Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thân Căn »»
(悲悴, 悲瘁): buồn thương, bi thương, đau xót. Trong Vấn Tiến Sĩ Sách Đề Ngũ Đạo (問進士策題五道) của Âu Dương Tu (歐陽修, 1007-1072) nhà Tống có đoạn: “Nhất nhân chi vi vịnh ca, hoan lạc bi tụy nghi nhược sở hệ giả vị vi trọng hỉ (一人之爲詠歌、歡樂悲瘁宜若所繫者未爲重矣, một người vì vịnh ca, hoan lạc, buồn thương, nên nếu ai bị trói buộc thì vẫn chưa xem là trọng).” Lại nữa, trong Hiền Ngu Kinh (賢愚經) quyển thứ 3, Cứ Đà Thân Thí Phẩm (鋸陀身施品) thứ 15 có đoạn: “Thiên thời thạnh thử, đáo nhiệt sa đạo, thần càn khát phạp, uất chưng dục tử, cùng toan khổ thiết, bi tụy nhi ngôn: 'Thùy hữu từ bi, căng mẫn ngã giả, đương kiến chửng tế, cứu ngã thân mạng (天時盛暑、到熱沙道、唇乾渴乏、鬱蒸欲死、窮酸苦切、悲悴而言、誰有慈悲、矜愍我者、當見拯濟、救我身命, lúc ấy trời nóng bức, sức nóng bốc lên trên đường cát, môi khô khát mệt, hơi bốc muốn chết, hết chua đắng cạn, buồn đau nói rằng: 'Ai có từ bi, thương xót tôi với, thấy vậy cứu vớt, cứu thân mạng tôi).”
(s: Bodhidharma, 菩提達磨, ?-495, 346-495, ?-528, ?-536): xưa kia người ta viết chữ Ma là 摩, nhưng về mặt truyền thống thì viết là 磨. Các học giả Cận Đại thì viết là 磨, khi xem Đại Sư như là vị Tổ sư; còn viết là 摩 khi xem như là nhân vật lịch sử. Theo hệ thống truyền đăng của Thiền Tông, Đại Sư là vị Tổ thứ 28 của Tây Thiên (Ấn Độ), và là sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Những truyền ký về Đạt Ma thì xưa nay đều y cứ vào bản Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, năm 1004) cũng như Bồ Đề Đạt Ma Chương (菩提達磨章); nhưng theo những nghiên cứu gần đây, người ta có khuynh hướng cấu thành truyền ký về ông dựa trên những tư liệu xưa hơn hai tư liệu vừa nêu trên. Tư liệu về Đạt Ma Truyện thì có nhiều loại như Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, năm 547), Đàm Lâm Nhị Chủng Nhập (曇琳二種入, khoảng năm 600), Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, năm 645), Truyền Pháp Bảo Ký (傳法寳記, khoảng năm 712), Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記, khoảng năm 713, 716), Lịch Đại Pháp Bảo Ký (歷代法寳記, khoảng năm 774), Bảo Lâm Truyện (寳林傳, năm 801), Tổ Đường Tập (祖堂集, năm 952), v.v. Thông qua Bảo Lâm Truyện từ đó các ký lục của Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Truyền Pháp Chánh Tông Ký (傳法正宗記, năm 1061), v.v., được hình thành. Lại nữa, chúng ta cần phải lưu ý đến những văn bản như Nội Chứng Phật Pháp Tương Thừa Huyết Mạch Phổ (內證佛法相承血脈譜, năm 819) của Tối Trừng (最澄, Saichō), Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận (菩提達摩南宗定是非論, năm 732), Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa (問答雜徴義) của Thần Hội (神會), rồi Thiền Môn Sư Tư Tương Thừa Đồ (禪門師資相承圖), Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序), Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao (圓覺經大疏鈔) của Tông Mật (宗密). Từ đó, xét về tiểu sử của Đạt Ma, ta thấy rằng Đại Sư sanh ra ở nước Ba Tư (波斯) hay Nam Thiên Trúc (南天竺). Theo như tài liệu mới thành lập sau này cho thấy rằng ông là người con thứ 3 của quốc vương nước này. Ông kế thừa dòng pháp của Bát Nhã Đa La (s: Prajñātara, 般若多羅), rồi sau đó sang Trung Quốc. Bảo Lâm Truyện thì cho rằng ông đến Quảng Châu (廣州) vào ngày 21 tháng 9 năm thứ 8 (527) niên hiệu Phổ Thông (普通) nhà Lương. Bản ghi rõ ngày tháng thì có Bảo Lâm Truyện này, nhưng đời sau lại có khá nhiều dị thuyết xuất hiện. Sự việc vua Lương Võ Đế (武帝, tại vị 502-549) xuất hiện trong câu chuyện Đạt Ma, lần đầu tiên được tìm thấy trong Nam Tông Định Thị Phi Luận và Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa; còn các tư liệu trước đó thì không thấy. Câu trả lời “vô công đức (無功德, không có công đức)” của Đạt Ma đối với vua Lương Võ Đế, mãi cho đến bản Tổ Đường Tập mới thấy xuất hiện. Về sau, Đạt Ma đến tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự (嵩山少林寺), ngồi xoay mặt vào vách tường suốt 9 năm trường. Còn câu chuyện Huệ Khả (慧可) tự mình chặt tay giữa lúc tuyết rơi rồi dâng lên cho Đạt Ma để cầu pháp, lần đâu tiên được ghi lại trong Lăng Già Sư Tư Ký; nhưng Tục Cao Tăng Truyện thì lại cho rằng Huệ Khả gặp bọn cướp giữa đường và bị chặt tay. Môn nhân của Đạt Ma có 4 nhân vật nổi tiếng là Đạo Dục (道育), Huệ Khả (慧可), Ni Tổng Trì (尼總持) và Đạo Phó (道副). Đại Sư có trao truyền cho Huệ Khả 4 quyển Kinh Lăng Già, y Ca Sa, và bài kệ phú pháp. Bài này được ghi lại trong Bảo Lâm Truyện. Bản Lạc Dương Già Lam Ký có ghi rằng lúc khoảng 150 tuổi, Đạt Ma tán thán cảnh sắc hoa mỹ của chốn già lam Vĩnh Ninh Tự (永寧寺), rồi xướng danh hiệu Nam Mô, chấp tay mà thị tịch. Còn việc Đạt Ma bị giết chết bằng thuốc độc có ghi lại trong Truyền Pháp Bảo Ký. Trong Lịch Đại Pháp Bảo Ký có đề cập rằng Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支) và Quang Thống Luật Sư (光統律師, tức Huệ Quang [慧光]) đã trãi qua 6 lần bỏ thuốc độc hại Đạt Ma. Về năm Ngài thị tịch, Bảo Lâm Truyện có ghi là vào ngày mồng 5 tháng 12 năm Bính Thìn (536), đời vua Hiếu Minh Đế (孝明帝, tại vị 515-528) nhà Hậu Ngụy. Trong khi đó, bản bia minh của Huệ Khả thì ghi ngày mồng 5 tháng 12 năm thứ 2 (536) niên hiệu Đại Đồng (大同). Bản Tổ Đường Tập thì ghi là năm thứ 19 (495) niên hiệu Thái Hòa (太和); và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì ghi là ngày mồng 5 tháng 10 cùng năm trên; hưởng thọ 150 tuổi. Ngài được an táng tại Hùng Nhĩ Sơn (熊耳山), nhưng theo vị sứ nhà Đông Ngụy là Tống Vân (宋雲), ông gặp Đạt Ma ở Thông Lãnh (葱嶺) đang quảy một chiếc hài đi về hướng Tây; nên khi trở về nước, ông cho mở quan tài ra để xem hư thực, mới phát hiện bên trong quan tài chỉ còn lại một chiếc hài mà thôi. Tương truyền vua Võ Đế soạn bài bia minh tháp. Vua Đại Tông ban cho Đạt Ma thụy hiệu là Viên Giác Đại Sư (圓覺大師); trong bản văn tế của Chiêu Minh Thái Tử (昭明太子) thì gọi là Thánh Trụ Đại Sư (聖胄大師). Những soạn thuật của Đại Sư được lưu truyền cho đến nay có Nhị Chủng Nhập (二種入), Tâm Kinh Tụng (心經誦), Phá Tướng Luận (破相論), An Tâm Pháp Môn (安心法門), Ngộ Tánh Luận (悟性論), Huyết Mạch Luận (血脈論), được thâu tập thành bản gọi là Thiếu Thất Lục Môn (少室六門). Còn trong Thiền Môn Nhiếp Yếu (禪門攝要) của Triều Tiên có thâu lục Huyết Mạch Luận, Quán Tâm Luận (觀心論), Tứ Hành Luận (四行論). Sau này trong các văn bản được khai quật ở động Đôn Hoàng (敦煌) còn có Nhị Nhập Tứ Hành Luận (二入四行論), Tạp Lục (雜錄), Tuyệt Quán Luận (絕觀論), Vô Tâm Luận (無心論), Chứng Tâm Luận (證心論), Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn (達磨禪師觀門), Đạt Ma Thiền Sư Luận (達磨禪師論), v.v. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng phần nhiều đó là những trước tác của chư Tổ sư khác nhưng lại lấy tên Đạt Ma; và người ta cũng công nhận rằng trước tác của Đạt Ma chỉ là Nhị Chủng Nhập mà thôi. Nếu căn cứ vào bản này, ta thấy rằng tư tưởng của Đạt Ma là Tứ Như Thị (四如是, bốn điều như vậy) và Nhị Nhập Tứ Hạnh (二入四行). Tứ Như Thị là Như Thị An Tâm (如是安心), Như Thị Phát Hạnh (如是發行), Như Thị Thuận Vật (如是順物) và Như Thị Phương Tiện (如是方便). Nhị Nhập là Lý Nhập (理入) và Hạnh Nhập (行入). Còn Tứ Hạnh là 4 yếu tố được hình thành từ Hạnh Nhập. Tâm yếu làm cơ sở cho Thiền pháp của Đạt Ma được xem như là y cứ vào 4 quyển Kinh Lăng Già; nhưng đó không phải là văn bản giải thích về mặt học vấn của kinh này, mà nhằm nhấn mạnh việc cần phải lấy trọn tinh thần kinh. Theo Tục Cao Tăng Truyện, giới Phật Giáo đương thời rất chú trọng đến nghiên cứu, giảng diễn kinh luận; trong khi đó, Đạt Ma thì lại cổ xúy Thiền mang tính thật tiễn của cái gọi là “không vô sở đắc (空無所得, không có cái gì đạt được)”; cho nên ông bị học giả lúc bầy giờ phê phán mãnh liệt. Từ đó, các thuật ngữ như giáo ngoại biệt truyền (敎外別傳), bất lập văn tự (不立文字), dĩ tâm truyền tâm (以心傳心), kiến tánh thành Phật (見性成佛), v.v., được thành lập. Thời đại thay đổi cho đến thời Lục Tổ Huệ Năng (慧能) trở về sau, những thuật ngữ này trở nên rất thịnh hành, thông dụng; vậy ta có thể khẳng định rằng manh nha của chúng vốn phát xuất từ thời Đạt Ma.
(大力): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho sức mạnh của đại tự nhiên. Như trong bài Trường Ca Hành (長歌行) của Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường có câu: “Đại lực vận thiên địa (大力運天地, đại lực vận hành trời đất).” (2) Chỉ sức mạnh vô cùng to lớn. (3) Tôn xưng của đức Phật, chỉ cho đấng có sức mạnh tâm linh trí tuệ to lớn, có thể đoạn tận phiền não, vô minh. Như trong Phật Thuyết Đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp Kinh (佛說大乘菩薩藏正法經, Taishō Vol. 11, No. 316) quyển 26 có đoạn: “Ư kỳ chánh pháp bất nhạo thân cận, thiết kiến hữu nhân ư chư khế kinh, nhi sanh cung kính tôn trọng cúng dường, hữu đại lực năng chủng chủng xưng tán (於其正法不樂親近、設見有人於諸契經、而生恭敬尊重供養、有大力能種種稱讚, đối với chánh pháp của vị ấy không muốn gần gủi, như thấy có người đối với các khế kinh, mà sanh cung kính tôn trọng cúng dường, có năng lực lớn có thể xưng tán các loại).” Hay trong Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn (釋禪波羅蜜次第法門, Taishō Vol. 46, No. 1916) quyển 10 có câu: “Lợi căn Thanh Văn cụ thử lục pháp Phát Chân Vô Lậu, tức thành bất hoại pháp đại lực A La Hán (利根聲聞具此六法發眞無漏、卽成不壞法大力阿羅漢, Thanh Văn lợi căn có đủ sáu pháp Phát Chân Vô Lậu này, tức thành A La Hán có năng lực lớn không hoại pháp).”
(玄都): có nhiều nghĩa khác nhau.
(1) Tên nước chư hầu ngày xưa. Như trong Dật Chu Thư (逸周書), phần Sử Ký (史記) có đoạn: “Tích giả Huyền Đô hiền quỷ đạo, phế nhân sự thiên, mưu thần bất dụng, quy sách thị tùng, thần vu dụng quốc, triết sĩ tại ngoại, Huyền Đô dĩ vong (昔者玄都賢鬼道、廢人事天、謀臣不用、龜策是從、神巫用國、哲士在外、玄都以亡, xưa kia có nước chư hầu thân cận với yêu quỷ, bỏ người thờ Trời, mưu thần chẳng dùng, bói toán lại theo, thầy pháp thì trọng dụng, kẻ sĩ thì xem thường, nên nước chư hầu bị diệt vong).”
(2) Là trú xứ của thần tiên trong truyền thuyết. Như trong tác phẩm Hải Nội Thập Châu Ký (海內十洲記), phần Huyền Châu (玄洲) có câu: “Thượng hữu đại Huyền Đô, tiên bá Chơn Công sở trị (上有大玄都、仙伯眞公所治, trên có cõi Huyền Đô to lớn, do vị tiên Chơn Công cai trị).” Hay trong tác phẩm Chẩm Trung Thư (枕中書) của Cát Hồng (葛洪, 284-364) nhà Tấn có giải thích rõ rằng: “Huyền Đô Ngọc Kinh Thất Bảo Sơn, châu hồi cửu vạn lí, tại Đại La chi thượng, thành thượng thất bảo cung, cung nội thất bảo đài, hữu thượng trung hạ tam cung …, thượng cung thị Bàn Cổ Chân Nhân Nguyên Thỉ Thiên Tôn Thái Nguyên Thánh Mẫu sở trị (玄都玉京七寶山、週迴九萬里、在大羅之上、城上七寶宮、宮內七寶臺、有上中下三宮…上宮是盤古眞人元始天尊太元聖母所治, Huyền Đô ở Ngọc Kinh thuộc Thất Bảo Sơn, chu vi chín vạn dặm, nằm trên thành Đại La; trên thành có cung điện bảy báu, trong cung điện có đài bảy báu, có ba cung trên giữa dưới …, cung trên do Bàn Cổ Chân Nhân Nguyên Thỉ Thiên Tôn Thái Nguyên Thánh Mẫu cai trị).”
(3) Tên gọi của một Đạo Quán nổi tiếng của Trung Quốc, tọa lạc tại khoảng giữa đỉnh núi Chúc Dung (祝融) và Trấn Nam Nhạc (南嶽鎭), thuộc Tỉnh Hồ Nam (湖南省); còn gọi là Bán Sơn Đình (半山亭), Hấp Vân Am (吸雲庵).
(4) Tên gọi tắt của Huyền Đô Đàn (玄都壇), đàn tràng ngày xưa của Đạo Giáo. Như trong bài thơ Huyền Đô Đàn Ca Ký Nguyên Dật Nhân (玄都壇歌寄元逸人) của thi hào Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường có câu: “Ốc tiền thái cổ Huyền Đô Đàn, thanh thạch mạc mạc tùng phong hàn (屋前太古玄都壇、青石漠漠松風寒, trước nhà cổ xưa Huyền Đô Đàn, đá xanh mù mịt gió tùng lạnh).” Thái Mộng Bậc (蔡夢弼, ?-?), học giả thời Nam Tống (南宋, 1127-1279) chú thích rằng: “Huyền Đô nãi Hán Võ Đế sở trúc, tại Trường An Nam Sơn Tý Ngọ cốc trung (玄都乃漢武帝所築、在長安南山子午谷中, Huyền Đô Đàn là do Hán Võ Đế dựng nên, nằm trong hang Tý Ngọ, thuộc Nam Sơn, Trường An).” Trong Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 9 cho biết rằng: “Kim cứ Cửu Thiên Sanh Thần Chương, Thái Thượng trú tại Huyền Đô Cung dã, kỳ Ngọc Thanh Cung tại Huyền Đô chi thượng (今據九天生神章、太上住在玄都宮也、其玉清宮在玄都之上, nay theo Chương Cửu Thiên Sanh Thần, Thái Thượng trú ở Huyền Đô Cung; Ngọc Thanh Cung của ngài ở trên Huyền Đô).” Hay trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1456) quyển 40 có đoạn: “Cung văn Hoa Nghiêm Đại Kinh, nãi Tỳ Lô căn bổn chi pháp luân, Tào Khê cổ sát, vi Lục Tổ Thiền Tông chi chánh mạch, pháp giới thị chúng Thánh chi Huyền Đô, tùng lâm tác thập phương chi quy túc (恭聞華嚴大經、乃毗盧根本之法輪、曹溪古剎、爲六祖禪宗之正脈、法界是眾聖之玄都、叢林作十方之歸宿, cúi nghe Hoa Nghiêm Đại Kinh là bánh xe pháp căn bản của Tỳ Lô, chùa cổ chốn Tào Khê là dòng mạch chính của Lục Tổ Thiền Tông, pháp giới là cõi Huyền Đô của chư vị Thánh, chốn tùng lâm làm nơi nương tựa của thập phương).”
(s: Vajra-sattva, 金剛薩埵): từ vajra, âm dịch là Phược Nhật Ra (嚩日囉), nghĩa là kim cang (金剛); sattva có âm dịch là tát đỏa (薩埵), nghĩa là dũng mãnh, hữu tình. Cho nên Kim Cang Tát Đỏa là từ kết hợp của ý dịch và âm dịch. Nó còn được gọi là Kim Cang Thủ (金剛手), Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ (金剛手祕密主), Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ (執金剛祕密主), Trì Kim Cang Cụ Tuệ Giả (持金剛具慧者), Kim Cang Thượng Thủ (金剛上首), Đại Nhạo Kim Cang (大樂金剛), Tô La Đa Kim Cang (蘇羅多金剛), Nhất Thiết Như Lai Phổ Hiền (一切如來普賢), Phổ Hiền Tát Đỏa (普賢薩埵), Phổ Hiền Kim Cang Tát Đỏa (普賢金剛薩埵), Kim Cang Thắng Tát Đỏa (金剛勝薩埵), Kim Cang Tạng (金剛藏), Chấp Kim Cang (執金剛), Bí Mật Chủ (祕密主), Kim Tát (金薩). Từ Kim Cang Tát Đỏa tượng trưng cho tâm bồ đề kiên cố bất hoại, cũng như diệu lý gọi là phiền não tức bồ đề (煩惱卽菩提). Trong Mật Giáo, danh xưng này có 4 ý nghĩa khác nhau: (1) Chỉ vị Tổ truyền pháp thứ 2 của Mật Giáo. Hệ Mật Giáo là do Đại Nhật Như Lai (s: Mahāvairocana, 大日如來) truyền cho Kim Cang Tát Đỏa. Vị này nguyên là vị thượng thủ của các thần Chấp Kim Cang (執金剛) trong hàng quyến thuộc của Đại Nhật Như Lai. Trong Đại Nhật Kinh (大日經) gọi vị này là Kim Cang Thủ (金剛手) hay Bí Mật Chủ (祕密主); trú tại Kim Cang Pháp Giới Cung (金剛法界宮). Tương truyền Ngài đã kết tập hai bộ kinh điển do đức Đại Nhật Như Lai thuyết về sự thể nghiệm tâm linh của bản thân, và hai bộ ấy vẫn còn an trí tại miền Nam Thiên Trúc. (2) Là một trong 37 đấng chủ tôn của Kim Cang Bộ Viện (金剛部院) trong Kim Cang Giới Mạn Trà La (金剛界曼荼羅), an vị ở phía trước đức A Súc Như Lai (阿閦如來) trong vòng nguyệt luân ở phương Đông; chủ về đức của phát bồ đề tâm; là một trong 4 vị thân cận của A Súc Như Lai. Vị này đầu đủ hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢) để làm cho đầy đủ hết thảy chúng sanh, khiến cho tất cả Bồ Tát thọ dụng Trí Tam Ma Địa (三摩地智). Hơn nữa, vị Bồ Tát này thể hiện bồ đề tâm thanh tịnh vốn có của chúng sanh, đồng thể mà khác tên với Bồ Tát Phổ Hiền. Mật hiệu của vị này là Chơn Như Kim Cang (眞如金剛), Đại Dũng Kim Cang (大勇金剛), Dũng Tấn Chấp Kim Cang (勇進執金剛). Chủng tử của vị này có Tam Muội Da Hình (三昧耶形), Tôn Hình (尊形); hoàn toàn khác nhau trong các hội như Thành Thân Hội (成身會), Tam Muội Da Hội (三昧耶會), Vi Tế Hội (微細會), Cúng Dường Hội (供養會), v.v. Trong Thành Thân Hội, hình Tam Muội Da của vị này là Ngũ Cổ Chử (五股杵, Chày Năm Đầu). Hình tượng Bồ Tát, tay phải cầm Ngũ Cổ Chử, biểu thị khả năng phá tan 10 thứ phiền não, tròn đầy 10 Ba La Mật; hoặc biểu thị Tam Muội của 5 vị Phật. Tay trái Ngài cầm Kim Cang Linh (金剛鈴), để làm kinh động vô minh của tất cả chúng sanh. (3) Là đấng chủ tôn của 17 vị trong Kim Cang Giới Mạn Trà La Lý Thú Hội (金剛界曼荼羅理趣會), an vị ở trung ương của đồ hình Mạn Trà La, là Chánh Pháp Luân Thân (正法輪身) của A Súc Như Lai. Ngài là tượng trưng cho đức tánh vọng thể của 4 phiền não, gồm Dục (欲), Xúc (觸), Ái (愛) và Mạn (慢); thể hiện cho yếu chỉ phiền não tức bồ đề tâm. Cho nên, vị này cùng với 4 Bồ Tát khác như Kim Cang Dục (金剛欲), Kim Cang Xúc (金剛觸), Kim Cang Ái (金剛愛), Kim Cang Mạn (金剛慢), đồng thời hiển hiện tướng Ngũ Bí Mật Kim Cang (五祕密金剛). Hình Tam Muội Da của vị này cũng là Ngũ Cổ Chử. Về hình tuợng của Ngài, toàn thân có màu trắng, đội mũ báu Ngũ Trí, tay trái cầm cái Linh, đặt trên bắp đùi trái, biểu thị nghĩa “đại ngã mạn” vui mừng. Tay phải cầm Ngũ Cổ Chử, biểu thị khai mở mầm mống Ngũ Trí Bồ Đề (五智菩提) vốn có của chúng sanh. Thông thường, trong Mật Giáo khi tu Phổ Hiền Pháp (普賢法), Ngũ Bí Mật Pháp (五祕密法), Phổ Hiền Diên Mạng Pháp (普賢延命法), v.v., đều lấy vị này làm đấng bổn tôn. (4) Là đấng chủ tôn của Đại Trí Kim Cang Bộ (大智金剛部) trong Thai Tạng Giới Mạn Trà La Kim Cang Bộ Viện (胎藏界曼荼羅金剛部院); chủ về đức tánh hàng phục, lấy việc phá tan các ác chướng làm thệ nguyện. Về hình tượng của vị này, toàn thân có màu da, đầu hơi nghiêng về bên phải; trong lòng bàn tay phải có Tam Cổ Chử (三股杵).
(經典): tức giáo pháp do đức Phật tuyên thuyết, về sau tôn giả A Nan (s, p: Ānanda, 阿難) và chư tôn đức khác kết tập giáo pháp ấy. Ban đầu thì dùng văn chương truyền khẩu, sau đó ghi lại bằng văn chương; phàm văn cú, thư tịch đều gọi là kinh điển. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 1, Phẩm Tựa (序品), có đoạn rằng: “Thánh chúa sư tử, diễn thuyết kinh điển, vi diệu đệ nhất (聖主師子、演說經典、微妙第一, sư tử chúa các bậc Thánh, diễn thuyết kinh điển, vi diệu số một).” Hay trong bài văn Tô Châu Trùng Huyền Tự Pháp Hoa Viện Thạch Bích Kinh Bi (蘇州重玄寺法華院石壁經碑) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường cũng có đoạn: “Phật Niết Bàn hậu, thế giới hư không, duy thị kinh điển, dữ chúng nhân câu (佛涅槃後、世界空虛、惟是經典、與眾生俱, sau khi Phật nhập Niết Bàn, thế giới [trống rỗng như] hư không, chỉ có kinh điển, cùng mọi người tồn tại).” Hoặc như trong Hoa Nghiêm Đạo Tràng Khởi Chỉ Đại Lược (華嚴道塲起止大略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1474), phần Tùy Châu Đại Hồng Sơn Toại Thiền Sư Lễ Hoa Nghiêm Kinh Văn (隨州大洪山遂禪師禮華嚴經文), lại có đoạn: “Nhãn trung thường kiến như thị kinh điển, nhĩ trung thường văn như thị kinh điển, khẩu trung thường tụng như thị kinh điển, thủ trung thường thư như thị kinh điển, tâm trung thường ngộ như thị kinh điển, nguyện sanh sanh thế thế, tại tại xứ xứ, thường đắc thân cận Hoa Tạng nhất thiết thánh hiền (眼中常見如是經典、耳中常聞如是經典、口中常誦如是經典、手中常書如是經典、心中常悟如是經典、願生生世世、在在處處、常得親近華藏一切聖賢, trong mắt thường thấy kinh điển như vậy, trong tai thương nghe kinh điển như vậy, trong miệng thường tụng kinh điển như vậy, trong tay thường chép kinh điển như vậy, trong tâm thường ngộ kinh điển như vậy, nguyện đời đời kiếp kiếp, nơi nơi chốn chốn, thường được gần gủi hết thảy thánh hiền của thế giới Hoa Tạng).” Hòa Thượng Phước Hậu (1862-1949), từng là Tăng Cang và Trú Trì Chùa Báo Quốc-Huế, có để lại bài thơ rất thâm thúy rằng: “Kinh điển lưu truyền tám vạn tư, học hành không thiếu cũng không dư, đến nay tính lại đà quên hết, chỉ nhớ trên đầu một chữ Như.”
(疏): còn gọi là Sớ Văn (疏文), Văn Sớ (文疏), hay Tấu Sớ (奏疏), có hai nghĩa: (1) Là văn thư của quần thần điều trần dâng lên bậc trên như đức vua, như trong Văn Thể Minh Biện (文體明辯) của Từ Sư Tằng (徐師曾, 1546-1610) nhà Minh có giải thích rằng: “Án Tấu Sớ giả, quần thần luận gián chi tổng danh dã (按奏疏者、群臣論諫之總名也, xét Sớ Tâu là tên gọi chung của các văn thư do quần thần can gián, luận nghị).” Hay như trong Tống Sử (宋史) quyển 32, Truyện Chu Trác (朱倬傳) có đề cập rằng: “Mỗi thượng sớ, triếp túc hưng lộ cáo; nhược Thượng Đế giám lâm, Tấu Sớ phàm số thập (每上疏、輒夙興露告、若上帝鑒臨、奏疏凡數十, mỗi lần dâng sớ, thường kính cẩn thưa rõ ràng; nếu Thượng Đế giáng xuống, sớ tâu thường mười phong).” Hoặc như trong bài Khiển Hứng Thi (遣興詩) của thi hào Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường cũng có câu: “Thượng sớ khất hài cốt, hoàng quan quy cố hương (上疏乞骸骨、黃冠歸故鄉, dâng sớ xin hài cốt, mũ vàng về cố hương).” Tấu Sớ còn gọi là Tấu Chương (奏章), Tấu Nghị (奏議). (2) Trong khoa nghi của Đạo Giáo cũng như Phật Giáo, Sớ Văn được dùng rất rộng rãi và phổ biến, với tư cách là văn thư thành kính dâng lên đấng tối cao, đấng chí tôn như Thần, Thánh, Phật; là chiếc cầu tiếp nối giữa cõi hữu hình với thế giới vô hình. Như trong Đạo Giáo có các bộ Linh Bảo Văn Kiểm (靈寶文檢), Tâm Hương Diệu Ngữ (心香妙語), v.v., là những thư tịch chuyên dùng cho khoa nghi Công Văn. Về phía Phật Giáo có bộ Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, CBETA No. 1252), 4 quyển, do Thạch Cổ Chủ Nhân Thích Nguyên Hiền (石鼓主人釋元賢) nhà Minh (1368-1662) biên soạn. Một số văn sớ thường dùng trong Đạo Giáo như: Nguyên Đán Khánh Hạ Văn Sớ (元旦慶賀文疏), Ngọc Hoàng Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玉皇上帝慶賀文疏), Thượng Nguyên Thiên Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (上元天官大帝慶賀文疏), Thái Thượng Lão Quân Khánh Hạ Văn Sớ (太上老君慶賀文疏), Huyền Thiên Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玄天上帝慶賀文疏), Thiên Thượng Thánh Mẫu Khánh Hạ Văn Sớ (天上聖母慶賀文疏), Trương Thiên Sư Khánh Hạ Văn Sớ (張天師慶賀文疏), Trung Nguyên Địa Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (中元地官大帝慶賀文疏), Hạ Nguyên Thủy Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (下元水官大帝慶賀文疏), Bắc Đẩu Giải Ách Văn Sớ (北斗解厄文疏), An Phụng Thần Vị Văn Sớ (安奉神位文疏), An Phụng Trị Niên Thái Tuế Văn Sớ (安奉值年太歲文疏), v.v. Linh Bảo Văn Kiểm nhấn mạnh vai trò của Sớ Văn là: “tuyên diễn đạo pháp, lợi thế chi tân lương dã (宣演道法、利世之津梁也, bờ bến để tuyên bày đạo pháp và làm lợi ích cho cuộc đời).” Từ ý nghĩa đó, Sớ được dùng rộng rãi trong Phật Giáo như là phương tiện độ sanh cần phải có đối với mọi trường hợp, như trong tác phẩm này có giới thiệu. Đặc biệt, có một loại Sớ Văn gọi là Pháp Đường Sớ (法堂疏) được dùng trong Thiền môn, là văn từ của vị Trưởng Lão Trú Trì của một tự viện nào đó, dùng để khải thỉnh khai đường thuyết pháp.
(親戚): sự thân cận, gần gủi về mặt huyết thống. Theo Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648), học giả thời nhà Đường của Trung Quốc, thân thích được giải thích là “Thân chỉ tộc nội, thích ngôn tộc ngoại (親指族內、戚言族外, thân là chỉ cho những người trong gia tộc, thích là chỉ cho những người ngoài gia tộc).” Cho nên, thân thích gồm 2 loại: những người thân thuộc hệ huyết thống trực tiếp (直系血親, trực hệ huyết thân) và hệ huyết thống gián tiếp (旁系血親, bàng hệ huyết thân). Câu “luân trung thân thích (倫中親戚)” có nghĩa là sự gần gủi trong luân thường đạo lý.
(世尊慶誕): ngày đản sanh hân hoan, vui mừng của đức Thế Tôn, còn gọi là Phật Đản Tiết (佛誕節), Dục Phật Tiết (浴佛節, Lễ Hội Tắm Phật), Quán Phật Hội (灌佛會, Hội Tắm Phật), Long Hoa Hội (龍華會), Hoa Nghiêm Hội (華嚴會), v.v. Tùy theo mỗi quốc gia, tên gọi lễ hội linh thiêng, trọng đại này có khác nhau. Tại Nhật Bản lễ hội này được gọi là Giáng Đản Hội (降誕會, Gōtane), Phật Sanh Hội (佛生會, Busshōe), Dục Phật Hội (浴佛會, Yokubutsue), Quán Phật Hội (灌佛會, Kambutsue), Long Hoa Hội (龍華會, Ryūgee), Hoa Hội Thức (花會式, Hanaeshiki), Hoa Tế (花祭, Hanamatsuri). Trong khi đó, Hàn Quốc gọi là Thích Ca Đản Thần Nhật (釋迦誕辰日, Ngày Đản Sanh Của Đức Thích Ca), Đài Loan là Phật Đà Đản Thần Kỷ Niệm Nhật (佛陀誕辰紀念日, Ngày Kỷ Niệm Đản Sanh Của Đức Phật Đà), Việt Nam là Lễ Phật Đản, v.v. Qua các tên gọi liệt kê ở trên, Lễ Phật Đản còn được gọi là Lễ Hội Tắm Phật. Truyền thống Lễ Hội Tắm Phật vốn phát xuất từ truyền thuyết có 2 con rồng phun nước hương thơm rưới lên kim thân của của đức Phật khi ngài hạ sanh, như trong Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō No. 189) quyển 1 có diễn tả như sau: “Nan Đà Long Vương, Ưu Ba Nan Đà Long Vương, ư hư không trung, thổ thanh tịnh thủy, nhất ôn nhất lương, quán Thái Tử thân, thân hoàng kim sắc hữu tam thập nhị tướng, phóng đại quang minh, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới, thiên long Bát Bộ diệc ư không trung tác thiên kỷ nhạc, ca bối tán tụng, thiêu chúng danh hương, tán chư diệu hoa, hựu vũ thiên y nãi dĩ Anh Lạc, tân phân loạn trụy bất khả xưng sổ (難陀龍王、優波難陀龍王、於虛空中、吐清淨水、一溫一涼、灌太子身、身黃金色有三十二相、放大光明、普照三千大千世界、天龍八部亦於空中作天伎樂、歌唄讚頌、燒眾名香、散諸妙花、又雨天衣及以瓔珞、繽紛亂墜不可稱數, Nan Đà Long Vương, Ưu Ba Nan Đà Long Vương ở trong không trung, phun nước trong sạch, một dòng ấm một dòng mát, rưới lên mình Thái Tử; thân người màu vàng ròng, có ba mươi hai tướng, phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới; trời rồng tám bộ chúng cũng ở trên hư không tạo các thứ nhạc trời, ca xướng tán tụng, đốt các loại hương thơm, rãi các loại hoa quý, rồi lại mưa áo trời và lấy Anh Lạc rãi cùng khắp, không thể nào đếm kẻ xiết).” Hay như trong Phổ Diệu Kinh (普曜經, Taishō No. 186) quyển 2 cho là có 9 con rồng: “Cửu long tại thượng nhi hạ hương thủy, tẩy dục thánh tôn, tẩy dục cánh dĩ, thân tâm thanh tịnh (九龍在上而下香水、洗浴聖尊、洗浴竟已、身心清淨, chín con rồng ở trên không trung mà rưới nước hương thơm xuống, tắm rửa đấng thánh tôn; tắm rửa xong rồi, thân tâm trong sạch).” Nghi thức tắm các tôn tượng này vốn đã có từ thời xa xưa ở Ấn Độ, là một nhu cầu cần thiết về mặt tôn giáo để cầu phước diệt tội. Như trong Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō No. 310) quyển 100 có đề cập đến câu chuyện công chúa Vô Cấu Thí (無垢施), con gái của vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿) như sau: “Kỳ nữ ư nhị nguyệt bát nhật Phật tinh hiện nhật, dữ ngũ bách Bà La Môn câu, trì mãn bình thủy, xuất chí thành ngoại dục tẩy thiên tượng (其女於二月八日佛星現日、與五百婆羅門俱、持滿瓶水、出至城外浴洗天像, người nữ ấy vào ngày mồng 8 tháng 2, ngày sao Phật xuất hiện, cùng với 500 vị Bà La Môn, cầm một cái bình đầy nước, ra ngoài thành tắm rửa bức tượng trời).” Trong Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳) quyển 4 của Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) nhà Đường có đoạn rằng: “Đại sư tuy diệt, hình tượng thượng tồn, kiều tâm như tại, lý ứng tôn kính; hoặc khả hương hoa mỗi thiết, năng sanh thanh tịnh chi tâm, hoặc khả quán mộc hằng vi, túc đãng hôn trầm chi nghiệp; … đản Tây quốc chư tự, quán mộc tôn nghi, mỗi ư nam trung chi thời, thọ sự tiện minh kiền chùy, tự đình trương thí bảo cái, điện trắc la liệt hương bình, thủ kim, ngân, đồng, thạch chi tượng, trí dĩ đồng, kim, mộc, thạch bàn nội, linh chư kỷ nữ tấu kỳ âm nhạc, đồ dĩ ma hương, quán dĩ hương thủy, dĩ tịnh bạch diệp nhi giai thức chi; nhiên hậu an trí điện trung, bố chư hoa thái, thử nãi tự chúng chi nghi (大師雖滅、形像尚存、翹心如在、理應尊敬、或可香花每設、能生清淨之心、或可灌沐恆爲、足盪昏沉之業、…但西國諸寺、灌沐尊儀、每於男中之時、授事便鳴楗椎、寺庭張施寶蓋、殿側羅列香瓶、取金、銀、銅、石之像、置以銅、金、木、石盤內、令諸妓女奏其音樂、塗以磨香、灌以香水、以淨白氎而揩拭之、然後安置殿中、布諸花彩、此乃寺眾之儀, Đại sư tuy đã diệt độ, nhưng hình tượng vẫn còn, tâm thành như còn sống, lý hợp với sự tôn kính; hoặc có thể mỗi lần thiết bày hương hoa, làm cho sanh tâm trong sạch; hay có thể tắm rửa tượng thường xuyên để tẩy sạch nghiệp hôn trầm; … hơn nữa, các chùa ở phương Tây [Ấn Độ], có nghi thức tắm tửa tôn tượng, mỗi khi đúng dịp người nam, người chịu trách nhiệm bèn đánh kiền chùy; nơi sân chùa giăng lọng báu, bên chánh điện bày biện các bình hương; lấy tượng bằng vàng, bạc, đồng, đá, đem dặt vào trong chậu bằng đồng, vàng, gỗ, đá; sai các kỷ nữ tấu âm nhạc, thoa hương thơm lên tượng, rưới nước hương thơm, rồi lấy khăn trắng lau sạch tượng; sau đó, đem tượng an trí trong điện, phủ các sắc hoa, đây là nghi thức của các chùa).” Khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, nghi thức này cũng được lưu truyền theo và ban đầu nó rất thịnh hành trong triều đình cũng như trong tầng lớp quan lại. Mãi cho đến thời đại Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều, nó trở thành phổ biến rộng khắp. Như trong Truyện Phật Đồ Trừng (佛圖澄傳) của Cao Tăng Truyện (高僧傳) quyển 10 có đề cập đến câu chuyện vị quốc chủ của nhà Hậu Triệu (後趙, 319-352) là Thạch Lặc (石勒, 319-333) đã từng vì con mà đến chùa hành lễ Tắm Phật: “Thạch Lặc chư trĩ tử, đa tại Phật tự trung dưỡng, mỗi chí tứ nguyệt bát nhật, Lặc cung tự nghệ tự quán Phật, vi nhi phát nguyện (石勒諸稚子、多在佛寺中養之、每至四月八日、勒躬自詣寺灌佛、爲兒發願, các con nhỏ của Thạch Lặc, phần lớn được nuôi dưỡng trong chùa; mỗi khi vào ngày mồng 8 tháng tư, Thạch Lặc kính thành đích thân đến chùa làm lễ Tắm Phật, vì con nhỏ mà phát nguyện như vậy).” Hoặc như trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 36, Điều Tống Hiếu Võ Đế Đại Minh Lục Niên (宋孝武帝大明六年, năm 462) có đoạn: “Tứ nguyệt bát nhật, đế ư nội điện quán Phật trai tăng (四月八日、帝於內殿灌佛齋僧, vào ngày mồng 8 tháng tư, nhà vua hành lễ Tắm Phật và Trai Tăng trong nội điện).” Hay trong Lưu Kính Tuyên Truyện (劉敬宣傳) của Tống Thư (宋書) quyển 47 có kể rằng: “Tứ nguyệt bát nhật, Kính Tuyên kiến chúng nhân quán Phật, nãi hạ đầu thượng kim kính dĩ vi mẫu quán, nhân bi khấp bất tự thắng (四月八日、敬宣見眾人灌佛、乃下頭上金鏡以爲母灌、因悲泣不自勝, vào ngày mồng 8 tháng tư, Kính Tuyên thấy mọi người tắm Phật, bèn lấy cái kính vàng trên đầu xuống, vì mẹ mà dội nước tắm, nhân đó buồn khóc chẳng tự kiềm chế được).” Cho nên, nghi thức Tắm Phật được thịnh hành từ ngàn xưa cho đến ngày nay. Về ngày tiến hành Lễ Phật Đản hay Lễ Tắm Phật, xưa nay có nhiều ký lục bất đồng như ngày mồng 8 tháng 2, mồng 8 tháng 4, hay mồng 8 tháng 12. Dưới thời Hậu Hán (後漢, 25-220), trong Ngô Thư (吳書) không ghi rõ ngày Tắm Phật của Trách Dung (笮融, ?-195); đến thời Bắc Triều thì phần lớn người ta tiến hành lễ này vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Tuy nhiên, từ thời nhà Lương (梁, 502-557), qua nhà Đường (唐, 618-907) đến đầu thời nhà Liêu (遼, 907-1125), đại để lễ hội này được tiến hành vào ngày mồng 8 tháng 2. Dưới thời nhà Bắc Tống (北宋, 960-1127) lại tổ chức vào ngày mồng 8 tháng chạp; nhưng Nam Tống thì tiến hành ngày mồng 8 tháng 4. Như đã nêu trên, trường hợp của Thạch Lặc nhà Hậu Triệu, Hiếu Võ Đế (孝武帝, 453-464) của nhà Lưu Tống (劉宋, 420-479), Lưu Kính Tuyên (劉敬宣, ?-415), v.v., đều tiến hành vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Trong khi đó, tác phẩm Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記) dưới thời nhà Lương lại ghi là ngày mồng 8 tháng 2. Trong Thích Huyền Uyển Truyện (釋玄琬傳) nhà Đường của Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) quyển 22 có đoạn rằng: “Uyển dĩ nhị nguyệt bát nhật Đại Thánh Đản Mộc chi thần, truy duy cựu chư, kính sùng dục cụ, mỗi niên như thử, khai giảng thiết trai, đại hội đạo tục (琬以二月八日大聖誕沐之辰、追惟舊緒、敬崇浴具、每年此日、開講設齋、大會道俗, Huyền Uyển lấy ngày mồng 8 tháng 2 làm ngày tắm Đản Sanh Đức Đại Thánh, theo lề lối xưa, kính sùng vật dụng tắm rửa, mỗi năm vào ngày này, thuyết giảng và bày cỗ chay, tập trung cả tăng lẫn tục).” Phần Lễ Chí (禮志) của Liêu Sử (遼史) quyển 53 cũng ghi ngày mồng 8 tháng 2 là ngày sanh của Thái Tử Tất Đạt Đa (s: Siddhārtha, p: Siddhattha, 悉達多). Trong phần Phật Đản Sanh Niên Đại (佛誕生年代) của Tăng Sử Lược (僧史略) quyển Thượng do Tán Ninh (贊寧, 919-1001) nhà Bắc Tống biên soạn có đoạn: “Kim Đông Kinh dĩ lạp nguyệt bát nhật dục Phật, ngôn Phật sanh nhật (今東京以臘月八日浴佛、言佛生日, nay kinh đô [lúc bấy giờ kinh đô nhà Tống là Khai Phong] lấy ngày mồng 8 tháng chạp làm ngày Tắm Phật, xem đó là ngày Phật hạ sanh).” Hay như Sự Văn Loại Tụ (事文類聚) của Chúc Mục (祝穆, ?-?) nhà Tống có ghi rằng: “Hoàng triều đông kinh thập nhị nguyệt sơ bát nhật, đô thành chư đại tự tác Dục Phật Hội, tinh tạo thất bảo ngũ vị chúc, vị chi Lạp Bát Chúc (皇朝東京十二月初八日、都城諸大寺作浴佛會、並造七寶五味粥、謂之臘八粥, vào ngày mồng 8 tháng 12, kinh đô hoàng triều, các chùa lớn trong thành đô đều tiến hành Lễ Hội Tắm Phật, làm thứ cháo có bảy loại báu và năm vị, gọi đó là Cháo Mồng Tám Tháng Chạp).” Bên cạnh đó, tác phẩm Tuế Thời Tạp Ký (歲時雜記) có đề cập rằng: “Chư kinh thuyết Phật sanh nhật bất đồng, kỳ chỉ ngôn tứ nguyệt bát nhật sanh giả vi đa; … cố dụng tứ nguyệt bát nhật quán phật dã; kim đản Nam phương giai dụng thử nhật, Bắc nhân chuyên dụng lạp nguyệt bát nhật, cận tuế nhân Viên Chiếu Thiền Sư lai Huệ Lâm, thỉ dụng thử nhật hành Ma Ha Sát Đầu Kinh pháp, tự thị sảo sảo tuân; … kỳ hậu Tống đô Khai Phong chư tự, đa thái dụng tứ nguyệt bát nhật dục Phật (諸經說佛生日不同、其指言四月八日生者爲多、…故用四月八日灌佛也。故用四月八日灌佛也、今但南方皆用此日,北人专用腊月八日,近岁因圆照禅师(1020—1099)来慧林(禅院),始用此日行《摩诃刹头经》法;自是稍稍遵(之)。今但南方皆用此日、北人專用臘月八日、近歲因圓照禪師來慧林、始用此日行摩訶剎頭經法、自是稍稍遵、…其後宋都開封諸寺、多采用四月八日浴佛, các điển tịch nói về ngày đản sanh của đức Phật không đồng nhất với nhau, phần lớn đều chỉ ngày mồng 8 tháng tư; … cho nên mới dùng ngày mồng 8 tháng tư để tiến hành Lễ Tắm Phật; nay phương Nam đều dùng ngày này, người phương Bắc lại chuyên dùng ngày mồng 8 tháng chạp; gần đây nhân khi Thiền Sư Viên Chiếu [1020-1099] đến Thiền Viện Huệ Lâm, bắt đầu dùng ngày này để hành pháp tu của Ma Ha Sát Đầu Kinh, từ đó có tuân theo chút ít; … về sau, các chùa trong Phủ Khai Phong thuộc kinh đô nhà Tống, phần lớn đều chọn lấy ngày mồng 8 tháng tư làm ngày Tắm Phật).” Từ đó, tác phẩm Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) quyển 8 ghi rõ rằng: “Tứ nguyệt bát nhật Phật sanh nhật, thập đại Thiền viện các hữu Dục Phật Trai Hội, tiễn hương dược đường thủy tương di, danh viết Dục Phật Thủy (四月八日佛生日、十大禪院各有浴佛齋會、煎香藥糖水相遺、名曰浴佛水, ngày mồng 8 tháng tư là ngày đản sanh của đức Phật, 10 Thiền viện lớn, mỗi chùa đều có Lễ Hội Trai Tăng Tắm Phật, nấu nước đường thuốc hương thơm ban bố khắp, tên gọi là Nước Tắm Phật).” Trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, do Trung Phong Minh Bổn [中峰明本, 1263-1323] biên soạn vào năm 1317) cũng như Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, được tu chỉnh vào năm 1336) dưới thời nhà Nguyên cũng quy định ngày mồng 8 tháng tư là ngày Khánh Đản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Từ đó, trên toàn lãnh thổ Trung Quốc cũng thống nhất tổ chức Lễ Phật Đản vào ngày này. Như trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy quyển 2, Chương Báo Bổn (報本章), điều Phật Giáng Đản (佛降誕) có quy định cụ thể nghi thức Tắm Phật như sau: “Chí tứ nguyệt bát nhật, Khố Ty nghiêm thiết hoa đình, trung trí Phật giáng sanh tượng, ư hương thang bồn nội, an nhị tiểu tiêu; Phật tiền phu trần cúng dường tất; Trú Trì thượng đường chúc hương vân: 'Phật Đản linh thần, mỗ tự trú trì … kiền nhiệt bảo hương, cúng dường Bổn Sư Thích Ca Như Lai Đại Hòa Thượng, thượng thù từ ấm, sở kí pháp giới chúng sanh, niệm niệm chư Phật xuất hiện ư thế.' Trú Trì thuyết pháp cánh, lãnh chúng đồng đáo điện thượng; Trú Trì thượng hương tam bái nhiên hậu quỳ lô; Duy Na bạch Phật vân: 'Nhất nguyệt tại thiên, ảnh hàm chúng thủy; nhất Phật xuất thế, các tọa nhất hoa; Bạch Hào thư nhi Tam Giới minh, Cam Lồ sái nhi Tứ Sanh nhuận; … tuyên sớ tất, xướng Dục Phật Kệ (至四月八日、庫司嚴設花亭、中置佛降生像、於香湯盆內、安二小杓、佛前敷陳供養畢、住持上堂祝香雲、佛誕令辰,某寺住持…虔爇寶香、供養本師釋迦如來大和尚、上酬慈蔭、所冀法界眾生、念念諸佛出現於世、住持說法竟、領眾同到殿上、住持上香三拜然後跪爐、維那白佛云、一月在天、影涵眾水、一佛出世、各坐一華、白毫舒而三界明、甘露灑而四生潤、…宣疏畢、唱浴佛偈, đến ngày mồng 8 tháng tư, vị Tri Khố trang nghiêm thiết bày nhà hoa, bên trong an trí tượng Phật Đản Sanh, bỏ hai cái muỗng nhỏ bên trong cái bồn nước nóng hương thơm; trước tượng Phật bày biện các vật phẩm cúng dường; xong vị Trú Trì thượng đường niệm hương rằng: 'Khoảnh khắc linh thiêng đức Phật đản sanh, con Trú Trì chùa …, kính dâng hương báu tỏa khắp, cúng dường lên đức Đại Hòa Thượng Bổn Sư Thích Ca Như Lai, trên đền đáp ơn từ, mong khắp pháp giới chúng sanh, thường nhớ chư Phật xuất hiện trên đời; vị Trú Trì thuyết pháp xong, dẫn đại chúng cùng lên Chánh Điện, ông dâng hương, lạy ba lạy, sau đó quỳ xuống; vị Duy Na bạch Phật rằng: 'Một trăng trên trời, bóng hiện khắp chốn; một Phật ra đời, đều ngồi tòa sen; mày trắng buông mà Ba Cõi sáng, Cam Lồ rưới mà Bốn Loài thấm, … tuyên sớ xong, xướng bài Kệ Tắm Phật).” Đối với Việt Nam, bên cạnh ngày mồng 8, Lễ Phật Đản thường được tổ chức vào ngày rằm tháng tư Âm Lịch hằng năm. Như có đề cập ở trên, khi tiến hành Lễ Tắm Phật, bài Kệ Tắm Phật (căn cứ vào bài kệ trong Dục Phật Công Đức Kinh) được xướng tụng là: “Ngã kim quán mộc chư Như Lai, tịnh trí trang nghiêm công đức tụ, Ngũ Trược chúng sanh linh ly cấu, đồng chứng Như Lai tịnh Pháp Thân (我今灌沐諸如來、淨智莊嚴功德聚、五濁眾生令離垢、同證如來淨法身, con nay tắm gội các Như Lai, trí sạch trang nghiêm công đức lớn, chúng sanh Năm Trược xa cấu nhiễm, cùng chứng tịnh Pháp Thân Như Lai).” Về công đức Tắm Phật, trong Dục Phật Công Đức Kinh có liệt kê 15 loại: “Thiện nam tử, nhược hữu chúng sanh, năng tác như thị thắng cúng dường giả, thành tựu thập ngũ thù thắng công đức nhi tự trang nghiêm; nhất giả thường hữu tàm quý, nhị giả phát tịnh tín tâm, tam giả kỳ tâm chất trực, tứ giả thân cận thiện hữu, ngũ giả nhập vô lậu tuệ, lục giả thường kiến chư Phật, thất giả hằng trì chánh pháp, bát giả năng như thuyết hành, cửu giả tùy ý đương sanh tịnh Phật quốc độ, thập giả nhược sanh nhân trung đại tánh tôn quý nhân sở kính phụng sanh hoan hỷ tâm, thập nhất giả sanh tại nhân trung tự nhiên niệm Phật, thập nhị giả chư ma quân chúng bất năng tổn não, thập tam giả năng ư mạt thế hộ trì chánh pháp, thập tứ giả thập phương chư Phật chi sở gia hộ, thập ngũ giả tốc đắc thành tựu Ngũ Phần Pháp Thân (善男子、若有眾生、能作如是勝供養者、成就十五殊勝功德而自莊嚴、一者常有慚愧、二者發淨信心、三者其心質直、四者親近善友、五者入無漏慧、六者常见诸佛。 六者常見諸佛、七者恆持正法、八者能如說行、九者隨意當生淨佛國土、十者若生人中大姓尊貴人所敬奉生歡喜心、十一者生在人中自然念佛、十二者諸魔軍眾不能損惱、十三者能於末世護持正法、十四者十方諸佛之所加護、十五者速得成就五分法身, này thiện nam tử, nếu có chúng sanh nào có thể thực hiện sự cúng dường như vậy, sẽ thành tựu 15 loại công đức thù thắng để tự trang nghiêm; một là thường có sự hổ thẹn, hai là phát tín tâm trong sạch, ba là tâm của vị ấy ngay thẳng, bốn là gần gủi bạn tốt, năm là vào trí tuệ vô lậu, sáu là thường thấy chư Phật, bảy là thường giữ gìn chánh pháp, tám là có thể hành theo đúng với lời dạy, chín là tùy ý sẽ sanh về quốc độ thanh tinh của Phật, mười là nếu sanh vào cõi người thì được người dòng họ tôn quý kính phụng và sanh tâm hoan hỷ, mười một là nếu sanh trong cõi người thì tự nhiên niệm Phật, mười hai là chúng ma quân không thể làm cho tổn hại và gây rối, mười ba là có thể hộ trì chánh pháp vào thời mạt pháp, mười bốn là được mười phương chư Phật gia hộ, mười lăm là mau chóng thành tựu Năm Phần Pháp Thân).”
(水府): nơi Thủy Thần trú ngụ. Ở Trung Quốc có Thủy Phủ Miếu (水府廟) được kiến lập vào năm thứ 12 (207) niên hiệu Kiến An (建安), cách 1.5 dặm về phía nam Thôn Trương Doanh (張營村), Làng Thành Giao (城郊鄉), Huyện Tân Dã (新野縣). Tương truyền, lúc bấy giờ Lưu Bị (劉僃) đang đóng binh tại Tân Dã (新野) để chiêu hiền nạp sĩ, sau ba lần đến thảo lư và cuối cùng mời được Gia Cát Lượng (諸葛亮) ra làm phụ tá. Khi Gia Cát Lượng tiến hành khảo sát địa lý quân sự vùng Tân Dã, phát hiện ra có hình dáng lưng con thủy xà (rắn nước) cách 3 dặm về phía nam Thành Tân Dã, lại gặp nước song tràn lên quá bờ đê, làm cho bá tánh phải khổ sở vì nạn nước lũ. Gia Cát Lượng đích thân thiết kế phương án trị thủy, động viên toàn quân dân cải cách đường sông, làm cho kiên cố đê điều và cho thiết lập một bến đò tại đây (tức Bến Đò Hán Tân [漢津碼頭]) để trấn thủy và đề phòng thủy tai. Người dân vùng này lại kiến lập một quần thể miếu điện ở phía đông bắc bến đò này trong vòng nửa năm trường, lấy tên là Thủy Phủ Miếu. Dưới thời nhà Đường và Tống, nơi đây trở thành trung tâm lưu thông các thương phẩm quan trọng của địa khu Trung Nguyên và trung tâm giao lưu văn hóa phồn thịnh. Đến thời nhà Minh, phần lớn các kiến trúc bị hư hại do binh hỏa. Bên trong điện có tôn thờ 58 tượng các vị thần như Thần Sông (河神), Ngọc Hoàng (玉皇), v.v. Mỗi năm những hoạt động tôn giáo quan trọng của khu miếu này có Miếu Hội vào ngày mồng 8 tháng 4, tế tự vào ngày mồng 3 tháng 3 Âm Lịch, v.v. Ngoài ra, theo tín ngưỡng của Đạo Mẫu ở Việt Nam, Thủy Phủ (miền sông nước) là một trong Tứ Phủ, do mẫu đệ tam (Mẫu Thoải) trị vì. Trong truyện cổ tích của Việt Nam có câu chuyện Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy Phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân. Trong Thái Bình Quảng Ký (太平廣記) quyển 152, phần Trịnh Đức Cự (鄭德苣) có câu: “Vi thị nãi ngộ, khủng quý, chiêu Tẩu đăng thuyền, bái nhi tấn tửu quả, khấu đầu viết: 'Ngô chi phụ mẫu, đương tại Thủy Phủ, khả tỉnh cận phủ ?' (韋氏乃悟、恐悸、召叟登舟、拜而進酒果、叩頭曰、吾之父母、當在水府、可省覲否, Họ Vi bèn tỉnh ngộ, sợ mà động lòng, mời Tẩu lên thuyền, lạy và dâng rượu quả, cúi đầu thưa: 'Cha mẹ tôi đang ở tại Thủy Phủ, liệu có thể thức tỉnh mà thân cận chăng ?').” Hay như trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經) của Đạo Giáo lại có đoạn: “Thiên Tôn ngôn: 'Thiên hạ chúng sanh, giang hà hồ hải, chu hàng thương cổ, phong ba hung dũng, kinh hoàng ưu cụ; nhược tụng thử kinh, quy y thiên địa Thủy Quan, Thủy Phủ chúng Thánh, tức sử phong điềm lãng tĩnh, thủy đồ an thỏa' (天尊言、天下眾生、江河湖海、舟航商賈、風波洶湧、驚惶憂懼、若誦此經、皈依天地水官、水府眾聖、卽使風恬浪靜、水途安妥, Thiên Tôn dạy rằng: 'Chúng sanh trong thiên hạ, sông nước hồ biển, thuyền bè buôn bán, sóng gió ầm ầm, kinh hoàng hãi sợ; nếu tụng kinh này, quy y thiên địa Thủy Quan, các bậc Thánh của Thủy Phủ, tức sẽ khiến cho gió yên sóng lặng, đường thủy yên ổn).” Hoặc trong Thái Nhất Cứu Khổ Hộ Thân Diệu Kinh (太一救苦護身妙經) của Đạo Giáo cho rằng Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙救苦天尊) ở dưới Thủy Phủ thì được gọi là Động Uyên Đế Quân (洞淵帝君): “Thử Thánh tại thiên hô vi Thái Nhất Phước Thần, tại thế hô vi Đại Từ Hành Giả, tại Địa Ngục hô vi Nhật Diệu Đế Quân, tại ngoại đạo nhiếp tà hô vi Sư Tử Minh Vương, tại Thủy Phủ hô vi Động Uyên Đế Quân (此聖在天呼爲太一福神、在世呼爲大慈行者、在地獄呼爲日耀帝君、在外道攝邪呼爲獅子明王、在水府呼爲洞淵帝君, vị Thánh này ở trên trời được gọi là Thái Nhất Phước Thần, trên thế gian được gọi là Đại Từ Hành Giả, dưới Địa Ngục được gọi là Nhật Diệu Đế Quân, nơi ngoại đạo trừ tà được gọi là Sư Tử Minh Vương, dưới Thủy Phủ được gọi là Động Uyên Đế Quân).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập