Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tây Đại Tự »»
(阿一, Aichi, ?-?): vị tăng của Chơn Ngôn Luật Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa và cuối thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), húy là A Nhất (阿一), tự Như Duyên (如緣). Ông theo Duệ Tôn (叡尊, Eison, thông xưng là Hưng Chánh Bồ Tát [興正菩薩]) ở Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji) học về giới luật và Mật Giáo. Đến năm 1276, ông thọ Cụ Túc giới. Sau đó, ông đến trú tại Giáo Hưng Tự (敎興寺) vùng Hà Nội (河內, Kawachi) và bắt đầu tuyên dương giới luật. Năm 1286, ông thọ nhận lễ Quán Đãnh. Vào năm 1322, ông trước tác cuốn Hưng Chánh Bồ Tát Giảng Thức (興正菩薩講式), 1 quyển, để tán dương đức độ của Duệ Tôn.
(眞言宗, Shingon-shū): tông phái của Nhật Bản, do Không Hải Đại Sư (空海大師, Kūkai Daishi) sáng lập nên với tư cách là vị khai tổ. Đối tượng lễ bái của tông này là Đại Nhật Như Lai (s: Vairocana, 大日如來), do vì pháp thân của đức Đại Nhật Như Lai biến mãn khắp hết thảy pháp giới, nên vớiý nghĩa đó thì đối tượng lễ bái của tông này trở thành hết thảy tồn tại. Chơn Ngôn Tông hay còn gọi là Chơn Ngôn Mật Giáo, là đối với Hiển Giáo, tức đối ứng với vị giáo chủ của Hiển Giáo là Ứng Hóa Thân (應化身), và thay vào đó giáo chủ của Mật Giáo là Pháp Thân (法身), vì thế giáo thuyết của tông này là tự nội chứng của Pháp Thân để đối xứng với giáo thuyết của Hiển Giáo là tùy cơ. Đối ứng với Hiển Giáo cho rằng thời gian thành Phật là rất lâu dài, Mật Giáo chủ trương rằng trong hiện đời này có thể thành Phật. Đây chính là Tức Thân Thành Phật. Phương pháp đó là quán niệm chư tôn Mạn Đà La, xướng tụng chơn ngôn của chư tôn bằng miệng, và tay thì kết ấn của chư tôn. Đây được gọi là Tam Mật Du Già Hành (三密瑜伽行). Đối với Mật Tông thì vị giáo chủ là Đại Nhật Như Lai, rồi kế đến là Long Mãnh (龍猛, tức Long Thọ), Long Trí (龍智), Kim Cang Trí (金剛智), Bất Không (不 空), Huệ Quả (惠果), và Không Hải (空海). Theo tổng kết của Bộ Văn Hóa (bản năm 1997), hiện tại trên toàn quốc Chơn Ngôn Tông có rất nhiều chùa và nhiều phân phái khác nhau như sau: (1) Cao Dã Sơn Chơn Ngôn Tông (高野山眞言宗) có 3615 ngôi, (2) Chơn Ngôn Tông Đề Hồ Phái (眞言宗醍醐派) có 1094 ngôi, (3) Chơn Ngôn Tông Đông Tự Phái (眞言宗東寺派) có 85 ngôi, (4) Chơn Ngôn Tông Tuyền Dũng Tự Phái (眞言宗泉涌寺派) có 63 ngôi, (5) Chơn Ngôn Tông Sơn Giai Phái (眞言宗山階派) có 134 ngôi, (6) Chơn Ngôn Tông Ngự Thất Phái (眞言宗御室派) có 798 ngôi, (7) Chơn Ngôn Tông Đại Giác Tự Phái (眞言宗大覺寺派) có 353 ngôi, (8) Chơn Ngôn Tông Thiện Thông Tự Phái (眞言宗善通寺派) có 262 ngôi, (9) Chơn Ngôn Tông Trí Sơn Phái (眞言宗智山派) có 2893 ngôi, (10) Chơn Ngôn Tông Phong Sơn Phái (眞言宗豐山派) có 2656 ngôi, (11) Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗) có 208 ngôi, (12) Chơn Ngôn Tông Thất Sanh Tự Phái (眞言宗室生寺派) có 54 ngôi, (13) Tín Quý Sơn Chơn Ngôn Tông (信貴山眞言宗) có 191 ngôi. Một số ngôi chùa trung tâm nổi tiếng của tông phái này là Kim Cang Phong Tự (金剛峯寺, Kongōbu-ji, Wakayama-ken) Tổng Bản Sơn của Cao Dã Sơn Chơn Ngôn Tông (高野山眞言宗); Đông Tự (東寺, Tō-ji, tức Giáo Vương Hộ Quốc Tự [敎王護國寺], Kyōto-shi), Tổng Bản Sơn của Đông Tự Chơn Ngôn Tông (東寺眞言宗); Thiện Thông Tự (善通寺, Zentsū-ji, Kagawa-ken), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Thiện Thông Tự Phái (眞言宗善通寺派); Tùy Tâm Viện (隨心院, Zuishin-in, Kyōto-shi), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Thiện Thông Tự Phái; Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji, Kyōto-shi), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Đề Hồ Phái (眞言宗醍醐派); Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji, Kyōto-shi), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Ngự Thất Phái (真言宗御室派); Đại Giác Tự (大覺寺, Daikaku-ji, Kyōto-shi), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Đại Giác Tự Phái (眞言宗大覺寺派); Tuyền Dũng Tự (泉涌寺, Sennyū-ji, Kyōto-shi), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Tuyền Dũng Tự Phái (眞言宗泉涌寺派); Khuyến Tu Tự (勸修寺, Kanjū-ji, Kyōto-shi), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Sơn Giai Phái (眞言宗山階派); Triều Hộ Tôn Tử Tự (朝護孫子寺, Chōgosonshi-ji, Nara-ken), Tổng Bản Sơn của Tín Quý Sơn Chơn Ngôn Tông (信貴山眞言宗); Trung Sơn Tự (中山寺, Nakayama-dera, Hyōgo-ken), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Trung Sơn Tự Phái (眞言宗中山寺派); Thanh Trừng Tự (清澄寺, Seichō-ji, Hyōgo-ken), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tam Bảo Tông (眞言三寶宗); Tu Ma Tự (須磨寺, Suma-dera, Hyōgo-ken), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Tu Ma Tự Phái (眞言宗須磨寺派); Trí Tích Viện (智積院, Chishaku-in, Kyōto-shi), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Trí Sơn Phái (眞言宗智山派); Trường Cốc Tự (長谷寺, Hase-dera, Nara-ken), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Phong Sơn Phái (眞言宗豐山派); Căn Lai Tự (根來寺, Negoro-ji, Wakayama-ken), Tổng Bản Sơn của Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗); Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji, Nara-ken), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Luật Tông (眞言律宗); Bảo Sơn Tự (寶山寺, Hōzan-ji, Nara-ken), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Luật Tông, v.v.
(大安寺, Daian-ji): ngôi chùa của Phái Cao Dã Sơn (高野山派) thuộc Chơn Ngôn Tông, tọa lạc tại Daianji-cho (大安町), Nara-shi (奈良市), là một trong 7 ngôi chùa lớn của Phật Giáo Nam Đô, còn gọi là Nam Đại Tự (南大寺, Nandai-ji). Theo Đại An Tự Già Lam Duyên Khởi Tinh Lưu Ký Tư Tài Trương (南大寺伽藍緣起并流記資財帳) có ghi lại việc Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) phó thác cho Điền Thôn Hoàng Tử (田村皇子, sau này là Thư Minh Thiên Hoàng [舒明天皇, Jomei Tennō]) xây dựng ngôi đại tự với tên gọi là Hùng Ngưng Tự (熊凝寺, Kumagori-dera). Đây chính là khởi nguyên của Đại An Tự. Trong Thánh Đức Thái Tử Truyện Tư Ký (聖德太子傳私記) cũng cho rằng Hùng Ngưng Tự là tiền thân của ngôi già lam này. Trong Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi rằng vào năm thứ 11 (639) đời Thư Minh Thiên Hoàng, nhà vua ra chiếu chỉ xây Đại Cung và Đại Tự bên bờ sông Bách Tế, cho dựng ngôi tháp 9 tầng và đổi tên chùa là Bách Tế Đại Tự (百濟大寺, Kudara-no-ōdera). Đến năm thứ 2 (673) đời vua Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), chùa lại được dời về vùng Cao Thị (高市, Takechi) và lấy tên là Cao Thị Đại Tự (高市大寺, Takechi-no-ōdera). Sau đó, chùa lại đổi tên là Đại Quan Đại Tự (大官大寺, Daikandai-ji), trở thành một trong 3 ngôi chùa quan lớn và hưng thịnh đến tột đỉnh. Vào năm thứ 3 (710) niên hiệu Hòa Đồng (和銅), lúc kinh đô được dời về Bình Thành (平城, Heizei), chùa cũng chuyển về vị trí hiện tại và lấy tên là Đại An Tự. Từ quy mô già lam có dạng thức đặc thù được gọi là Cách Thức Đại An Tự, chiều cao của chùa, nó được gọi là Nam Đại Tự (南大寺, Nandai-ji) để sánh với Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) và Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji). Với tư cách là trung tâm học vấn của Tam Luận Tông, chùa đã một thời hưng thạnh. Chính từ đây đã xuất hiện những bậc danh tăng như Đạo Từ (道慈, Dōji), Cần Tháo (勤操, Gonzō), Hành Biểu (行表, Gyōbyō), Tối Trừng (最澄, Saichō), Lương Biện (良辨, Rōben), v.v. Đến thời đại Bình An, sau mấy lần bị hỏa tai vào năm thứ 11 (911) niên hiệu Diên Hỷ (延喜), năm đầu (1071) niên hiệu Khoan Nhân (寬仁), ngôi già lam bị cháy rụi khá nhiều và sau đó được tái thiết ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, vào khoảng cuối thời Bình An, cũng cùng chung số phận với những ngôi đại tự khác của vùng Nam Đô, chùa lâm vào tình trạng suy vi. Đến thời Liêm Thương, cùng với việc phục hưng giáo học, một số chùa như Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji), Tây Đại Tự, v.v., đã phát triển mạnh; nhưng trường hợp Đại An Tự thì lại càng suy thối hơn. Quần thể đường vũ hiện tồn được tái thiết dưới thời Minh Trị; bảo vật của chùa có bức tượng đứng Thập Nhất Diện Quan Âm (dưới thời Nại Lương) là tượng thờ chính, tượng Dương Liễu Quan Âm, Thiên Thủ Quan Âm, v.v., theo Cách Thức Đại An Tự.
(叡尊 hay 睿尊, Eison, 1201-1290): vị tăng sống vào giữa thời kỳ Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), vị tổ sư khai sáng ra Chơn Ngôn Luật Tông, tự là Tư Viên (思圓), người vùng Đại Hòa (大和, Yamato). Ban đầu ông theo học về Đông Mật, sau đó dốc chí chuyên tâm nghiên cứu về Luật Học và tiến hành phục hưng Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji). Ông lấy nơi đây làm nơi tu tập trung tâm, rồi thuyết giảng về việc trì giới, sát sanh, cấm đoán và trở thành nổi tiếng. Ông có viết tự truyện Cảm Thân Học Chứng Ký (感身學証記), và được ban cho thụy hiệu là Hưng Chánh Bồ Tát (興正菩薩).
(玄叡, Genei, ?-840): vị học tăng của Tam Luận Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời kỳ Bình An, húy Huyền Duệ (玄叡). Ông theo An Trừng (安澄, Anchō) ở Đại An Tự (大安寺, Daian-ji) học về Tam Luận, trú tại Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji) và nỗ lực giảng diễn. Vào năm 827, ông thuyết giảng về tông nghĩa trên pháp tòa tượng Dược Sư Như Lai trong cung nội. Đến năm 830, ông viết bộ Đại Thừa Tam Luận Đại Nghĩa Sao (大乘三論大義鈔, 3 quyển) với chủ ý muốn vãn hồi Tam Luận Tông trên lập trường thủ thế về mặt giáo lý.
(律宗, Ris-shū): học phái chuyên nhấn mạnh về sự tu tập và nghiên cứu giới luật, do Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường thành lập nên ở Trung Hoa, lấy việc thọ trì Tứ Phần Luật (四分律) cũng như Tam Tụ Tịnh Giới (三聚淨戒) của Bồ Tát làm yếu nhân để thành Phật. Giới luật do đức Phật chế ra được thâu tập thành Luật Tạng; nhưng khi giáo đoàn phân liệt thì giới luật được truyền thừa khác nhau theo 20 bộ phái. Tại Trung Hoa, 4 bộ luật gồm Thập Tụng Luật (十頌律), Tứ Phần Luật (四分律), Tăng Kỳ Luật (僧祇律) và Ngũ Phần Luật (五分律) được lưu truyền. Trong đó, chỉ có Tứ Phần Luật là được phổ biến nhất, từ đó phân phái thành Tướng Bộ Tông (相部宗) của pháp Lệ (法礪, 560-635), Nam Sơn Tông (南山宗) của Đạo Tuyên (道宣, 596-667), Đông Tháp Tông (東塔宗) của Hoài Tố (懷素, 624-697). Học phái này cũng được truyền sang Nhật, và trở thành một trong 6 tông phái lớn vùng Nam Đô. Vào năm 754 (năm thứ 6 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳]), Giám Chơn (鑑眞, Ganjin)—cao đệ của Hằng Cảnh (恒景, Kōkei), đệ tử của Đạo Tuyên, đã từ Trung Quốc sang và truyền thừa tông này vào Nhật. Sau đó, ông thành lập 3 giới đàn tại Đông Tự (東寺, Tō-ji), Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji), Quan Thế Âm Tự (觀世音寺, Kanzeon-ji) và khai sáng Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺, Tōshōdai-ji) làm đạo tràng căn bản để nghiên cứu về giới luật cũng như làm ngôi chùa trung tâm chính cho tông phái này. Về sau, tông phái này trãi qua một thời suy vong, nhưng rồi được phục hưng lại nhờ nhóm Thật Phạm (實範, Jitsuhan), Giác Thạnh (覺盛, Kakujō) và Duệ Tôn (叡尊, Eison). Hơn nữa, nhóm Tuấn Nhưng (俊芿, Shunjō), Đàm Chiếu (曇照, Donshō) sang nhà Đường cầu pháp, rồi truyền giới luật vào Nhật và xác lập nên Bắc Kinh Luật (北京律) ở trung tâm Tuyền Dũng Tự (泉涌寺, Senjū-ji), đối lập với Nam Kinh Luật (南京律) của Giác Thạnh. Hiện tại, bên cạnh ngôi chùa Tổng Bản Sơn của Luật Tông là Đường Chiêu Đề Tự, còn có sự hiện hữu của giáo đoàn Chơn Ngôn Luật Tông (眞言律宗), lấy Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji) làm Tổng Bản Sơn.
(忍性, Ninshō, 1217-1303): tự là Lương Quán (良觀, Ryōkan), xuất thân vùng Đại Hòa (大和, Yamato, thuộc Nara-ken [奈良縣]). Ông theo Duệ Tôn (叡尊 hay 睿尊, Eison) của Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji) học giới luật và Mật Giáo. Ông rất thâm tín nơi đức Bồ Tát Văn Thù và thường hay cứu giúp những người nghèo khổ cũng như bệnh hoạn. Lúc 36 tuổi, ông xuống vùng Quan Đông (關東, Kantō), nhờ sự hỗ trợ của Tướng Quân Bắc Điều Trùng Thời (北條重時, Hōjō Shigetoki), ông đã phục hưng giới luật, lấy Cực Lạc Tự (極樂寺, Gokuraku-ji) vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) làm trung tâm. Ngoài ra, để truy niệm Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi), ông đã thiết lập bệnh viện, làm cứu tế xã hội. Ông còn dùng Cực Lạc Tự để làm đạo tràng của Quang Minh Chơn Ngôn, tạo nhiều công lao trong việc xây dựng chùa chiền và ấn loát kinh sách, tận tâm làm cho dòng phái Tây Đại Tự được phát triển. Đệ tử của ông có Vinh Chơn (榮眞, Eishin), Thuận Nhẫn (順忍, Junnin). Ông được ban thụy hiệu là Nhẫn Tánh Bồ Tát.
(泰演, Taien, ?-?): vị tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời kỳ Bình An, húy Thái Diễn (泰演). Ông từng học cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, đặc biệt tinh thông về Pháp Tướng và Duy Thức. Trong thời gian niên hiệu Đại Đồng (大同, 806-810), ông trú tại Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji) và tuyên dương Pháp Tướng Tông. Năm 840, ông làm giảng sư của Duy Ma Hội (維摩會). Cuộc luận tranh giữa ông với An Trừng (安澄, Anchō) về vấn đề có không đã trở thành nổi tiếng.
(實敏, Jitsubin, 788-856): vị tăng của Tam Luận Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời kỳ Bình An, vị trú trì đời thứ 21 của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), húy Thật Mẫn (實敏), xuất thân vùng Ái Trí (愛智), Vĩ Trương (尾張, Owari, thuộc Aichi-ken [愛知縣]), họ Vật Bộ (物部, Mononobe). Năm 800, ông cùng với người bác Trung An (中安) lên kinh đô, theo học Tam Luận với Huyền Duệ (玄叡, Genei) ở Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji), rồi theo hầu vị tăng đã từng sang nhà Đường cầu pháp là Vĩnh Trung (永忠) để nghiên cứu thêm kinh luận. Đến năm 806, ông đến trú tại Bát Đảo Tự (八嶋寺) vùng Đại Hòa (大和, Yamato) và năm sau thì thọ giới Cụ Túc. Vào năm 819, ông làm giảng sư cho Duy Ma Hội của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), đến năm 838 thì làm chức Biệt Đương (別當, Bettō) của Đông Đại Tự. Năm 841, ông giảng Kim Quang Minh Kinh (金光明經) tại Đại Cực Điện (大極殿), đến năm 843 thì được bổ nhiệm làm Luật Sư, và năm 850, ông đã cùng với nhóm Minh Thuyên (明詮, Myōsen) của Pháp Tướng Tông cũng như nhóm Quang Định (光定, Kōjō) của Thiên Thai Tông luận về tông nghĩa của các tông phái tại Thanh Lương Điện (清涼殿). Vào năm 853, ông được thăng cử chức Đại Tăng Đô.
(室生寺, Murō-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Thất Sanh Tự (室生寺派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiệu là Thất Sanh Sơn Tất Địa Viện (室生山悉地院), hiện tọa lạc tại Murō-mura (室生村), Uda-gun (宇陀郡), Nara-ken (奈良縣). Năm 681 (niên hiệu Thiên Võ [天武] thứ 10), thể theo ý nguyện của Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), tương truyền Dịch Tiểu Giác (役小角, En-no-Ozunu) sáng lập ra chùa này. Trong khoảng thời gian niên hiệu Bảo Quy (寳龜, 770-780), Hiền Cảnh (賢璟, Kenkyō, 705-793) của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) quản lý chùa và đệ tử của ông là Tu Viên (修圓, Shūen, 771-835) kiến lập các ngôi đường tháp vào khoảng thời gian niên hiệu Thiên Trường (天長, 824-834). Vào năm 824 (niên hiệu Thiên Trường thứ 1), Không Hải (空海, Kūkai) đến chùa này, dâng cúng bảo châu Ma Ni và biến nơi đây thành đạo tràng của Chơn Ngôn Mật Giáo. Sao đó, Kiên Tuệ (堅慧, Kene) đến trú trì, làm cho chùa trở nên hưng thạnh, và chùa đã trãi qua một thời gian khá dài phụ thuộc vào sự quản lý của Hưng Phước Tự. Dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), các vị Luật tăng của Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺, Tōshōdai-ji) cũng như Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji) đã từng đến trú trì ở đây. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), vào năm 1694 (niên hiệu Nguyên Lộc [元祿] thứ 7), Hộ Trì Viện Long Quang (隆光, Ryūkō, 1649-1724) đến làm trú trì, cho nên chùa trở thành đạo tràng của Phái Phong Sơn (豐山) thuộc Chơn Ngôn Tông, và nhờ sự hiến cúng tịnh tài của Quế Xương Viện (桂昌院, mẹ của Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát [德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi]), các đường vũ của chùa được tu sửa lại hoàn chỉnh. Vào thời Cận Đại, Phái Phong Sơn tách riêng ra khỏi chùa và nơi đây trở thành ngôi chùa trung tâm của Phái Thất Sanh Tự. Khuôn viên chùa rất u nhã, người nữ bị cấm không được đến tham bái. Chùa chưa từng bị hỏa tai hay binh hỏa, cho nên các ngôi đường tháp vẫn còn giữ lại nét ngày xưa. Kim Đường (金堂) là kiến trúc được dựng vào đầu thời Bình An (平安, Heian), bên trong ở giữa thờ tượng đứng Thích Ca Như Lai, bên phải nhìn vào có tượng Dược Sư Như Lai và Địa Tạng Bồ Tát, bên trái có tượng Văn Thù Bồ Tát Và Thập Nhất Diện Quan Âm; tất cả đều những kiệt tác đầu thời Bình An. Ngoài ra, còn có tượng Thập Nhị Thần Tướng, thuộc thời đại Liêm Thương. Ngũ Trùng Tháp được kiến lập từ khoảng cuối thời đại Nại Lương (奈良, Nara) cho đến đầu thời Bình An. Chánh Điện là Quán Đảnh Đường (灌頂堂), tôn trí tượng Như Ý Luân Quan Âm (cuối thời Bình An). Ngự Ảnh Đường (御影堂) là Đại Sư Đường (大師堂), được kiến tạo dưới thời Liêm Thương. Bên cạnh đó, còn có Di Lặc Đường (彌勒堂), Hộ Ma Đường (護摩堂), Nhà Kho, v.v. Bảo vật của chùa có các tượng Phật trong Kim Đường, tượng ngồi Thích Ca Như Lai (đầu thời Bình An), tượng đứng Di Lặc Bồ Tát (thời đại Nại Lương), những pháp cụ Mật Giáo, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập