Vết thương thân thể sẽ lành nhưng thương tổn trong tâm hồn sẽ còn mãi suốt đời. (Stab the body and it heals, but injure the heart and the wound lasts a lifetime.)Mineko Iwasaki
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tào Động Tông »»
(白巖淨符, Hakugan Jōfu, ?-?): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, hiệu là Vị Trung (位中), pháp từ của Thạch Vũ Minh Phương (石雨明方), sống tại Bạch Nham (白巖), Tiền Đường (錢唐, Tỉnh Triết Giang) và khai đường thuyết pháp tại đây trong vòng 30 năm. Bản Pháp Môn Sừ Quĩ (法門鋤宄) do ông biên soạn vào năm thứ 6 (1667) niên hiệu Khang Hy (康熙) và bản Tổ Đăng Đại Thống (祖燈大統) được biên tập vào năm thứ 11 (1672) cùng niên hiệu trên là các tác phẩm đính chính những sai lầm về thuyết huyết thống chư tổ. Ngoài ra, ông còn có các tác phẩm khác như Nhân Thiên Nhãn Mục Khảo (人天眼目考) 1 quyển, Tụng Thạch Trích Châu (頌石摘珠) 1 quyển, Tông Môn Niêm Cổ Vị Tập (宗門拈古彙集) 4 quyển. Pháp từ của ông có Hương Mộc Trí Đàn (香木智檀) là kiệt xuất nhất.
Biện Đạo Thoại (辨道話, Bendōwa): 1 quyển, do Đạo Nguyên (道元, Dōgen) soạn, gọi đủ là Chánh Pháp Nhãn Tạng Biện Đạo Thoại (正法眼藏辨道話), là thư tịch nêu rõ hình thức được chánh truyền từ thời đức Phật Thích Ca trở về sau như thế nào, và chỉ rõ con đường tham nhập vào biển Phật pháp ấy. Thiên Thị Chúng (示眾, Dạy Chúng) vào ngày 15 tháng 8 năm thứ 3 (1231) niên hiệu Khoan Hỷ (寛喜). Dị bản có bản Biện Đạo Thoại của Chánh Pháp Tự (正法寺); bản chính được xem như là cảo bản. Nội dung của bản chính được chia làm được chia làm 2 đoạn trước sau. Đoạn trước nói về Phật pháp vốn được truyền thừa đúng đắn từ thời đức Thích Ca, chính bản thân Đạo Nguyên sẽ truyền thừa vào Nhật trong tương lai sau khi hoàn thành xong sứ mạng cầu pháp bên nhà Tống. Chính vì vậy, phần này khẳng định rõ rằng con đường để thâm nhập vào Phật pháp ấy chỉ có Tọa Thiền là đúng đắn thôi. Đoạn sau thì nương vào cương lĩnh của đoạn đầu, lấy hình thức chất vấn ứng đáp, mà nói rõ về lý thú của đoạn đầu. Có thể nói rằng đây là bức thư tuyên ngôn về việc lập giáo truyền đạo của Đạo Nguyên. Nó được thâu tập vào trong Nhật Bản Cổ Điển Văn Học Đại Hệ (日本古典文學大系) 81, Nhật Bản Tư Tưởng Đại Hệ (日本思想大系) 12, Đạo Nguyên Thiền Sư Toàn Tập (道元禪師全集) quyển Thượng, Tào Động Tông Toàn Thư (曹洞宗全書).
(別源圓旨, Betsugen Enshi, 1294-1364): vị tăng của Phái Hoằng Trí (宏智派) thuộc Tào Động Tông Nhật Bản, xuất thân vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]), họ Bình (平). Ông xuất gia lúc còn nhỏ tuổi, theo học với Đông Minh Huệ Nhật (東明慧日) được 11 năm, liễu ngộ đại sự và cuối cùng kế thừa dòng pháp của vị này. Vào năm thứ 2 (1320) niên hiệu Nguyên Ứng (元應), ông sang nhà Nguyên cầu pháp, đến tham học với Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Trung Phong Minh Bổn (中峰明本), v.v., và vào năm thứ 2 (1330) niên hiệu Nguyên Đức (元德) thì trở về nước. Trong khoảng thời gian này, năm thứ 2 (1325) niên hiệu Chánh Trung (正中), ông được Trung Phong Minh Bổn ban ấn khả cho. Sau khi về nước, vào năm đầu (1342) niên hiệu Khang Vĩnh (康永), thể theo lời mời của Triêu Thương Quảng Cảnh (朝倉廣景, Asakura Hirokage), ông đến làm tổ khai sơn của Hoằng Tường Tự (弘祥寺, Kōshō-ji) ở Túc Vũ (足羽, Asuwa), Việt Tiền, và ông còn khai sáng Thiện Ứng Tự (善應寺) cũng như Cát Tường Tự (吉祥寺). Bên cạnh đó, ông còn sống qua các chùa như Chơn Như Tự (眞如寺) ở kinh đô Kyoto, Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji) theo lời thỉnh cầu của Túc Lợi Nghĩa Thuyên (足利義詮, Ashikaga Yoshiakira) vào năm thứ 3 (1364) niên hiệu Trinh Trị (貞治). Đến ngày mồng 8 tháng 10 cùng năm trên, ông thị tịch, hưởng thọ 71 tuổi đời và 56 hạ lạp. Trước tác của ông có Nam Du Tập (南遊集), Đông Quy Tập (東歸集), v.v. Trung Nham Viên Nguyệt (中巖圓月) soạn bản Biệt Nguyên Hòa Thượng Tháp Minh Tinh Tự (別源和尚塔銘並序).
(秉拂, himpotsu): nghĩa là vị Trú Trì cầm cây Phất Trần; về sau nó có nghĩa là thay thế vị Trú Trì lên Pháp Tòa thuyết pháp cho đại chúng. Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規) 7 có ghi rằng vào 4 tiết Kiết Hạ, Giải Hạ, Đông Chí và Nguyên Đán thì hành lễ Bỉnh Phất (thăng tòa thuyết pháp). Khi ấy, 5 vị Tiền Đường Thủ Tòa (前堂首座), Hậu Đường Thủ Tòa (後堂首座), Thư Ký (書記), Đông Tạng Chủ (東藏主), Tây Tạng Chủ (西藏主) sẽ thay nhau làm việc này. Đối với Tào Động Tông Nhật Bản, vào đêm Trừ Dạ năm thứ 2 (1236) niên hiệu Gia Trinh (嘉禎), Hoài Trang (懷弉, Ejō) đã thay thế Đạo Nguyên (道元, Dōgen) hành nghi lễ Bỉnh Phất này tại Hưng Thánh Tự (興聖寺, Kōshō-ji). Khi ấy không có 5 vị đứng đầu, mà chỉ có vị Thủ Tòa thôi. Có lẽ đây cũng là nguồn gốc của lễ Thủ Tòa Pháp Chiến (首座法戰, cuộc luận tranh về pháp giữa các vị Thủ Tòa) và lúc Kết Chế An Cư. Như trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, CBETA No. 1524) quyển 10, Tổ Trân Truyện (祖珍傳), có câu: “Thị dạ Thủ Tòa bỉnh phất, tùy cơ ứng đáp, khấu kích bất cùng (是夜首座秉拂、隨機應答、叩擊不窮, đêm ấy Thủ Tòa lên tòa thuyết pháp, tùy cơ mà ứng đáp, cảm kích không cùng).”
(s: kaṣāya, kāṣāya; p: kāsāya, kāsāva, 袈裟、毠㲚): theo nguyên ngữ nó có nghĩa là y phục có màu sắc sần sùi như trái thị, người ta nhuộm y của tu sĩ Phật Giáo băng màu sắc trái thị nên y đó được gọi là Ca Sa; còn hoàng y (黃衣, y vàng), hoại sắc (壞色) là ý dịch. Nó còn được gọi là Tệ Y (弊衣, y xấu), Phấn Tảo Y (糞掃衣, y quét phân), Cát Tiệt Y (割截衣, y cắt ra từng mảnh), Nạp Y (衲衣, y nghèo nàn), Điền Tướng Y (田相衣, y có hình như ô ruộng), Phước Điền Y (福田衣, y ruộng phước), Công Đức Y (功德衣, y công đức), Giải Thoát Y (解脫衣, y giải thoát), v.v. Tệ Y và Phấn Tảo Y là loại nguyên lai người ta lượm những mảnh vải vứt bỏ ở các nghĩa trang hay đống rác, rồi đem giặt, nhuộm màu vàng và kết thành. Cát Tiệt Y và Nạp Y là loại được khâu lại từ nhiều mảnh vải vụn. Điền Tướng Y cũng như Phước Điền Y là loại được tạo theo hình dáng ô ruộng. Ca Sa là loại y phục có sắc màu xấu xí, không gây ấn tượng mạnh, nên không sợ bị mất cắp; vì thế vị Tỳ Kheo mang y này có thể xa lìa niệm trần tục mà chú tâm vào việc tu tập, đạt được giải thoát cho tự thân và có được công đức to lớn, nên nó được gọi là Công Đức Y hay Giải Thoát Y. Tùy theo số lượng mảnh vải được nối ráp lại, người ta phân ra làm nhiều loại như 5 điều, 7 điều, 9 điều, 13 điều, 15 điều, 25 điều, v.v. Y có từ 9 điều trở lên được gọi là Đại Y hay Tăng Già Lê (s: saṅgāṭī, 僧伽梨), y 7 điều là Thượng Y hay Uất Đa La Tăng (s: uttarasaṅga, 鬱多羅僧), y 5 điều là Nội Y hay An Đà Hội (s: antarvāsa, 安陀會). Đó gọi là Tam Y. Trong Thiền Tông, việc truyền trao pháp là truyền trao y bát, cho nên người ta rất tôn trọng y Ca Sa. Đặc biệt, ngài Đạo Nguyên (道元, Dōgen, 1200-1253), vị tổ sáng lập ra Tào Động Tông Nhật Bản, đã nhấn mạnh rằng Ca Sa là ấn chứng của Phật pháp chánh truyền. Cùng với sự truyền bá của Phật Giáo, Ca Sa đã phát sanh ra rất nhiều thay đổi tùy theo sự khác nhau về khí hậu, phong thổ, y phục, tập quán, v.v. Tại Trung Quốc và Nhật Bản, Ca Sa được mặc trên Pháp Y; đặc biệt loại Ca Sa dùng trong các nghi thức trọng yếu đã trở thành loại trang sức rất hoa mỹ, có thêu các hoa văn. v.v.
(乾峰, Kembō, ?-?): nhân vật sống vào cuối thời nhà Đường, vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, pháp từ của Động Sơn Lương Giới (洞山良价), đã từng sống tại Việt Châu (越州, Tỉnh Triết Giang).
(正法寺, Shōhō-ji): ngôi danh sát của Tào Động Tông, hiện tọa lạc tại Ōshū-shi (奥州市), Iwate-ken (岩手縣); hiệu là Đại Mai Niêm Hoa Sơn Viên Thông Chánh Pháp Tự (大梅拈華山圓通正法寺), tượng thờ chính là Như Ý Luân Quan Âm. Người khai sáng ngôi chùa này là Vô Để Lương Thiều (無底良韶), một trong 25 đệ tử nổi tiếng của Nga Sơn Thiệu Thạc (峨山紹碩), vị Tổ đời thứ 2 của Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji) ở vùng Hạc Kiến (鶴見, Tsurumi). Ngôi chùa được sáng lập vào năm 1348. Thiền sư cảm mộng có con gấu hiện ra, từ đó phát nguyện lập nên nơi đây một ngôi chùa. Nơi đây là lãnh địa của hai vị lãnh chúa Hắc Thạch (黑石) và Trường Bộ (長部), ông được sự sùng tín của Hắc Thạch Chánh Đoan (黑石正端) và Trường Bộ Thanh Trường (長部清長), nên dựng lên nơi đây ngôi già lam, và trở thành ngôi danh sát nổi tiếng nhất ở địa phương Áo Vũ (奥羽). Vào năm 1350, Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji) và Tổng Trì Tự được Sùng Quang Thiền Hoàng (崇光天皇, Sukō Tennō, tại vị 1348-1351) công nhận tư cách của hai ngôi Đại Bản Sơn của Tào Động Tông; đến năm 1441, chùa lại được Hậu Hoa Viên Thiên Hoàng (後花園天皇, Gohanazono Tennō, tại vị 1428-1464) ban tặng cho hiệu là Tứ Tử Xuất Thế Đạo Tràng (賜紫出世道塲). Từ đó trở về sau, nó trở thành ngôi chùa bổn sơn trung tâm của Phái Vô Để (無底派) ở hai châu Áo Châu (奥州) và Vũ Châu (羽州). Tất cả những tăng lữ của phái này trong đời phải một lần nhập sơn tu hành tại chùa này, và chùa có đến khoảng hơn 1000 ngôi chùa con trực thuộc. Chùa rất trang nghiêm tráng lệ, nhưng do bị hỏa tai, nên kiến trúc ngày xưa còn sót lại chỉ có Sơn Môn mà thôi. Chánh Điện, Khai Sơn Đường, Lầu Chuông, Nhà Kho, v.v., tất cả gồm 16 kiến trúc thì được xây dựng lại gần đây thôi. Đại Chánh Điện, Tăng Đường là hai kiến trúc rất to lớn, hùng vĩ. Hiện chùa vẫn còn có 78 ngôi tự viện con trực thuộc, và nơi đây là chốn tu hành chuyên môn, nên chư tăng thường xuyên tập trung về tu tập. Chùa hiện còn lưu lại rất nhiều bảo vật.
(眞竭清了, Shinketsu Seiryō, 1088-1151): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, hiệu là Chơn Hiết (眞竭), xuất thân vùng Tả Tuyến An Xương (左線安昌, Tỉnh Tứ Xuyên), họ là Ung (雍). Năm lên 11 tuổi, ông xuất gia với Thanh Tuấn (清俊) ở Thánh Quả Tự (聖果寺) và học Kinh Pháp Hoa. Đến năm 18 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới, đến sống ở Đại Từ Tự (大慈寺) vùng Thành Đô (成都, Tỉnh Tứ Xuyên), học Kinh Viên Giác và Kinh Kim Cang. Sau đó, ông lên Nga Mi Sơn (峨嵋山), tham bái đức Phổ Hiền (普賢), và cuối cùng kế thừa dòng pháp của Tử Thuần (子淳) ở Đơn Hà Sơn (丹霞山, Tỉnh Hà Nam). Kế đến, ông lên Ngũ Đài Sơn (五台山), tham bái đức Văn Thù (文殊), và làm thị giả cho Trường Lô Tổ Chiếu (長蘆祖照). Vào năm thứ 3 (1121) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), Tổ Chiếu bị bệnh, nên thỉnh ông làm trú trì nơi đây. Vào tháng 6 năm thứ 2 (1128) niên hiệu Kiến Viêm (建炎), ông lui về ẩn cư, đến tháng 8 thì lên Bổ Đát Lạc Già Sơn (補怛洛迦山) lễ bái đức Quan Âm (觀音). Vào tháng 11 năm thứ 4 (1130) cùng niên hiệu trên, ông đến trú trì Tuyết Phong Tự (雪峰寺). Đến năm thứ 5 (1135) niên hiệu Thiệu Hưng (紹興), ông lại lui về ẩn cư, rồi vào tháng 7 năm sau, ông đến trú tại A Dục Vương Sơn Quảng Lợi Tự (阿育王山廣利寺) thuộc vùng Tứ Minh (四明, Tỉnh Triết Giang) và bắt đầu khai đường bố giáo tại đây. Hai năm sau đó (1137), cũng có lời thỉnh cầu ông đến Tương Sơn (蔣山) thuộc Phủ Kiến Khang (建康府, Tỉnh Giang Tô), nhưng ông cáo bệnh từ chối. Vào năm thứ 8 (1138) cùng niên hiệu trên, ông đến trú trì hai ngôi Long Tường Tự (龍翔寺) và Hưng Khánh Tự (興慶寺). Vào tháng 5 năm thứ 15 cũng niên hiệu trên, ông chuyển đến Năng Nhân Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền Tự (能仁興聖萬壽禪寺). Rồi đến năm thứ 21 thì đến trú trì Sùng Tiên Hiển Hiếu Thiền Viện (崇先顯孝禪院) và khai mở đạo tràng thuyết pháp cho Từ Ninh Thái Hậu (慈寧太后). Vào tháng 10 cũng năm này (1151), ông thị tịch, hưởng thọ 64 tuổi đời và 45 hạ lạp. Ông được ban cho thụy hiệu là Ngộ Không Thiền Sư (悟空禪師). Môn nhân biên tập cuốn Trường Lô Liễu Hòa Thượng Kiếp Ngoại Lục (長蘆了和尚劫外錄) 1 quyển. Trước tác của ông có Tín Tâm Minh Niêm Cổ (信心銘拈古) 1 quyển.
(孤雲懷弉, Koun Ejō, 1198-1280): vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, sống vào khoảng đầu và giữa thời Liêm Thương, vị Tổ đời thứ 2 của Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji), húy là Hoài Trang (懷弉, 懷奘), thông xưng là Nhị Tổ Quốc Sư (二祖國師), thụy hiệu là Đạo Quang Phổ Chiếu Quốc Sư (道光普照國師); xuất thân kinh đô Kyoto, họ Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara). Ông theo xuất gia với Viên Năng (圓能) ở Hoành Xuyên (横川, Yokogawa) trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan). Đến năm 1218, ông thọ Bồ Tát Giới, chuyên tâm tu học giáo nghĩa của vùng Nam Đô và Tịnh Độ; rồi đến tham Thiền với Giác Yến (覺晏) ở Đa Võ Phong (多武峰) vùng Đại Hòa (大和, Yamato) và học pháp Đạt Ma Tông. Sau đó, nhân nghe Đạo Nguyên (道元, Dōgen) từ bên Trung Quốc trở về nước, ông đến Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji) ở vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro) để tham vấn vị này; và đến năm 1234 thì trở thành đệ tử vè kế thừa dòng pháp của Đạo Nguyên. Ông đã từng trợ lực cho thầy mình tại Hưng Thánh Bảo Lâm Tự (興聖寶林寺), Vĩnh Bình Tự, và trở thành vỉ Tổ đời thứ 2 của Vĩnh Bình Tự. Ông có công lớn trong việc biên tập bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng (正法眼藏, Shōbōgenzō) và ghi lại toàn bộ lời dạy của Đạo Nguyên, để sau này hình thành bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng Tùy Văn Ký (正法眼藏隨聞記). Khi Đạo Nguyên qua đời trên kinh đô Kyoto, ông mang hài cốt thầy về an táng tại Vĩnh Bình Tự. Vào năm 1267, ông lui về ẩn cư ở ngôi nhà phía đông của chùa, và giao lại trách nhiệm cho Nghĩa Giới (義介). Vào ngày 24 tháng 8 năm thứ 3 (1280) niên hiệu Hoằng An (弘安), ông thị tịch, hưởng thọ 83 tuổi đời và 63 hạ lạp. Thể theo di huấn, ông được an táng kế bên ngôi tháp của Đạo Nguyên. Trước tác của ông có Quang Minh Tạng Tam Muội (光明藏三昧).
(公胤, Kōin, 1145-1216): vị tăng sống vào khoảng giữa hai thời đại Bình An và Liêm Thương, hiệu là Minh Vương Viện (明王院), cháu của Nguyên Nhã Tuấn (源雅俊), con của vị tăng Hành Hiển (行顯); có thuyết cho là con của Hiến Tuấn (憲俊). Ông theo làm đệ tử của Hiền Giác (賢覺) ở Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji), học Hiển Mật và được công nhận là pháp khí của Phật pháp, rồi được truyền thọ phép Quán Đảnh và trở thành A Xà Lê. Ông được triều đình và lớp quý tộc tin sùng, đặc biệt là được sự tôn kính của hậu Bạch Hà Pháp Hoàng (白河法皇); thường được cung thỉnh về Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) để truyền đạo. Hơn nữa, ông còn được sự tín nhiệm của Hậu Điểu Vũ Thượng Hoàng (後鳥羽法皇), rồi cùng làm Phật sự với Pháp Hoàng, và trở thành Tăng Chánh. Sau đó, vào năm 1205, rồi 1209, ông được cử làm chức Trưởng Lại (長吏) của Viên Thành Tự, và năm 1208 thì làm Biệt Đương (別當) của Pháp Thắng Tự (法勝寺). Tương truyền ông rất thâm giao với vị Trưởng Lại ngày trước là Thật Khánh (實慶), và có mối quan hệ thâm tình với Nội Đại Thần Nguyên Thông Thân (源通親, Minamoto-no-Michichika). Trước tình hình Tịnh Độ Tông của Nguyên Không (源空, Genkū) chiếm ưu thế mạnh, nhân đọc qua bộ Tuyển Trạch Niệm Phật Tập (選擇念佛集) do Nguyên Không trước tác, Công Dận có ý định muốn đả phá nội dung của bộ này, bèn viết bản Tịnh Độ Quyết Nghi Sao (淨土決疑抄). Tuy nhiên, ông lại tình cờ hội hội ngộ với Nguyên Không, rồi lắng nghe vị này thuyết giảng, và cuối cùng quy y theo giáo thuyết ấy; vì thế ông đã hủy bỏ đi trước tác của ông để trở thành một nhà niệm Phật rất nhiệt tâm. Khi Nguyên Không qua đời, chính ông đã quản lý việc Phật sự này. Lại nữa, chính Đạo Nguyên (道元, Dōgen), người khai sáng ra Tào Động Tông Nhật Bản, lần đầu tiên có đến vấn pháp với Công Dận; nhưng chính Công Dận lại khuyên Đạo Nguyên nên đến học pháp với Vinh Tây (榮西, Eisai) ở Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji). Công Dận có sở trường về Hòa Ca, những bài vịnh của ông cũng được đăng tuyển trong Sắc Soạn Tập (勅撰集). Ông qua đời vào ngày 24 (có thuyết cho là ngày 20) tháng 6 năm 1216, thọ 72 tuổi.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập