hôm nọ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (朱元璋, tại vị 1368-1398) ăn bánh nướng ở trong điện, ăn ngụm đầy cả miệng. Quan Nội Giám thấy vậy bèn chạy đi báo cho Quốc Sư Lưu Cơ (劉基) biết, nhân đó Quốc Sư có làm bài Thiêu Bính Ca (燒餠歌), trong đó có đề cập đến Hỏa Đức Tinh Quân rằng: “Hỏa phong đỉnh, lưỡng hỏa sơ hưng định thái bình; hỏa sơn lữ, Ngân Hà Chức Nữ nhượng Ngưu Tinh, Hỏa Đức Tinh Quân lai hạ giới, kim điện lâu đài tận Bính Đinh, nhất cá hồ tử Đại Tướng Quân (火風鼎,兩火初興定太平,火山旅,銀河織女讓牛星,火德星君來下界,金殿樓臺盡丙丁,一個鬍子大將軍, đỉnh gió lửa, hai lửa mới thành định thái bình; núi lửa chơi, Ngân Hà Chức Nữ nhường Sao Ngưu, Hỏa Đức Tinh Quân xuống hạ giới, điện vàng lâu đài thảy tiêu tan, còn một chòm râu Đại Tướng Quân).”
(皇天): là tiếng kính xưng ông trời, trời xanh; còn gọi là Hoàng Thiên Thượng Đế (皇天上帝), Hạo Thiên Thượng Đế (昊天上帝), một trong các vị thần của Đạo Giáo. Tên gọi của vị này xuất hiện sớm nhất trong Thượng Thư (尚書), Thi Kinh (詩經), là vị thần chủ tể của trời đất vũ trụ. Theo tác phẩm Trung Quốc Tôn Giáo Tư Tưởng Sử Đại Cương (中國宗敎思想史大綱, do Nhà Xuất Bản Dân Quốc Học Thuật Kinh Điển Văn Khố [民國學術經典文庫] ấn hành) của Vương Trị Tâm (王治心), trong truyện thần thoại thời thượng cổ của Trung Quốc có đề cập rằng Hạo Thiên (tức Hoàng Thiên) Thượng Đế là đấng tối tôn kính, kế đến là Thương Đế (蒼帝, hay Viêm Đế [炎帝]) ở phương Đông, chủ về mộc, tên là Linh Uy Ngưỡng (靈威仰); Xích Đế (赤帝) ở phương Nam, chủ về hỏa, tên là Xích Nộ (赤怒, hay Xích Hỏa Tiêu Nộ [赤火票怒]); Hoàng Đế (皇帝) ở trung ương, chủ về Thổ, tên là Xu Nữu (樞紐); Bạch Đế (白帝) ở phương Tây, chủ về kim, tên là Bạch Chiêu Cứ (白招據); Hắc Đế (黑帝) ở phương Bắc, chủ về thủy, tên là Diệp Quang Kỷ (葉光紀). Từ quan điểm này, ta thấy rằng Thượng Đế chỉ có một mà thôi, tức Hoàng Thiên Thượng Đế. Ngoài ra các vị đế khác thì không ít. Chữ “Đế (帝)” được dùng đơn độc trong Thi Kinh (詩經), Thư Kinh (書經), Dịch Kinh (易經), các đỉnh chuông, văn giáp cốt đều chỉ Thượng Đế. Quách Mạt Nhược (郭沫若, 1892-1978) cho rằng: “Thượng hạ bổn lai thị tương đối đích tự, hữu Thượng Đế nhất định dĩ hữu Hạ Đế (上下本來是相對的字、有上帝一定巳有下帝, xưa nay Thượng và Hạ là hai từ mang tính tương đối, có Thượng Đế nhất định phải có Hạ Đế).” Thi Kinh, phần Đại Nhã (大雅) cũng như Chu Tụng (周誦) có câu rằng: “Thiên sanh chưng dân, hữu vật hữu tắc (天生蒸民、有物有則, Trời sanh ra lũ dân, có vật thì có quy tắc).” Rõ ràng điều này muốn nhấn mạnh rằng Hạo Thiên Thượng Đế sinh dưỡng nhân dân, sáng tạo vạn vật, định ra pháp luật; cho nên Ngài là đấng sáng tạo. Trong phần Tiểu Nhã (小雅) và Đại Nhã (大雅) của tác phẩm trên cũng có câu: “Minh minh thiên thượng, chiếu lâm hạ địa (明明天上、照臨下地, sáng tỏ trên trời, chiếu xuống dưới đất)”, hay “Hoàng tai Thượng Đế, lâm hạ hữu hách (皇哉上帝、臨下有赫, Lớn thay Thượng Đế, giáng xuống lẫm liệt)”, hoặc “đãng đãng Thượng Đế, hạ dân chi tịch (蕩蕩上帝、下民之闢, vời vợi Thượng Đế, thâu khắp vạn dân)”; chứng tỏ muốn nói rằng Thượng Đế là đấng chủ tể của vạn dân vốn rất từ ái, vĩ đại, uy phong, vĩnh hằng, vô hạn. Trong chương Hy (僖) 15 của Tả Truyện (左傳) có đoạn rằng: “Quân lý Hậu Thổ nhi tải Hoàng Thiên (君履后土而載皇天, người tuy đạp lên Thần Đất mà đội ông Trời).” Hoàng Thiên Hậu Thổ là thần Trời và thần Đất, là thuật ngữ thường đi chung với nhau. Như trong tác phẩm Cán Sa Ký (浣紗記), phần Phạt Việt (伐越) của Lương Thần Ngư (梁辰魚, 1520-1580) nhà Minh có câu: “Hoàng Thiên Hậu Thổ, giám sanh bình trung hiếu chi tâm, danh sơn đại xuyên, lượng túc tích anh hào chi khí (皇天后土、鑒生平忠孝之心、名山大川、諒宿昔英豪之氣, Hoàng Thiên Hậu Thổ, chứng giám tâm trung hiếu trong đời, núi cao sông lớn, giữ mãi khí anh hào xưa kia).”
(結草含[銜]環): hay hàm hoàn kết thảo (含環結草、銜環結草), nghĩa là kết cỏ ngậm vành. Kết thảo (結草, kết cỏ) vốn phát xuất từ câu chuyện trong Tả Truyện (左傳), phần Tuyên Công Thập Ngũ Niên (宣公十五年). Ngụy Võ Tử (魏武子) là quan Đại Phu nhà Tần, có một người vợ lẽ rất đẹp. Tục lệ nước Tần, hễ chồng chết thì phải chôn người thiếp chết theo. Lúc bình thường, Ngụy Võ Tử dặn con trưởng Ngụy Khỏa (魏顆) rằng khi ông chết thì đừng chôn người thiếp đó theo, mà hãy tìm nơi tử tế gả nàng. Nhưng sau đó, khi Ngụy Võ Tử đau gần chết thì lại dặn con là chôn người thiếp ấy theo. Đến khi Ngụy Võ Tử chết, Ngụy Khỏa không chôn người thiếp của cha, sau đó lại tìm người tử tế gả nàng để nương nhờ tấm thân. Có người thắc mắc, Ngụy Khỏa đáp rằng: “Tật bệnh tắc loạn, ngô tùng kỳ trị dã (疾病則亂、吾從其治也, khi bị tật bệnh thì không sáng suốt, ta cứ theo lời dặn trước đây của người vậy).” Về sau, Ngụy Khỏa lên làm tướng nước Tần, đánh nhau với tướng của nước Tấn là Đỗ Hồi (杜回) rất vũ dũng, ít ai thắng nổi, Ngụy Khỏa thường thua. Có một hôm, Ngụy Khỏa và Đỗ Hồi ra trận, đánh nhau trên một bãi cỏ, Ngụy Khỏa thấy mường tượng như có một ông già đang cúi xuống kết cỏ thành từng vòng dưới chân ngựa của Đỗ Hồi, khiến cho ngựa của Đỗ Hồi vướng cỏ ngã lăn ra, Đỗ Hồi cũng ngã theo, bị Ngụy Khỏa bắt đem về, thắng trận vẻ vang. Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa mộng thấy ông già kết cỏ về bảo rằng: “Dư, nhi sở giá phụ nhân chi phụ dã, nhĩ dụng tiên nhân chi trị mệnh, dư thị dĩ báo (余、而所嫁婦人之父也、爾用先人之治命、余是以報, tôi là cha của người thiếp do ông đã gả chồng, ông biết theo lời dặn sáng suốt của tiền nhân để gả chồng cho con gái tôi, tôi lấy việc đó để báo ơn ông).” Do điển tích này, từ ngữ kết thảo thường được dùng để chỉ việc đền ơn đáp nghĩa. Từ hàm hoàn (銜環, 含環, ngậm vành) có xuất xứ từ câu chuyện trong Hậu Hán Thư (後漢書) quyển 54, Truyện Dương Chấn (楊震傳) có chú dẫn Tục Tề Hài Ký (續齊諧記) của Ngô Quân (吳均, 469-520) nhà Lương thời Nam Triều. Chuyện kể rằng vào thời nhà Hán, có Dương Bảo (楊寶), lúc 9 tuổi, đi chơi đến phía bắc núi Hoa Âm (華陰), thấy một con chim sẻ vàng bị con chim cú đánh rơi xuống gốc cây, lại bị kiến lửa bu đốt. Dương Bảo lấy làm thương hại, bắt đem về nhà chăm sóc, nuôi cho đến khi chim sẻ khỏe mạnh, lông mọc đầy đủ mới thả cho bay đi. Đêm hôm ấy, Dương Bảo bỗng thấy một đứa bé mặc áo vàng ngậm một vòng ngọc, chạy vào trướng, đến trước mặt Dương Bảo nói: “Ngã Tây Vương Mẫu Sứ Giả, quân nhân ái cứu chửng, thật cảm thành tế (我西王母使者、君仁愛救拯、實感成濟, tôi là Sứ Giả của Tây Vương Mẫu, ông nhân ái cứu sống tôi, thực cảm đội ơn cứu mạng).” Rồi lấy bốn chiếc vòng ngọc trắng trao cho Dương Bảo và nói tiếp: “Linh quân tử tôn khiết bạch, vị đăng Tam Sự, đương như thử hoàn (令君子孫潔白、位登三事、當如此環矣, mong cho con cháu của ông luôn trong trắng, liêm khiết, sau này hiển đạt lên Tam Công [Thái Úy, Tư Đồ, Tư Không], giống như mấy chiếc vòng này).” Nói xong, cậu bé áo vàng để lại vòng ngọc, từ tạ bay mất. Thuật ngữ “kết thảo hàm hoàn” trở thành thông dụng và rất phổ biến trong văn học dân gian. Như trong tác phẩm Hôi Lan Ký (灰闌記) phần 1 của Lý Hành Đạo (李行道, ?-?) nhà Nguyên có câu: “Đa tạ đại nương tử, tiểu nhân kết thảo hoàn hàm, thử ân tất đương trọng báo (多謝大娘子、小人結草銜環、此恩必當重報, xin đa tạ đại nương tử, kẻ tiểu nhân kết cỏ ngậm vành, ơn này tất sẽ báo đáp).” Hay trong Tây Du Ký (西遊記), hồi 37 lại có đoạn: “Kim lai chí tâm bái khẩn, thiên khất đáo ngã quốc trung, chưởng trụ yêu ma, biện minh tà chánh, Trẫm đương kết thảo hàm hoàn, báo thù sư ân dã (今來志心拜懇、千乞到我國中、拿住妖魔、辨明邪正、朕當結草銜環、報酬師恩也, nay đến đây thành tâm lạy khẩn thiết, ngàn lần cầu xin Người đến nước tôi, dẹp trừ yêu ma, làm rõ chánh tà, Trẫm sẽ kết cỏ ngậm vành, báo đáp ơn của Đại Sư).” Ngay như trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du (阮攸, 1765-1820) cũng có câu: “Rằng tôi bèo bọt chút thân, lạc đàn mang lấy nợ nần yến oanh, dám nhờ cốt nhục tử sinh, còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau.”
(聖哲): chỉ đạo đức tài trí siêu nhân, cũng chỉ cho người có đạo đức tài trí; cũng dùng chỉ cho đế vương. Trong Tả Truyện (左傳), phần Văn Công Lục Niên (文公六年), có đoạn: “Cổ chi vương giả, tri mạng chi bất trường, thị dĩ tinh kiến Thánh triết (古之王者、知命之不長、是以幷建聖哲, vua ngày xưa, biết mạng không lâu dài, cho nên mới lập đạo đức tài trí).” Hay trong Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 3, phần Kiện Đà La Quốc Ca Nị Sắc Ca Vương (健馱邏國迦膩色迦王), lại có đoạn rằng: “Vương nãi tuyên lịnh viễn cận, chiêu tập Thánh triết, ư thị tứ phương bức thấu, vạn lí tinh trì, anh hiền tất tụy (王乃宣令遠近、召集聖哲、於是四方輻湊、萬里星馳、英賢畢萃, nhà vua bèn tuyên lệnh xa gần, chiêu tập tài đức, do đó bốn phương tập trung, vạn dặm bôn ba, hiền sĩ tụ họp).”
(詩書): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho Thi Kinh (詩經) và Thượng Thư (尚書). Như trong Tả Truyện (左傳), thiên Hi Công Nhị Thập Thất Niên (僖公二十七年), có đoạn: “Thi, Thư, nghĩa chi phủ dã; Lễ, Nhạc, đức chi tắc dã (詩、書、義之府也、禮、樂、德之則也, Thi và Thư là tủ sách chứa đựng nghĩa; Lễ và Nhạc là khuôn phép của đức).” (2) Chỉ chung cho các thư tịch, sách vở. Như trong bài thơ Văn Quan Quân Thu Hà Nam Hà Bắc (聞官軍收河南河北) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường có câu: “Khước khan thê tử sầu hà tại, mạn quyển thi thư hỷ dục cuồng (卻看妻子愁何在、漫卷詩書喜欲狂, nhìn lại vợ con buồn cớ lẽ, bao quyển văn thư vui muốn điên).” (3) Làm thơ và thư pháp. Như trong Tống Thư (宋書), Truyện Tạ Linh Vận (謝靈運傳), có đoạn nhận xét rằng: “Linh Vận thi thư giai kiêm độc tuyệt, mỗi văn cánh, thủ tự tả chi, Văn Đế xưng vi nhị bảo (靈運詩書皆兼獨絕、每文竟、手自寫之、文帝稱爲二寶, cả thơ và thư pháp của Tạ Linh Vận [385-433] đều độc đáo, có một không hai; mỗi cuối đoạn văn, tự tay ông viết, vua Văn Đế [tại vị 424-353] gọi đó là hai báu vật).”
(庇廕): hay tỉ ấm (庇蔭), tỉ âm (庇陰), nghĩa là bóng râm, bóng mát, sự bảo hộ, che chở. Trong phần Văn Công Thất Niên (文公七年) của Tả Truyện (左傳) có đoạn: “Chiêu Công tương khử quần công tử. Lạc Dự viết: 'Bất khả. Công tộc, công thất chi diệp dã; nhược khử chi, tắc căn bổn vô sở tỉ ấm hỉ (昭公將去羣公子。樂豫曰:'不可。公族、公室之枝葉也、若去之、則本根無所庇陰矣, Chiêu Công định xả bỏ các công tử. Lạc Dự nói rằng: 'Không được. Hàng công tộc là cành lá của công thất; nếu bỏ đi, tất không có nơi che chở cho gốc rễ').” Trong bài thơ Sơ Táng Thôi Nhi Báo Vi Chi Hối Thúc (初喪崔兒報微之晦叔) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường có câu: “Văn chương thập chật quan Tam Phẩm, thân hậu truyền thùy tỉ ấm thùy (文章十帙官三品、身後傳誰庇廕誰, Văn chương mười quyển quan Tam Phẩm, thân sau truyền ai che chở ai ?).” Hay trong phần Miễn Học (勉學) của Nhan Thị Gia Huấn (顏氏家訓) có đoạn rằng: “Phụ huynh bất khả thường y, hương quốc bất khả thường bảo, nhất đán lưu ly, vô nhân tỉ ấm, đương tự cầu chư thân nhĩ (父兄不可常依、鄉國不可常保、一旦流離、無人庇廕、當自求諸身耳, Cha anh không thể thường nương tựa, nước nhà không thể thường bảo hộ, một mai xa lìa, không người che chở, nên phải từ cầu ở bản thân mình vậy).”
(無極): có hai nghĩa chính. (1) Vô cùng tận, không biên giới. Như trong Tả Truyện (左傳), chương Hy Công Nhị Thập Tứ Niên (僖公二十四年), có câu: “Nữ đức vô cực, nữ oán vô chung (女德無極、女怨無終, đức của người nữ không cùng, nỗi oán hờn của người nữ không tận).” Hay trong bài Phụng Hòa Đậu Dung Châu (奉和竇容州) của Nguyên Chẩn (元稹, 779-831) nhà Đường cũng có đoạn: “Tự thán phong ba khứ vô cực, bất tri hà nhật hựu tương phùng (自歎風波去無極、不知何日又相逢, tự than phong ba đi hoài mãi, biết đến ngày nao lại trùng phùng).” (2) Các triết học gia cổ đại Trung Quốc cho rằng Vô Cực là bản nguyên hình thành vũ trụ vạn vật; vì nó không hình tượng, không âm thanh cũng như màu sắc, vô thỉ vô chung, chẳng thể nào đặt tên, nên gọi là Vô Cực. Trong tác phẩm Thái Cực Đồ Thuyết (太極圖說) của Châu Đôn Gi (周敦頤, 1017-1073) nhà Tống giải thích rằng: “Vô Cực nhi Thái Cực, Thái Cực động nhi sanh dương, động cực nhi tĩnh, tĩnh nhi sanh âm, … âm dương nhất Thái Cực dã, Thái Cực bổn Vô Cực dã (無極而太極、太極動而生陽、動極而靜、靜而生陰…陰陽一太極也、太極本無極也, Vô Cực mà Thái Cực, Thái Cực động mà sanh ra dương, động đến tận cùng thì tĩnh, tĩnh thì sanh âm, … âm dương hợp nhất là Thái Cực, Thái Cực vốn Vô Cực vậy).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập