Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Phải làm rất nhiều việc tốt để có được danh thơm tiếng tốt, nhưng chỉ một việc xấu sẽ hủy hoại tất cả. (It takes many good deeds to build a good reputation, and only one bad one to lose it.)Benjamin Franklin
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thái Tuế »»
(疏): còn gọi là Sớ Văn (疏文), Văn Sớ (文疏), hay Tấu Sớ (奏疏), có hai nghĩa: (1) Là văn thư của quần thần điều trần dâng lên bậc trên như đức vua, như trong Văn Thể Minh Biện (文體明辯) của Từ Sư Tằng (徐師曾, 1546-1610) nhà Minh có giải thích rằng: “Án Tấu Sớ giả, quần thần luận gián chi tổng danh dã (按奏疏者、群臣論諫之總名也, xét Sớ Tâu là tên gọi chung của các văn thư do quần thần can gián, luận nghị).” Hay như trong Tống Sử (宋史) quyển 32, Truyện Chu Trác (朱倬傳) có đề cập rằng: “Mỗi thượng sớ, triếp túc hưng lộ cáo; nhược Thượng Đế giám lâm, Tấu Sớ phàm số thập (每上疏、輒夙興露告、若上帝鑒臨、奏疏凡數十, mỗi lần dâng sớ, thường kính cẩn thưa rõ ràng; nếu Thượng Đế giáng xuống, sớ tâu thường mười phong).” Hoặc như trong bài Khiển Hứng Thi (遣興詩) của thi hào Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường cũng có câu: “Thượng sớ khất hài cốt, hoàng quan quy cố hương (上疏乞骸骨、黃冠歸故鄉, dâng sớ xin hài cốt, mũ vàng về cố hương).” Tấu Sớ còn gọi là Tấu Chương (奏章), Tấu Nghị (奏議). (2) Trong khoa nghi của Đạo Giáo cũng như Phật Giáo, Sớ Văn được dùng rất rộng rãi và phổ biến, với tư cách là văn thư thành kính dâng lên đấng tối cao, đấng chí tôn như Thần, Thánh, Phật; là chiếc cầu tiếp nối giữa cõi hữu hình với thế giới vô hình. Như trong Đạo Giáo có các bộ Linh Bảo Văn Kiểm (靈寶文檢), Tâm Hương Diệu Ngữ (心香妙語), v.v., là những thư tịch chuyên dùng cho khoa nghi Công Văn. Về phía Phật Giáo có bộ Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, CBETA No. 1252), 4 quyển, do Thạch Cổ Chủ Nhân Thích Nguyên Hiền (石鼓主人釋元賢) nhà Minh (1368-1662) biên soạn. Một số văn sớ thường dùng trong Đạo Giáo như: Nguyên Đán Khánh Hạ Văn Sớ (元旦慶賀文疏), Ngọc Hoàng Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玉皇上帝慶賀文疏), Thượng Nguyên Thiên Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (上元天官大帝慶賀文疏), Thái Thượng Lão Quân Khánh Hạ Văn Sớ (太上老君慶賀文疏), Huyền Thiên Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玄天上帝慶賀文疏), Thiên Thượng Thánh Mẫu Khánh Hạ Văn Sớ (天上聖母慶賀文疏), Trương Thiên Sư Khánh Hạ Văn Sớ (張天師慶賀文疏), Trung Nguyên Địa Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (中元地官大帝慶賀文疏), Hạ Nguyên Thủy Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (下元水官大帝慶賀文疏), Bắc Đẩu Giải Ách Văn Sớ (北斗解厄文疏), An Phụng Thần Vị Văn Sớ (安奉神位文疏), An Phụng Trị Niên Thái Tuế Văn Sớ (安奉值年太歲文疏), v.v. Linh Bảo Văn Kiểm nhấn mạnh vai trò của Sớ Văn là: “tuyên diễn đạo pháp, lợi thế chi tân lương dã (宣演道法、利世之津梁也, bờ bến để tuyên bày đạo pháp và làm lợi ích cho cuộc đời).” Từ ý nghĩa đó, Sớ được dùng rộng rãi trong Phật Giáo như là phương tiện độ sanh cần phải có đối với mọi trường hợp, như trong tác phẩm này có giới thiệu. Đặc biệt, có một loại Sớ Văn gọi là Pháp Đường Sớ (法堂疏) được dùng trong Thiền môn, là văn từ của vị Trưởng Lão Trú Trì của một tự viện nào đó, dùng để khải thỉnh khai đường thuyết pháp.
(神煞): hay Thần Sát Tinh (神煞星), là tên gọi những ngôi sao chiếu mạng quyết định việc tốt xấu của con người. Một số sao Thần Sát thường dùng như:
(1) Thiên Ất Quý Nhân (天乙貴人), người gặp sao này thì có duyên với mọi người, với người lớn hơn mình, với người khác phái, thích xã giao.
(2) Thiên Y (天醫), người gặp sao này thì có năng lực rất mạnh như học tập, lý giải, quán sát, mô phỏng, tâm hiếu kỳ, tâm nghiên cứu, trực giác, v.v.
(3) Thiên Đức (天德), người gặp sao này thì có tài trí mưu lược xuất sắc, tâm vinh dự cao, năng lực lớn, phàm mọi việc gặp hung dữ hóa thành tốt, được quý nhân giúp đỡ.
(4) Nguyệt Đức (月德), người gặp sao này thì có duyên với mọi người, xã giao, tâm cung kính, tâm trách nhiệm, năng lực thích ứng cao.
(5) Nguyệt Đức Hợp (月德合), người gặp sao này thì có năng lực quán sát, đối ứng, bàn chuyện kinh doanh rất mạnh.
(6) Phước Tinh (福星), người gặp sao này thì trong đời này có tiền tài dư dật, kinh tế không bao giờ gặp nguy cơ, có quý nhân giúp đỡ, thường có phước, có năng lực làm thân, kết duyên lành với mọi người.
(7) Văn Xương (文昌), người gặp sao này thì có năng lực viết lách, văn nghệ, học tập.
(8) Tam Kỳ Quý (三奇貴), người gặp sao này thì có năng lực học tập tinh chuyên, sức tập trung mạnh, đầu óc làm việc linh mẫn, cơ trí nhạy bén, dễ thành nhân tài có kỹ năng chuyên nghiệp, như công trình sư, nhà tư vấn, v.v.
(9) Lục Tú (六秀), là ngôi sao có năng lực viết văn trác việt, người gặp sao này thì có năng lực học tập, tư duy rất mạnh, thuộc nhà nghệ thuật ở trạng thái tĩnh như họa sĩ, nhà thư pháp, sáng tác khúc từ, v.v.
(10) Thập Linh Nhật (十靈日), là ngôi sao thuộc về tôn giáo, người gặp sao này thì có trực giác linh nhuệ, khéo quán sát lời nói, nhìn sắc mặt người, năng lực lãnh ngộ, khéo hiểu ý người, v.v.
(11) Khôi Cương (魁罡), người gặp sao này thì về ăn uống nên thận trọng, chớ ăn thịt bò, chó; duyên hôn nhân rắc rối, tai tiếng, có đủ tinh thần độc lập tự chủ, năng lực tổ chức mạnh.
(12) Học Đường (學堂), người gặp sao này thì có năng lực bắt chước, sáng tác, tưởng tượng, lý giải.
(13) Học Sĩ (學士), người gặp sao này thì có tâm nghiên cứu, lòng hiếu kỳ, muốn tìm hiểu, có năng lực học thuộc lòng, nhớ dai.
(14) Kim Quỹ (金匱), người gặp sao này thì có đầy đủ năng lực sáng tác, lãnh ngộ, cầm quyền, quyết đoán, quy hoạch.
(15) Tấn Thần (進神), người gặp sao này thì có ý thức chủ quan rất mạnh, kiêu ngạo, tự phụ, không chịu phục tùng bất cứ ai, nóng nảy.
(16) Lộc Thần (祿神), người gặp sao này thì có thân thể tráng kiện, tinh thần vững mạnh, sức chiến đấu bền bỉ, cả hai vợ chồng đều tạo nên sự nghiệp vẻ vang.
(17) Bối Lộc (背祿), đại diện cho những người xem thường tổ tiên, ly hương biệt xứ, không được hưởng phúc ấm của tổ tông.
(18) Kiến Lộc (建祿:代表建功立業白手自足,不得雙視庇蔭,不宜合夥生意), đại diện cho những người tạo công lập nghiệp tay trắng một mình, không được phúc ấm của song thân.
(19) Chuyên Lộc (專祿), đại diện cho những người thân thể tráng kiện, tinh thần vững mạnh, sức chiến đấu bền bỉ, cả hai vợ chồng đều tạo nên sự nghiệp vẻ vang.
(20) Quy Lộc (歸祿), đại diện cho những người giao tế rộng rãi, tài lộc đầy đủ, tránh chuyện vay mượn, có thể tránh kiện tụng.
(21) Hoa Cái (華蓋), người gặp sao này thì có tâm cầu học, tự động tìm tòi, tự ngộ để đạt đến kết quả cao, có thiên tánh về mỹ thuật, thiết kế, trang hoàng, âm nhạc; về phương diện văn học thì rất hứng thú và có thiên tài; đây là ngôi sao chỉ chuyên về nghệ thuật, tôn giáo, nên có tánh nghiên cứu, muốn tìm cầu, năng lực học tập, tính chất mẫn cảm.
(22) Cô Thần (孤辰), người gặp sao này thì có tánh cách cô đơn, trầm mặc, không nói nhiều, tâm trong sạch, ít ham muốn, thường an phận, không có tâm cầu tiến.
(23) Quả Tú (寡宿), người gặp sao này thì có duyên với người khác phái rất ít, duyên hôn nhân cũng mong manh, chủ nghĩa độc thân.
(24) Nguyên Thần (元辰), là sao hao tổn, miệng tiếng.
(25) Kim Dư (金輿), là sao về tài của cùng với quan hệ phối ngẫu, được hỗ trợ về chuyện phối ngẫu, kỹ thuật.
(26) Kim Tinh (金星), người gặp sao này thì anh minh, trí tuệ, dũng cảm, quả quyết, kiên nhẫn, cương nhu đều có đủ, chú trọng vinh dự, quyền uy.
(27) Thiên Xá (天赦), người gặp sao này thì một đời bị kiện tụng cửa quan, lao ngục, tai hại ngoài ý muốn, một đời thường đều có thể gặp xấu hóa tốt, có kinh động nhưng không nguy hiểm.
(28) Phước Tinh (福星), người gặp sao này thì có quý nhân tương trợ, kinh tế phát triển, một đời tài lộc, ăn uống sung túc, có duyên xã giao, năng lực kết duyên lành.
(29) Tướng Tinh (將星), người gặp sao này thì hiển đạt về quan quyền, có thể nắm quyền bính trong tay, có năng lực quản lý, quyết đoán, cơ trí.
(30) Dịch Mã (驛馬), là sao đổi dời, đi xa, biến động.
(31) Âm Dương Sát (陰陽煞), người gặp sao này thì nên tiến hành duyên hôn nhân chậm, không nên sớm, mới có thể trừ được lo âu thay đổi chuyện hôn nhân, nên thận trọng trong việc giao tế với người khác phái, mới có thể tránh được chuyện thị phi, tranh giành.
(32) Kiếp Sát (劫煞), người gặp sao này thì có cơ trí linh mẫn, phản ứng nhạy bén, tâm háo thắng.
(33) Quải Kiếm Sát (掛劍煞), người gặp sao này thì dễ mắc phải các bệnh tật về gân cốt, đường ruột, cơ quan vận động, v.v., hằng ngày nên đề phòng các vật kim loại bén nhọn, vật nguy hiểm gây thương tích; dễ bị thương tích đánh đập, ngã quỵ, té xuống đất.
(34) Câu Giao (勾絞), là sao phiền phức về chuyện cảm tình, hôn nhân.
(35) Đào Hoa (桃花), đại diện cho sức hấp dẫn, thu hút, năng lực thưởng thức, trang sức, có duyên xã giao.
(36) Thiên Hỷ (天喜), là sao vui sướng, như ý, có cảm giác thâm sâu, năng lực hòa đồng, tình người.
(37) Hồng Diễm (紅艷), là sao nghệ thuật lãng mạn, có đủ năng lực thưởng thức, thiết kế trang phục, trang hoàng, có duyên với người khác phái.
(38) Hồng Loan (紅鸞), người gặp sao này thì có duyên với người khác phái, tư tưởng lãng mạn, có năng lực phối hợp sắc màu nghệ thuật tranh tĩnh vật.
(39) Lưu Hà (流霞), người gặp sao này thì trong quá trình sinh sản dễ gặp nguy hiểm, lưu sản, dễ mắc bệnh tuần hoàn huyết dịch về tim mạch.
(40) Vong Thần (亡神), là sao ẩn tàng, không lộ hiện tung tích, người gặp sao này thì giỏi về mưu lược, vui, buồn, tức giận đều không thể hiện ra ngoài sắc mặt.
(41) Dương Nhận (羊刃), là sao về chức võ, chủ yếu người gặp sao này thì có tâm háo thắng, không chịu khuất phục, dõng mãnh, đảm đương, lanh lẹ.
(42) Huyết Nhận (血刃), là sao thương tích ngoài ý muốn, bất ngờ, người gặp sao này thì hằng ngày nên thận trọng về bỏng lửa, thương tích đánh đập, các vật kim loại, bén nhọn, chú ý về giao thông.
(43) Phi Nhận (飛刃), là sao gặp công kích bất ngờ, tranh tụng, thị phi.
(44) Cách Giác (隔角), là sao chủ về việc kiện tụng cửa quan, miệng tiếng, thị phi; nếu gặp Hình Xung (刑沖) thì ắt sẽ có tai họa về kiện tụng, lao ngục.
(45) Không Vong (空亡), kim loại rỗng thì kêu to, lửa trống thì sẽ phát lớn, cây rỗng thì mục, đất rỗng thì lỡ sụt; người gặp sao này thì vô duyên với thân thích, nên tinh tấn tu hành.
Ngoài ra, còn có 12 ngôi sao Thần Sát, được gọi là Lưu Niên Tuế Số Thập Nhị Thần Sát (流年歲數十二神煞), lưu hành trong 12 tháng, gồm:
(1) Thái Tuế (太歲), có câu kệ rằng: “Thái Tuế đương đầu tọa, chư thần bất cảm đương, tự thân vô khắc hại, tu dụng khốc đa dương (太歲當頭坐、諸神不敢當、自身無剋害、須用哭爹娘, Thái Tuế ngay đầu tọa, các thần chẳng dám chường, tự thân không nguy hại, nên thương khóc mẹ cha).” Sao này có công năng đè ép các sao Thần Sát, người gặp sao này nếu gặp vận thì xấu nhiều tốt ít, chủ yếu gặp tai nạn bất trắc, nên làm việc phước thiện.
(2) Thái Dương (太陽), có câu kệ rằng: “Thái Dương cát tinh chiếu, cầu tài ngộ trân bảo, âm dương hữu hòa hợp, định cảm phước lai bảo (太陽吉星照、求財遇珍寶、陰陽有和合、定感福來保, Thái Dương sao tốt chiếu, cầu tài gặp của báu, âm dương có hòa hợp, tất có phước đến nhà).” Người gặp sao này chủ yếu chiếu sáng hóa tốt, lấy lễ đãi người, thông minh cần mẫn, có chuyện vui giáng lâm.
(3) Tang Môn (喪門), câu kệ là: “Tang Môn tối vi hung, hiếu phục trùng trùng phùng, phá tài tinh ngoại hiếu, nùng huyết kiến tai nghinh (喪門最爲凶、孝服重重逢、破財幷外孝、濃血見災迎, Tang Môn thật rất hung, tang phục lại trùng phùng, phá tài thêm bất hiếu, máu chảy thấy tai ương).” Người gặp sao này chủ yếu có đám tang, khóc lóc, hiếu sự hay hung tai, bị trộm cướp, con nhỏ sợ bị mất mạng vì xe cộ.
(4) Thái Âm (太陰), câu kệ là: “Thái Âm nhập mạng lai, thiêm hỷ hựu tấn tài, quý nhân tương tiếp dẫn, canh tác ngộ tài phong (太陰入命來、添喜又進財、貴人相接引、耕作遇財豐, Thái Âm gặp mạng này, thêm vui lại có tài, quý nhân thường giúp đỡ, canh tác gặp của hay).” Sao này chủ yếu tích tụ tài của hoặc thuộc loại ngũ quỷ đem tài của đến, người gặp sao này kinh doanh rất tốt, mỗi ngày càng phát tài, rất hợp với người nữ.
(5) Quan Phù (官符), có câu kệ là: “Quan Phù nhập mạng hung, khẩu thiệt quan ty trùng, phá tài kiêm ngoại hiếu, tác phước đảo thương cùng (官符入命凶、口舌官司重、破財兼外孝、作福禱蒼窮, Quan Phù gặp mạng hung, miệng tiếng chốn quan trường, phá tài thêm bất hiếu, làm phước cầu khắp cùng).” Người gặp sao này thường gặp kẻ tiểu nhân, tất gây ồn ào nơi cửa quan, chọn bạn nên cẩn thận, nên khuyên kẻ tiểu nhân làm phước.
(6) Tử Phù (死符), bài kệ rằng: “Tử Phù nhập mạng lai, hiếu phục trùng trùng phùng, phụ mẫu thê nhi khắc, tác phước miễn tai ương (死符入命來、孝服重重逢、父母妻兒剋、作福免災殃, Tử Phù gặp mạng đây, tang phục lại chất chồng, mẹ cha vợ con khắc, làm phước miễn tai ương).” Sao này chủ yếu có tai họa đột xuất như hình phạt của quan ty, bệnh tật, tranh đấu, phá tài, v.v. Người gặp sao này nên thận trọng khi đi băng qua khe nước, nên tìn đường vòng mà đi.
(7) Tuế Phá (歲破), bài kệ rằng: “Tuế Phá nhập mạng lai, nhật nguyệt phá tiền tài, lục súc hữu tổn thất, hợp gia vĩnh vô tai (歲破入命來、日月破錢財、六畜有損失、合家永無災, Tuế Phá gặp mạng đây, trời trăng phá tiền tài, gia súc có tổn thất, cả nhà hết ương tai).” Tuế Phá có nghĩa là xung phá Thái Tuế, chủ yếu làm hao phá tài vật cũng như trong nhà nhiều tai họa kéo dài trong nữa năm.
(8) Nguyệt Đức (月德), bài kệ rằng: “Nguyệt Đức nhập mạng lai, tứ quý tấn hoành tài, tại gia dã vô sự, xuất lộ dã vô tai (月德入命來、四季進橫財、在家也無事、出路也無災, Nguyệt Đức gặp mạng đây, bốn mùa thêm tiền tài, trong nhà cũng vô sự, ra đường chẳng hung tai).” Sao này chủ yếu là đức của người lớn, được gọi là Long Đức (龍德), nhờ bố thí, làm việc thiện tạo lợi lạc, trăm việc gặp xấu hóa thành tốt.
(9) Bạch Hổ (白虎), bài kệ rằng: “Bạch Hổ khiếu nhai nhai, nhân đinh tổn huyết tài, ngưu sự tài quá khứ, mã sự hựu tấn lai (白虎叫涯涯、人丁損血財、牛事才過去、馬事又進來, Bạch Hổ kêu hoài hoài, người thêm tổn tiền tài, chuyện trâu về quá khứ, chuyện ngựa lại về đây).” Sao này chủ yếu có tai họa về tang lễ, phá tài, họa về xe cộ, thương tật; nếu có hóa giải thì sẽ nhẹ bớt; nếu không hóa giải thì quá xấu.
(10) Phước Đức (福德), bài kệ rằng: “Phước Đức nhập mạng du, niên nguyệt tấn tứ ngưu, thiêm hộ tinh tấn khẩu, tài hỷ lưỡng toàn chu (福德入命遊、年月進四牛、添戶並進口、財喜兩全週, Phước Đức đến mạng chơi, năm tháng tăng bò trâu, thêm nhà lại thêm người, tài vui cả hai tròn).” Sao này chủ yếu tốt đẹp, hanh thông, vui vẻ, có thiên tướng, được trời phù hộ, đến đâu gặp xấu hóa tốt, đại thành công.
(11) Điếu Khách (吊客), bài kệ rằng: “Điếu Khách nhập mạng hung, nội ngoại hiếu phục phùng, quan tai tinh nùng huyết, tiểu khẩu đa tao độn (吊客入命凶、內外孝服逢、官災並濃血、小口多遭迍, Điếu Khách đến mạng hung, trong ngoài tang phục chung, tai vạ máu loang chảy, thận trọng miệng tiếng tăm).” Sao này chủ yếu về tang phục, chuyện hung tai, bệnh tật, lo buồn khóc than, trộm cắp, tai nạn về cốt nhục.
(12) Bệnh Phù (病符), bài kệ rằng: “Bệnh Phù nhập mạng hung, hiếu phục trùng trùng phùng, phụ phục hữu hình khắc, tác phước miễn tai ương (病符入命凶、孝服重重逢、父服有刑剋、作福免災殃, Bệnh Phù đến mạng hung, tang phục lại trùng phùng, thân phụ mang hình phạt, làm phước miễn tai ương).” Sao này chủ yếu bệnh kéo dài lâu, trong một năm hay vài tháng, kỵ thấy xe tang hoặc ăn các đồ tang lễ, nên cúng tế thì có thể giải được.
(狀): là bản văn giải bày sự thật trình lên chư vị Thần, Thánh; theo tục lệ của Đạo Giáo Trung hoa, chỉ dùng để đốt đi, không dùng tuyên đọc. Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam, các bức Trạng vẫn được dùng để tuyên đọc rồi mới đem đốt. Bản văn dùng để trần tình những oan khuất của người mất lên Thiên Đình hay Địa Phủ được gọi là Cáo Âm Trạng (告陰狀). Như trong Hà Điển (何典), hồi thứ 2 có câu: “Thôi Mạng Quỷ cản đáo đương phương Thổ Địa na lí, cáo liễu Âm Trạng (催命鬼趕到當方土地那里、告了陰狀, Thôi Mạng Quỷ đuổi theo đến Thổ Địa phương này vài dặm, đọc xong bản Âm Trạng).” Trong Đạo Giáo, tùy theo đẳng cấp của chư vị thần linh cao thấp mà phân thành 3 loại Trạng: Tấu Trạng (奏狀), Thân Trạng (申狀) và Điệp Trạng (牒狀). (1) Tấu Trạng được dùng cho chư Thần như Tam Thanh (三清), Ngọc Hoàng (玉皇), Câu Trần Tinh Quân (勾陳星官), Tử Vi Đại Đế (紫微大帝), Đông Cực Thái Ất (東極太乙), Nam Cực Trường Sanh Đại Đế (南極長生大帝), Hậu Thổ Hoàng Địa Kỳ (后土皇地祇), Cửu U Bạt Tội Thiên Tôn (九幽拔罪天尊), Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn (朱陵度命天尊), Thập Phương Linh Bảo Thiên Tôn (十方靈寶天尊), Động Uyên Tam Muội Tam Động Thiên Tôn (洞淵三昧三洞天尊), Cửu Thiên Thái Phỏng Quân (九天採訪君), Linh Bảo Tự Nhiên Cửu Thiên Sanh Thần Thượng Đế (靈寶自然九天生神上帝), Tam Thập Nhị Thiên Đế Quân (三十二天帝君), Ngũ Linh Ngũ Lão Ngũ Đế Thiên Quân (五靈五老五帝天君), Mộc Công Tôn Thần (木公尊神), Kim Mẫu Nguyên Quân (金母元君), v.v. (2) Thân Trạng được dùng cho chư vị đẳng cấp thấp hơn như Linh Bảo Tam Sư (靈寶三師), Tam Quan (三官), Nhật Cung Thái Dương Đế Quân (日宮太陽帝君), Nguyệt Cung Thái Âm Đế Quân (月宮太陰帝君), Ngũ Tinh Tứ Diệu Ngũ Đẩu (五星四曜五斗), Nam Đẩu Lục Ty Tinh Quân (南斗六司星君), Bắc Đẩu Cửu Thiên Tinh Hoàng Quân (北斗九天星皇君), Hoàng Lục Viện Tri Viện Chơn Quân (黃籙院知院眞君), Chánh Nhất Tam Sư (正一三師), Tứ Tướng (四相), Tứ Thánh (四聖), Linh Bảo Giám Trai Đại Pháp Sư Chơn Quân (靈寶監齋大法師眞君), Cửu Thiên (九天), Thiên Tào Thái Hoàng Vạn Phuớc Chơn Quân (天曹太皇萬福眞君), Tam Động Kinh Lục Phù Mạng Thượng Thánh Cao Chơn Tiên Linh Tướng Lại (三洞經籙符命上聖高眞仙靈將吏), Tam Thanh Thượng Cảnh Chơn Quân Hoàng Nhân (三清上境眞君皇人), Tam Nguyên Chơn Quân (三元眞君), Thập Chơn Nhân (十眞人), Ngũ Phủ Chơn Tể (五府眞宰), Nam Xương Thượng Cung Thọ Luyện Ty Phủ Chơn Tể (南昌上宮受煉司府眞宰), Ngọc Phủ Ngọc Xu Ngũ Lôi Viện Sứ Chơn Quân (玉府玉樞五雷院使眞君), Thập Phương Vô Cực Phi Thiên Chơn Vương (十方無極飛天眞王), Bắc Âm Huyền Thiên Phong Đô Đại Đế (北陰玄天酆都大帝), Thập Cung Đông Hà Phù Tang Đơn Lâm Đại Đế (十宮東霞扶桑丹林大帝), Tam Nguyên Thủy Phủ Chơn Tể (三元水府眞宰), Bồng Lai Đô Thủy Giám Chơn Nhân (蓬萊都水監眞人), Ngũ Nhạc Thượng Chơn Ty Mạng Tá Mạng Trữ Phó Chơn Quân (五嶽上眞司命佐命儲副眞君), Thanh Hư Động Thiên Tiên Quan (清虛洞天仙官), Địa Phủ Cửu Lũy Thổ Hoàng Quân (地府九壘土皇君), Long Hổ Quân Công Tào Kim Đồng Ngọc Nữ Hương Quan Sứ Giả (龍虎君功曹金童玉女香官使者), Thái Tuế Tôn Thần (太歲尊神), v.v. (3) Điệp Trạng được dùng cho chư vị Thần cấp dưới hơn nữa như Châu Thành Hoàng (州城隍), Huyện Thành Hoàng (縣城隍), Cửu Châu Xã Lịnh (九州社令), các ngục chúa, Thập Phương Đạo Đô Đại Chủ Giả (十方道都大主者), Minh Quan U Lộ Chủ Giả (冥關幽路主者), Ngũ Nhạc Hao Lí Tướng Công (五嶽蒿里相公), Thổ Địa Lí Thành Chơn Quan (土地里域眞官), Phong Đô Lục Đạo Đô Án (酆都六道都案), Tam Giới Chơn Phù Thần Hổ Sứ Giả (三界眞符神虎使者), v.v. Một số Trạng được dùng trong Công Văn Đàn Tràng của Phật Giáo Việt Nam là Trạng Cúng Đảo Bệnh, Trạng Cúng Phù Sứ, Trạng Lục Cung Cúng Khẩm Tháng, Trạng Cúng Quan Sát, Trạng Tống Mộc, Trạng Cúng Tạ Thổ, v.v.
(紫微斗數) có 2 loại pháp tắc là Đại Hạn (大限) và Tiểu Hạn (小限). Đại Hạn chỉ về trạng huống, vận thế của cá nhân trong khoảng thời gian 10 năm âm lịch. Tiểu Hạn là trạng huống, vận thế của cá nhân trong khoảng thời gian 1 năm âm lịch. Vận trình của 1 năm được gọi là Lưu Niên (流年). Sự lành dữ của Lưu Niên là căn cứ chủ yếu vào cung vị do Lưu Niên Thái Tuế (流年太歲) lâm vào. Tỷ dụ như tuổi Tân Tỵ (辛巳) thì Lưu Niên Thái Tuế của tuổi này là ở tại Tỵ và Lưu Niên Cung Mạng (流年宮命) tại cung Tỵ. Y cứ vào Lưu Niên mà sao biến hóa có tên là Lưu Diệu (流曜); như Lưu Lộc (流祿), Lưu Mã (流馬), Lưu Khôi (流魁), Lưu Việt (流鉞), Lưu Xương (流昌), Lưu Khúc (流曲), Lưu Dương (流羊), Lưu Đà (流陀), Lưu Hóa Lộc (流化祿), Lưu Hóa Quyền (流化權), Lưu Hóa Khoa (流化科), Lưu Hóa Kỵ (流化忌), v.v. Đại Hạn còn có cách gọi khác của cái chết, vận đến; như “Đại hạn vu Bính Tuất niên, thất nguyệt, nhị thập cửu nhật, Thân bài mạng chung (大限于丙戌年七月二十九日申牌命終, mất vào lúc giờ Thân, ngày 29 tháng 7 năm Bính Tuất).” Như trong Dụ Thế Minh Ngôn (喩世明言) có câu: “Phụ mẫu ân thâm chung hữu biệt, phu thê nghĩa trọng dã phân ly, nhân sanh tợ điểu đồng lâm túc, đại hạn lai thời các tự phi (父母恩深終有別、夫妻義重也分離、人生似鳥同林宿、大限來時各自飛, cha mẹ ơn sâu còn ly biệt, vợ chồng nghĩa trọng cũng rời tay, nhân sinh như chim cùng rừng trú, đại hạn đến thời mỗi tự bay).” Thay vì từ Đại Hạn này, đối với trường hợp người trẻ tuổi mất sớm thì có thể dùng từ “tử ư (死於, chết vào lúc)” hay “tốt vu (卒于, chết vào lúc)”, v.v. Đối với trường hợp là Phật tử, có thể dùng từ “vãng sanh ư (徃生於, vãng sanh vào lúc).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập