Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thái Chính Quan »»
(大納言, Dainagon): theo quy chế của Luật Lịnh thì đây là vị Thứ Quan của Thái Chính Quan (太政官), là vị cao quan chỉ sau Tả Đại Thần mà thôi, với tư cách là một thành viên của hội đồng công khanh, người này tham nghị bàn bạc chuyện chính trị quốc gia, rồi trình tấu lên triều đình được hay không, và đóng vai trò truyền đạt những tuyên chỉ của Thiên Hoàng.
(藤原忠平, Fujiwara-no-Tadahira, 880-949): nhà quý tộc và quan lại sống giữa thời Bình An, con của Cơ Kinh (基經). Dưới thời Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō), ông làm Tả Đại Thần (左大臣); sau khi thay thế người anh là Thời Bình (時平), ông soạn bộ Diên Hỷ Cách Thức (延喜格式) và dâng lên cho triều đình. Dưới thời Châu Tước Thiên Hoàng (朱雀天皇, Suzaku Tennō), ông làm Thái Chính Quan Bạch (太政關白), Thái Chính Đại Thần (太政大臣). Cùng với Thời Bình và Trọng Bình (仲平), cả ba được gọi là Tam Bình (三平). Ông được ban tặng thụy hiệu là Trinh Tín Công (貞信公) và để lại tác phẩm Trinh Tín Công Ký (貞信公記).
(神祇官, Jinkikan, Kamuzukasa, Kamizukasa): (1) Tên gọi một cơ quan quốc gia được thiết lập theo Luật Lịnh Chế thời cổ đại. Từ Thần Kì (神祇) ở đây, Thần (神) tức là Thiên Thần (天神); Kì (祇) là Địa Kì (地祇); cho nên theo Luật Lịnh Chế thời xưa thì Thần Kì Quan là vị quan chuyên trách việc cúng tế Thiên Thần và Địa Kì, quản lý chung các đền thờ Thần Xã trên toàn quốc. Vị này có địa vị trên các chức quan, thậm chí trên cả Thái Chính Quan (太政官), người lo việc hành chính. Tứ Đẳng Quan (四等官) gồm Bá (伯), Phó (副, Đại Phó [大副] và Thiếu Phó [少副]), Hữu (佑, Đại Hữu [大佑] và Thiếu Hữu [少佑]) và Sử (史, Đại Sử [大史] và Thiếu Sử [少史]). Tuy nhiên, trên thực tế thì chức Thần Kì Quan nằm dưới Thái Chính Quan. (2) Tên gọi một cơ quan quốc gia được thiết lập vào đầu thời Minh Trị (明治, Meiji, 1868-1911). Vào tháng 4 năm 1868 (Khánh Ứng [慶應] 4) nhuận, thể theo Chính Thể Thư (政体書), Thần Kì Quan được chính thức thiết lập; là cơ quan chưởng quản các sự việc liên quan đến tế tự, Thần Kì, chúc từ, v.v.
(長官・守): theo quy chế của Luật Lịnh, đây là chức quan cao nhất trong Tứ Đẳng Quan (四等官) của Nhật ngày xưa. Tuy theo nơi làm việc mà tên gọi của nó khác nhau. Tại Thái Chính Quan (太政官) thì gọi là Đại Thần (大臣), tại Thần Thị Quan (神祇官) là Bá (伯), tại Tỉnh (省) là Khanh (卿), tại Đàn Chánh Đài (彈正台) là Duẫn (尹), tại Phường (坊), Chức (職) là Đại Phu (大夫), ở Liêu (寮) là Đầu (頭), ở Ty (司) là Chánh (正), ở Cận Vệ Phủ (近衛府) là Đại Tướng (大將), ở Binh Vệ Phủ (兵衛府) cũng như Vệ Môn Phủ (衛門府) là Đốc (督), ở tiểu quốc thì được gọi là Thú (守). Từ năm 826 trở đi, những vị được bổ nhiệm làm Trưởng Quan các tiểu quốc Thượng Tổng (上總, Kazusa), Thường Lục (常陸, Hitachi) và Thượng Dã (上野, Ueno) thì được gọi là Thái Thú (太守).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.32 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập