Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tánh Không »»
(s, p: yoga, 瑜伽): ý dịch là tương ứng, tương ưng; nương vào phương pháp điều tức (hô hấp), v.v., tập trung tâm niệm ở một điểm; tu chủ yếu pháp Chỉ Quán (止觀), cùng nhất trí với lý tương ưng. Đối với Mật Giáo, rất thịnh hành thuyết gọi là Tam Mật Du Già Tương Ưng (三密瑜伽相應), hay Tam Mật Tương Ưng (三密相應). Hành giả thực hành pháp quán hạnh Du Già này, được gọi là Du Già sư (瑜伽師). Bộ Du Già Sư Địa Luận (瑜伽師地論) thuyết về 17 cảnh địa, từ Ngũ Thức Thân Tương Ưng Địa (五識身相應地) cho đến Vô Dư Y Địa (無餘依地). Học phái hành trì theo luận thư này được gọi là Du Già Phái (瑜伽派). Riêng về phía ngoại đạo, cũng có những nhà ngoại đạo Du Già. Tam Muội (s, p: samādhi, 三昧), Thiền Định (s: dhyāna, p: jhāna, 禪定) là những pháp thực hành Du Già. Theo Thành Duy Thức Luận Thuật Ký (成唯識論述記, Taishō Vol. 43, No. 1830) quyển 2, nghĩa của tương ưng có 5: (1) Tương ưng với cảnh, nghĩa là tự Tánh Không sai tất cả pháp. (2) Tương ưng với hành, nghĩa là tương ưng với định, tuệ, v.v. (3) Tương ưng với lý, là lý của Nhị Đế (二諦) về an lập hay không an lập, v.v. (4) Tương ưng với quả, nghĩa là có thể chứng đắc quả vô thượng Bồ Đề. (5) Tương ưng với cơ, nghĩa là đã được quả tròn đầy, lợi sanh cứu vật, tùy cơ duyên mà cảm ứng, thuốc và bệnh tương ứng với nhau. Trong 5 nghĩa nêu trên, Hiển Giáo phần nhiều lấy nghĩa tương ưng với lý. Trong bản Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1081) có định nghĩa rõ rằng: “Phạn ngữ Du Già, Hoa ngôn tương ưng, vị Tam Nghiệp đồng thời, nhi bất tiên hậu, cọng duyên nhất cảnh dã; thủ kết ấn thời, khẩu tất tụng chú, ý tất tác quán, Tam Nghiệp tề thí, vô hữu tham sai, thỉ danh tương ưng (梵語瑜伽、華言相應、謂三業同時、而不先後、共緣一境也、手結印時、口必誦咒、意必作觀、三業齊施、無有參差、始名相應, tiếng Phạn Du Già, Tàu gọi là tương ưng, tức Ba Nghiệp đồng thời, mà không trước sau, duyên chung vào một cảnh vậy; khi tay bắt ấn, miệng phải tụng chú, ý phải quán tưởng; Ba Nghiệp cùng thí, không có sai khác, mới gọi là tương ưng).” Bên cạnh đó, trong lời tựa đầu của Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ (瑜伽集要施食儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1080) có giải thích rằng: “Du Già pháp môn, giai tùng Phạn thư tự chủng khởi quán, xuất sanh nhất thiết quảng đại thần biến, phổ lợi hữu tình (瑜伽法門、皆從梵書字種起觀、出生一切廣大神變、普利有情, pháp môn Du Già, đều từ sách loại chữ Phạn mà bắt đầu quán, sinh ra hết thảy thần biến to lớn, lợi khắp chúng hữu tình).” Cũng điển tịch này có đoạn rằng: “Cẩn y Du Già giáo, kiến trí khải pháp diên, phổ thí chư hữu tình, giai cộng thành Phật đạo (謹依瑜伽敎、建置啟法筵、普施諸有情、皆共成佛道, kính theo Du Già giáo, thiết lập bày pháp diên, thí khắp các hữu tình, đều cọng thành Phật đạo).” Hiện tại trong hầu hết các tự viện Phật Giáo Việt Nam đều dùng nghi thức Du Già Thí Thực để tiến cúng các âm linh cô hồn thông qua Đàn Tràng Chẩn Tế hay Thủy Lục Pháp Hội. Nghi thức này được thâu lục rất đầy đủ trong bộ Trung Khoa Du Già Tập Yếu (中科瑜伽集要) hay Đại Khoa Du Già Tập Yếu (大科瑜伽集要). Tất cả những bản này đều dựa theo bản Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ do Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615), Tổ thứ 8 của Tịnh Độ Tông Trung Quốc soạn; bản lời tựa ghi dòng chữ: “Thời Vạn Lịch tam thập tứ niên, tuế thứ Bính Ngọ trọng Hạ vọng nhật Vân Thê Châu Hoằng cẩn chí (時萬歷三十四年、歲次丙午仲夏望日雲棲袾宏謹識, lúc bấy giờ niên hiệu Vạn Lịch thứ 34 [1606], ngày rằm tháng 5 năm Bính Ngọ, Vân Thê Châu Hoằng kính ghi).” Bản hiện hành thông dụng nhất tại Huế là Chánh Khắc Trung Khoa Du Già Tập Yếu (正刻中科瑜伽集要), tàng bản tại Sắc Tứ Báo Quốc Tự (勅賜報國寺), được khắc vào mùa Đông năm Mậu Tý (1888) thời vua Đồng Khánh (同慶, tại vị 1885-1889), do Đại Lão Hòa Thượng Hải Thuận Lương Duyên (海順良緣, 1806-1892), Tăng Cang Chùa Diệu Đế (妙諦寺), chứng minh.
(s: danta-kāṣṭha, p: danta-kaṭṭha, danta-poṇa, 楊枝): âm dịch là Đạn Đa Gia Sắt Sá (憚哆家瑟詑), Thiền Đa Ni Sắt Sáp (禪多抳瑟插); còn gọi là xỉ mộc (齒木), tức là mảnh cây nhỏ dùng để mài răng cạo lưỡi cho sạch; là một trong 18 vật cần dùng cho vị Tỳ Kheo do Phật chế ra. Như trong Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳, Taishō Vol. 54, No. 2125) quyển 1, phần Bát Triêu Tước Xỉ Mộc (八朝嚼齒木), giải thích rõ rằng: “Mỗi nhật đán triêu tu tước xỉ mộc, giai xỉ, quát thiệt, vụ linh như pháp, quán thấu thanh tịnh, phương hành kính lễ (每日旦朝須嚼齒木、揩齒、刮舌、務令如法、盥漱清淨、方行敬禮, mỗi ngày vào sáng sớm nên nhai cây xỉa răng, chùi răng, cạo lưỡi, làm việc như pháp, rửa tay súc miệng sạch sẽ, mới hành kính lễ).” Tại Ấn Độ, các nước phía Tây, khi mời người thế tục, trước tặng cho cây xỉa răng và nước hương, v.v., để chúc cho người đó được sức khỏe, thể hiện ý thỉnh cầu. Ngay như cung thỉnh chư Phật, Bồ Tát cũng dùng nhành dương chi và nước trong sạch, được gọi là Pháp Thỉnh Quán Âm (請觀音法) hay Pháp Dương Chi Tịnh Thủy (楊枝淨水法). Như trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 60, phần Thỉnh Quan Thế Âm Đại Thế Chí Bồ Tát Chú Pháp (請觀世音大勢至菩薩咒法), có câu: “Thỉnh thập phương Thất Phật Quan Âm Đại Thế Chí Bồ Tát đẳng, ngã kim dĩ cụ dương chi tịnh thủy, duy nguyện đại từ ai mẫn nhiếp thọ (請十方七佛觀音大勢至菩薩等、我今已具楊枝淨水、惟願大慈哀愍攝受, thỉnh mười phương bảy vị Phật, Quan Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát, v.v., con nay đã đầy đủ nhành dương nước sạch, xin nguyện từ bi thương xót nhiếp thọ).” Pháp Uyển Châu Lâm quyển 61 còn cho biết rằng Phật Đồ Trừng (佛圖澄, 232-348), cao tăng Thiên Trúc, là người có đức độ lớn, Thạch Lặc (石勒, 274-333)—vua nhà Hậu Triệu, nghe tiếng bèn cho mời vào cung nội. Nhân con nhà vua bị bệnh chết, Phật Đồ Trừng lấy nhà dương thấm nước rưới lên, người ấy sống lại. Cho nên, người ta thường dùng nhành dương liễu và nước trong sạch để làm thanh tịnh các đàn tràng cầu nguyện cầu an, cầu siêu, Chẩn Tế Âm Linh Cô Hồn, v.v. Trong Từ Bi Dược Sư Bảo Sám (慈悲藥師寶懺, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1484) quyển 1 có bài tán Dương Chi Tịnh Thủy như sau: “Dương chi tịnh thủy, biến sái tam thiên, Tánh Không Bát Đức lợi nhân thiên, phước tuệ quảng tăng diên, diệt tội trừ khiên, hỏa diệm hóa hồng liên (楊枝淨水、遍洒三千、性空八德利人天、福慧廣增延、滅罪除愆、火燄化紅蓮, nhành dương nước tịnh, rưới khắp ba ngàn, Tánh Không Tám Đức lợi người trời, phước tuệ rộng tăng thêm, diệt tội oan khiên, lửa rực hóa hồng sen).” Về loại cây xỉa răng, Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) có nêu ra 4 loại có thể dùng làm cây xỉa răng là Bạch Dương (白楊), Thanh Dương (青楊), Xích Dương (赤楊) và Hoàng Dương (黃楊). Hơn nữa, không chỉ riêng loại Dương Liễu mới có thể làm cây xỉa răng, mà tất cả các loại cây đều có thể dùng được. Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu còn giới thiệu bài kệ Thủ Dương Chi (取楊枝, Cầm Nhành Dương Liễu [Tăm Xỉa Răng]) là: “Thủ chấp dương chi, đương nguyện chúng sanh, giai đắc diệu pháp, cứu cánh thanh tịnh (手執楊枝、當願眾生、皆得妙法、究竟清淨, tay cầm nhành dương, nguyện cho chúng sanh, đều được pháp mầu, rốt ráo thanh tịnh)”; và bài Tước Dương Chi (嚼楊枝, Xỉa Răng): “Tước dương chi thời, đương nguyện chúng sanh, kỳ tâm điều tịnh, phệ chư phiền não (嚼楊枝時、當願眾生、其心調淨、噬諸煩惱, khi đang xỉa răng, nguyện cho chúng sanh, tâm được trong sạch, hết các phiền não).” Tỳ Ni Chỉ Trì Hội Tập (毗尼止持會集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 39, No. 709) quyển 16 còn cho biết một số nguyên tắc khi xỉa răng như: “Bất đắc tại Phật tháp hạ tước dương chi (不得在佛塔下嚼楊枝, không được xỉa răng dưới tháp Phật)”, “bất đắc hướng Phật tháp tước dương chi (不得向佛塔嚼楊枝, không được hướng về tháp Phật mà xỉa răng)”, “bất đắc Phật tháp tứ biên tước dương chi (不得佛塔四邊嚼楊枝, không được xỉa răng ở bốn phía của tháp Phật)”, v.v.
(覺靈): linh hồn đã giác ngộ, hay đã tìm thấy con đường; từ này được dùng cho các vị xuất gia đã viên tịch. Chữ giác (s, p: bodhi, 覺) ở đây có âm dịch là Bồ Đề (菩提), là trí tuệ chứng ngộ diệu lý Niết Bàn; cựu dịch là đạo (道), tân dịch là giác. Như trong Thiền Uyển Thanh Quy (禪苑清規, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1245) quyển 7, phần Vong Tăng (亡僧), có đoạn dùng từ giác linh này cho vị tu sĩ qua đời: “Dụng biểu vô thường, ngưỡng bằng tôn chúng, phụng vị một cố mỗ nhân Thượng Tọa, tư tợ giác linh vãng sanh Tịnh Độ (用表無常、仰憑尊眾、奉爲歿故某人上坐、資助覺靈往生淨土, thể hiện vô thường, ngưỡng mong đại chúng, kính vì Thượng Tọa … đã qua đời, trợ giúp giác linh vãng sanh Tịnh Độ).” Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 6, phần Vong Tăng (亡僧), còn cho biết rằng: “Bài thượng thư vân: 'Tân viên tịch mỗ giáp Thượng Tọa giác linh' (牌上書云、新圓寂某甲上座覺靈, trên bài vị ghi rằng: 'Giác linh Thượng Tọa … mới viên tịch').” Hay trong Tế Điên Đạo Tế Thiền Sư Ngữ Lục (濟顚道濟禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1361) cũng có đoạn rằng: “Cung duy viên tịch Tử Hà Đường Thượng Tánh Không Đại Hòa Thượng Bổn Công giác linh (恭惟圓寂紫霞堂上性空大和尚本公覺靈, kính nghĩ giác linh Bổn Công Đại Hòa Thượng Tánh Không Tử Hà Đường Thượng đã viên tịch).” Ngay cả trong văn thỉnh 12 loại cô hồn của Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083), đoạn thỉnh các tu sĩ quá cố cũng dùng từ giác linh này: “Nhất tâm triệu thỉnh, xuất trần thượng sĩ, phi tích cao tăng, tinh tu Ngũ Giới tịnh nhân, Phạm hạnh Tỳ Kheo Ni chúng, …, như thị chuy y Thích tử chi lưu, nhất loại giác linh đẳng chúng (一心召請、出塵上士、飛錫高僧、精修五戒淨人、梵行比丘尼眾…如是緇衣釋子之流、一類覺靈等眾, một lòng triệu thỉnh, xuất trần thượng sĩ, vân du cao tăng, ròng tu Năm Giới tịnh nhân, Phạm hạnh Tỳ Kheo Ni chúng, …, như vậy áo đen tu sĩ các dòng, một loại giác linh các chúng).”
(慧遠, Eon, 334-416): vị tăng sống dười thời Đông Tấn, sơ tổ của Tịnh Độ Tông Trung Quốc, người vùng Lâu Phiền (婁煩), Nhạn Môn (鴈門, thuộc Huyện Quách [崞縣], Sơn Tây [山西]), họ Cổ (賈). Năm lên 13 tuổi, ông đi du học khắp các vùng Hứa Xương (許昌), Lạc Dương (洛陽), thông hiểu các học vấn của Lão Trang. Năm 21 tuổi, ông cùng với người em là Huệ Trì (慧持) lên Hằng Sơn (恒山, Tây Bắc Khúc Dương [曲陽], Hà Bắc [河北]) nghe Đạo An (道安) giảng Kinh Bát Nhã, nhân đó ông lãnh ngộ, bèn cùng với em theo xuất gia làm đệ tử của Đạo An. Ông rất tinh thông học thuyết Tánh Không của Bát Nhã, năm 24 tuổi đăng đàn thuyết pháp, lúc ấy ông dẫn chứng 1 quyển sách của Trang Tử để nói về nghĩa thật tướng của Phật Giáo, khiến cho chúng hội thông hiểu rõ ràng. Đến năm thứ 6 (381) niên hiệu Thái Nguyên (太元), ông lên Lô Sơn (廬山), trú tại Đông Lâm Tự (東林寺) truyền bá giáo pháp, đệ tử đến nghe rất đông. Ông tập trung vào việc nghiên cứu kinh điển, thường than thở vùng đất Giang Đông chưa có đủ kinh điển, Thiền pháp chưa từng được nghe, luật tạng thiếu sót, nên sai đệ tử Pháp Tịnh (法淨), Pháp Lãnh (法領), v.v., đi tìm các kinh để truyền dịch. Cứ mỗi lần gặp được vị Tam Tạng pháp sư nào của Tây Vức, ông đều cung thỉnh về trú xứ mình. Vào năm thứ 16 (391) cùng niên hiệu trên, ông cung thỉnh vị tăng người Kế Tân (罽賓) là Tăng Già Đề Bà (s: Saṃghadeva, 僧伽提婆) đến phiên dịch A Tỳ Đàm Tâm Luận (阿毘曇心論), Tam Pháp Độ Luận (三法度論), v.v. Khi ông nghe tin Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什) đến Trung Quốc, bèn tức tốc cho các đệ tử Đạo Sanh (道生), Huệ Quán (慧觀), Đạo Ôn (道溫), Đàm Dực (曇翼), v.v., đến Trường An hầu hạ vị này, học Đại Thừa Không Quán của hệ Long Thọ (s: Nāgārjuna, 龍樹). Bên cạnh đó, ông thường dùng thư từ qua lại với La Thập để nghiên cứu trao đổi nghĩa lý kinh điển. Khi Đàm Ma Lưu Chi (s: Dharmaruci, 曇摩流支) sang Trung Hoa, ông cho đệ tử Đàm Ung (曇邕) đến tham gia dịch Thập Tụng Luật (十頌律). Ngoài ra, ông còn đích thân cung thỉnh Phật Đà Bạt Đà La (s: Buddhabhadra, 佛陀跋陀羅) đến Lô Sơn để dịch bản Đạt Ma Đa La Thiền Kinh (達磨多羅禪經). Song song với việc tuyên dương giáo học Bát Nhã của Đại Thừa, ông còn đề xướng Thiền học Tiểu Thừa. Vào năm đầu (402) niên hiệu Nguyên Hưng (元興), ông cùng với Lưu Di Dân (劉遺民) và đồng đạo hơn 100 người sáng lập Bạch Liên Xã (白蓮社), chuyên lấy việc niệm Phật cầu vãng sanh về Tịnh Độ làm pháp môn tu tập, trong suốt hơn 30 năm chưa từng hạ sơn lần nào. Vào năm thứ 2 (403) niên hiệu Nguyên Hưng, khi Hoàn Huyền (桓玄) hạ lệnh sa thải các vị Sa Môn và bắt họ phải kính trọng nhà vua, ông bèn viết cuốn Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận (沙門不敬王者論) để luận về vấn đề người xuất gia không cần phải khuất phục vương quyền, chủ trương giữ gìn truyền thống cao quý của Phật Giáo. Ông là người rất uyên thâm giáo lý Phật Giáo, lại rành tất cả sách vở, là bậc tông tượng đương thời và thậm chí còn được chư tăng ngoại quốc kính quý. Đông Lâm Tự trên Lô Sơn lúc bấy giờ là trung tâm Phật Giáo phương Nam, cùng với vùng Trường An, nơi La Thập trú ngụ, hùng bá thiên hạ. Vào năm thứ 12 (416) niên hiệu Nghĩa Hy (義熙), ông thị tịch, hưởng thọ 83 tuổi đời. Về sau, ông được các vị vua Đường Tống ban tặng cho những thụy hiệu là Biện Giác Đại Sư (辨覺大師), Chánh Giác Đại Sư (正覺大師), Viên Ngộ Đại Sư (圓悟大師), Đẳng Biến Chánh Giác Viên Ngộ Đại Sư (等徧正覺圓悟大師). Trước tác của ông có Lô Sơn Tập (廬山集) 10 quyển, Vấn Đại Thừa Trung Thâm Nghĩa Thập Bát Khoa (問大乘中深義十八科, tức Đại Thừa Đại Nghĩa Chương [大乘大義章]) 3 quyển, Minh Báo Ứng Luận (明報應論) 1 quyển, Thích Tam Báo Luận (釋三報論) 1 quyển, Biện Tâm Thức Luận (辯心識論) 1 quyển, Sa Môn Đản Phục Luận (沙門袒服論) 1 quyển, Đại Trí Độ Luận Tự (大智度論序), v.v. Đệ tử xuất chúng có Huệ Quán (慧觀), Tăng Tế (僧濟), Pháp An (法安), Đàm Ung (曇邕), Đạo Tổ (道祖), v.v.
(s: pāda-vandika, 禮足): lạy dưới chân; tức là lấy đảnh đầu, mặt lạy xuống chạm với chân Phật, để thể hiện sự quy kính tuyệt đối về thân và tâm; còn gọi là đảnh lễ (頂禮), tiếp túc tác lễ (接足作禮, lễ lạy chạm chân), đầu diện lễ túc (頭面禮足, đầu mặt lạy dưới chân), khể thủ lễ túc (稽首禮足, cúi đầu lạy dưới chân), đảnh lễ song túc (頂禮雙足, đầu lạy hai chân), khể thủ tiếp túc (稽首接足, cúi lạy chạm chân). Đây là hình thức thể hiện sự tôn kính tối thượng của Ấn Độ. Trong thân thể con người, đầu được xem là tối cao, tối thượng, nơi tôn kính và chân là chỗ thấp kém nhất, chạm đất; nên thành ngữ Việt Nam có câu: “đầu đội trời, chân đạp đất”. Thế nhưng, một khi lấy đầu hạ thấp xuống mà đảnh lễ sát chân của đấng tôn kính, hoặc lạy xuống đất; có nghĩa là tỏ bày sự cung kính tột bực. Cho nên, trong các kinh điển còn ghi lại cho biết rằng khi bất cứ người nào đến thăm viếng, thọ pháp với đức Thế Tôn, trước hết đều đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi đi nhiễu quanh Ngài và ngồi qua một bên. Như trong Phật Thuyết A Nan Đồng Học Kinh (佛說阿難同學經, Taishō Vol. 2, No. 149) có đoạn: “Thị thời A Nan, chí Thế Tôn sở, đáo dĩ đầu diện lễ túc, tại nhất diện lập (是時阿難、至世尊所、到已頭面禮足、在一面立, lúc bấy giờ A Nan, đến chỗ của Thế Tôn, khi đến nơi thì đầu mặt cúi lạy dưới chân Ngài, rồi đứng qua một bên).” Hay như trong Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu (重治毗尼事義集要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 719) quyển 15 có câu: “Cấp Cô Trưởng Giả, mỗi hướng Kỳ Viên thọ tân Tỳ Kheo kinh, đản tất tiên lễ túc nhi hậu thuyết pháp (給孤長者、每向祇園授新比丘經、但必先禮足而後說法, Trưởng Giả Cấp Cô Độc, mỗi khi đến Kỳ Viên giảng kinh cho các Tỳ Kheo mới, đều trước hết lạy dưới chân [họ] rồi sau đó mới thuyết pháp).” Trong Phước Cái Chánh Hành Sở Tập Kinh (福蓋正行所集經, Taishō Vol. 32, No. 1671) quyển 3 cũng có đoạn rằng: “Vãng nghệ Phật sở, đầu diện lễ túc, tâm hoài ưu não, thế lệ bi khấp, sám tạ tiên cữu (往詣佛所、頭面禮足、心懷憂惱、涕淚悲泣、懺謝先咎, đến thăm chỗ Phật, đầu mặt lạy duới chân, tâm lo sầu não, nước mắt ràn rụa, sám hối tội trước).” Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) có dẫn bài kệ Quán Tưởng Lễ Phật của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利): “Năng lễ sở lễ Tánh Không tịch, cảm ứng đạo giao nan tư nghì, ngã thử đạo tràng như đế châu, thập phương chư Phật ảnh hiện trung, ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, đầu diện tiếp túc quy mạng lễ (能禮所禮性空寂、感應道交難思議、我此道塲如帝珠、十方諸佛影現中、我身影現諸佛前、頭面接足歸命禮, người lạy đấng được lạy tánh vắng lặng, cảm ứng đạo giao tiếp khó nghĩ bàn, đạo tràng con đây như châu ngọc vua, mười phương chư Phật hình ảnh hiện ra, đầu mặt chạm chân quy mạng kính lạy).”
(靈光): ánh sáng, hào quang linh hiển; mọi người đều có Phật tánh, linh thiêng chiếu tỏ, thanh tịnh không ô nhiễm, thường phóng ra ánh sáng soi rọi. Như trong Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư Ngữ Lục (百丈懷海禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1322) có đoạn: “Linh quang độc diệu, huýnh thoát căn trần, thể lộ chơn thường, bất cẩu văn tự, tâm tánh vô nhiễm, bổn tự viên thành, đản ly vọng duyên, tức như như Phật (靈光獨耀、迥脫根塵、體露眞常、不拘文字、心性無染、本自圓成、但離妄緣、卽如如佛, linh quang sáng tỏ, thoát xa căn trần, thể bày chơn thường, chẳng kẹt chữ nghĩa, tâm Tánh Không nhiễm, vốn tự viên thành, chỉ lìa giả duyên, là như như Phật).” Hay trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 35 cũng có đoạn: “Cổ điện vô Phật Phạm âm hà lai, mộng trung hoán tỉnh lâu các môn khai, linh quang nhất điểm tuyệt trần ai, diệu cổ đằng kim biến cửu cai (古殿無佛梵音何來、夢中喚省樓閣門開、靈光一點絕塵埃、耀古騰今遍九垓, cổ điện không Phật Phạm âm từ đâu, trong mộng chợt tỉnh lầu gác cửa bày, linh quang một điểm dứt bụi trần, sáng xưa chiếu nay biến khắp nơi).” Hoặc trong Tiêu Thích Kim Cang Kinh Khoa Nghi Hội Yếu Chú Giải (銷釋金剛經科儀會要註解, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 24, No. 467) quyển 7 lại có đoạn: “Nhất điểm linh quang tắc thái hư, dã phi Thiền giáo dã phi Nho, đả thành nhất phiến thùy nhân hội, cụ nhãn hoàn tha đại trượng phu (一點靈光塞太虛、也非禪敎也非儒、打成一片誰人會、具眼還他大丈夫, một điểm linh quang khắp hư không, chẳng phải Thiền giáo cũng chẳng Nho, đánh thành một mảnh ai hiểu được, thấy rõ hoàn ra đại trượng phu).”
(s: sarva-jñatā, sarva-jña, sarva-jñāna, p: sabba-ñöa, 一切智) [thuật]: âm dịch là Tát Bà Nhã (薩婆若), Tát Bà Nhã Đa (薩婆若多), là một trong 3 loại trí (nhất thiết trí, đạo chủng trí và nhất thiết chủng trí [s: sarvajña-jñāna, sarvajñatā, sarva-jña, 一切種智]), là trí tuệ thông đạt hết thảy trong ngoài, biết hết thảy các pháp. Hữu Bộ cho đây là trí tuệ của Phật, và cũng có thuyết cho rằng trí tuệ này thông cả hai thừa Thanh Văn và Duyên Giác. Nó đối với nhất thiết chủng trí, có hai nghĩa chung và riêng. Nếu theo nghĩa chung, nó được gọi là Phật trí, cùng nghĩa với nhất thiết chủng trí. Nếu theo nghĩa riêng, nhất thiết chủng trí là trí nhìn thấy sự khác nhau của sự tướng. Nhất thiết trí là trí tuệ nhìn hiện tượng giới một cách bình đẳng, có Tánh Không. Nếu nói về nghĩa chung, trong Phẩm Thí Dụ của Kinh Pháp Hoa (法華經) có đoạn rằng: “Cần tu tinh tấn, cầu nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí (勤修精進、求一切智、佛智、自然智、無師智, siêng tu tinh tấn để cầu được trí tuệ biết hết tất cả, trí tuệ của Phật, , trí tuệ tự nhiên, trí tuệ không cần thầy chỉ dẫn)”. Cùng kinh trên, Phẩm Hóa Thành Dụ có đọan rằng: “Vi Phật nhất thiết trí, phát đại tinh tấn (爲佛一切智、發大精進, vì trí biết hết thảy của Phật mà phát khởi sự tinh tấn lớn)”. Kinh Nhân Vương (仁王經) quyển hạ dạy rằng: “Mãn túc vô lậu giới, thường tịnh giải thoát thân, tịch diệt bất tư nghì, danh vi nhất thiết trí (滿足無漏界、常淨解脫身、寂滅不思議、名爲一切智, cõi đầy đủ vô lậu, thân thường trong sạch giải thoát, vắng lặng không nghĩ bàn, đó gọi là trí tuệ biết hết tất cả)”. Phần cuối quyển 9 của Trung Luận Sớ (中論疏) có đoạn rằng: “Tri nhất thiết pháp, danh nhất thiết trí (知一切法、名一切智, biết hết thảy các pháp được gọi là trí hiểu biết hết tất cả)”. Kế đến, nếu nói về nghĩa riêng, đó là trí tuệ biết được hết thảy lý không bình đẳng. Pháp Hoa Kinh Sớ (法華經疏) 2 của ngài Gia Tường (嘉祥) có giải thích rằng: “Bát Nhã Tam Huệ Phẩm vân: 'Tri nhất thiết pháp nhất tướng, cố danh nhất thiết trí; hựu vân tri chủng chủng tướng cố danh nhất thiết chủng trí (般若三慧品云、知一切法一相、故名一切智、又云知種種相故名一切種智, Phẩm Bát Nhã Tam Huệ dạy rằng: 'Biết tất cả các pháp một tướng nên gọi là nhất thiết trí; biết tất cả các loại tướng nên gọi là nhất thiết chủng trí')”. Cùng quyển trên có giải thích thêm rằng: “Nhất thiết trí giả, vị không trí dã (一切智者、謂空智也, trí biết hết tất cả là trí không)”. Trí Độ Luận (智度論) 27 có đoạn rằng: “Luận nhất thiết chủng trí chi sai biệt, hữu nhân ngôn vô sai biệt, hoặc thời ngôn nhất thiết chủng trí; hữu nhân ngôn tổng tướng thị nhất thiết, biệt tướng thị nhất thiết chủng trí; nhân thị nhất thiết trí, quả thị nhất thiết chủng trí; lược thuyết nhất thiết trí, quảng thuyết nhất thiết chủng trí; nhất thiết trí tổng phá nhất thiết pháp trung vô minh ám, nhất thiết chủng trí quán chủng chủng pháp môn phá chư vô minh (論一切種智之差別、有人言無差別、或時言一切種智、有人言總相是一切、別相是一切種智、因是一切智、果是一切種智、略說一切智、廣說一切種智、一切智總破一切法中無明闇、一切種智觀種種法門破諸無明, Khi luận về sự khác nhau của nhất thiết chủng trí, có người cho rằng không có khác nhau, hay có khi gọi là nhất thiết chủng trí; có người lại cho rằng tướng chung là hết thảy các trí, tướng riêng là nhất thiết chủng trí, nhân là nhất thiết trí, còn quả là nhất thiết chủng trí; nói riêng là nhất thiết trí, nói rộng ra là nhất thiết chủng trí; nhất thiết trí thì phá tan toàn bộ sự tối tăm, vô minh của tất cả các pháp; còn nhất thiết chủng trí thì quán từng loại pháp môn để phá các vô minh)”. Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章) 10 cho rằng: “Cử lục chủng chi sai biệt, hựu dĩ danh Thanh Văn, Duyên Giác chi trí (舉六種之差別、又以名聲聞緣覺之智, nêu lên được 6 loại sai biệt, đó gọi là trí của Thanh Văn và Duyên Giác)”. Trí Độ Luận (智度論) 27 giải thích thêm rằng: “Hậu phẩm trung Phật thuyết nhất thiết trí, thị Thanh Văn, Bích Chi Phật sự, đạo trí thị Bồ Tát sự, nhất thiết chủng trí thị Phật sự, Thanh Văn, Bích Chi Phật câu hữu tổng nhất thiết trí, vô hữu nhất thiết chủng trí (後品中佛說明一切智、是聲聞辟支佛事、道智是菩薩事、一切種智是佛事、聲聞辟支佛倶有總一切智、無有一切種智, trong phẩm sau đức Phật nói về nhất thiết trí là trí của Thanh Văn và Bích Chi Phật, đạo trí là trí của Bồ Tát, nhất thiết chủng trí là trí của Phật, Thanh Văn và Bích Chi Phật đều có chung nhất thiết trí, nhưng không có nhất thiết chủng trí)”.
(一味): có hai nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho loại mùi vị. Như trong Trung Luận (中論), chương Trị Học (治學) của Từ Cán (徐幹, 170-217) nhà Hán có câu: “Gia thiện chi hòa, phi thủ hồ nhất vị (嘉膳之和、非取乎一味, khen mâm cỗ hài hòa, không phải chỉ lấy một vị mà khen).” (2) Chỉ cho giáo pháp của Như Lai, giống như Cam Lộ. Như trong Phẩm Dược Thảo Dụ (藥草喻品) của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 3 có câu: “Như Lai thuyết pháp, nhất tướng nhất vị (如來說法、一相一味, đức Như Lai thuyết pháp, một tướng một vị).” Hay trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 5 lại có câu: “Hựu giải thoát giả, danh vi nhất vị (又解脫者、名爲一味, lại nữa, giải thoát được gọi là một vị).” Hoặc trong Đại Thừa Khởi Tín Luận Nghĩa Ký (大乘起信論義記, Taishō Vol. 44, No. 1846) quyển Trung lại có đoạn rằng: “Phi sanh phi diệt, bất động bất chuyển, bình đẳng nhất vị, tánh vô sai biệt, chúng sanh tức Niết Bàn (非生非滅、不動不轉、平等一味、性無差別、眾生卽涅槃, chẳng sanh chẳng diệt, không động không chuyển, bình đẳng một vị, Tánh Không sai khác, chúng sanh là Niết Bàn).”
(s: dharmatā, p: dhammatā, 法性): còn gọi là Thật Tướng Chân Như (實相眞如), Chân Pháp Tánh (眞法性), Chân Tánh (眞性); là tên gọi khác của Chân Như (眞如), v.v.; tuy tên gọi khác mà đồng thể; là thể tánh chân thật của các pháp, cũng là bản tánh chân thật bất biến vốn có của hết thảy hiện tượng trong vũ trụ. Pháp Tánh là gốc của vạn pháp, nên còn gọi là Pháp Bổn (法本). Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 32 lấy tổng tướng và biệt tướng của các pháp cùng quy về Pháp Tánh; cho rằng các pháp có mỗi mỗi tướng (tướng sai biệt của hiện tượng) và thật tướng. Về cái gọi là mỗi mỗi tướng khác nhau, tỷ dụ như sáp ong đốt chảy thành nước, mất đi tướng ban đầu của nó, do vì không cố định, nên phân biệt tìm cầu không thể được; chính vì không thể được nên gọi là “không (空)” (tức không có tự tánh); vì vậy không chính là thật tướng của các pháp. Đối với hết thảy tướng sai biệt mà nói, do vì tự tánh của chúng là không, nên đều là đồng nhất, được gọi là “như (如).” Tất cả các tướng đều quy về không, vì vậy gọi không là Pháp Tánh. Lại nữa, như trong đá màu vàng có đủ tánh chất của vàng, trong tất cả các pháp trên thế gian đều có Pháp Tánh của Niết Bàn; vì vậy mới bảo rằng thật tánh bản nhiên của các pháp là Pháp Tánh. Điều này đồng nghĩa với ý nghĩa gọi là “chúng sanh, quốc độ đồng nhất Pháp Tánh (眾生、國土同一法性, chúng sanh, quốc độ cùng một Pháp Tánh)” trong Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh (大方廣圓覺修多羅了義經, Taishō Vol. 17, No. 842). Trong Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō Vol. 11, No. 310) quyển 52, đức Thích Tôn đã từng khai thị về nghĩa thật tánh của các pháp, dạy rằng Pháp Tánh Không có đổi khác, không có tăng thêm, không tạo tác và chẳng có không tạo tác; Pháp Tánh Không có phân biệt, không có sở duyên, đối với tất cả pháp có thể chứng đắc thể tướng cứu cánh. Cũng có thuyết cho rằng Như Lai Tạng (如來藏) đồng nghĩa với Pháp Tánh. Các luận sư giải thuyết về Pháp Tánh Không giống nhau. Đại Sư Từ Ân (慈恩, tức Khuy Cơ [窺基, 632-682]) của Pháp Tướng Tông thì cho rằng Pháp Tánh là Viên Thành Thật Tánh (圓成實性) trong 3 tánh; Y Tha Khởi Tánh (依地起性) này là nơi nương tựa của hết thảy các pháp hữu vi. Trong khi đó, Gia Tường Đại Sư Cát Tạng (吉藏, 549-623) của Tam Luận Tông lại chủ trương rằng chân không là Pháp Tánh. Kế đến, Hiền Thủ (賢首, tức Pháp Tạng [法藏, 643-712]), vị Tổ thứ 3 của Hoa Nghiêm Tông, cho rằng chân như có hai nghĩa là bất biến và tùy duyên; nếu lấy nghĩa tùy duyên, biến tạo ra các pháp, tuy biến tạo mà vẫn giữ tánh chân như bất biến. Chân như tùy duyên biến tạo vạn pháp như vậy, nên gọi chân như là Pháp Tánh. Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-597) của Thiên Thai Tông luận rằng Pháp Tánh có đủ ô nhiễm, trong sạch, tức tánh thiện tánh ác; vì tánh có đủ thiện và ác, nên sanh ra các pháp ô nhiễm, trong sạch. Như trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (大方廣佛華嚴經, Taishō Vol. 10, No. 279) quyển 16, Phẩm Thăng Tu Di Sơn Đảnh (昇須彌山頂品) 13, có đoạn: “Pháp Tánh bổn không tịch, vô thủ diệc vô kiến, Tánh Không tức thị Phật, bất khả đắc tư lường (法性本空寂、無取亦無見、性空卽是佛、不可得思量, Pháp Tánh vốn không lặng, không cầm cũng không thấy, Tánh Không tức là Phật, suy lường chẳng thể được).” Trong bài tựa của Khởi Tín Luận Tục Sớ (起信論續疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 45, No. 764) quyển 1 giải thích rằng: “Pháp Tánh giả, vị chân như bất biến, tùy duyên nhi năng thành nhất thiết pháp (法性者、謂眞如不變、隨緣而能成一切法, Pháp Tánh nghĩa là chân như bất biến, tùy duyên mà có thể thành tất cả các pháp).” Hoặc trong Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 87 cũng có đoạn: “Hựu chư pháp tức Pháp Tánh nhân duyên, nãi chí Đệ Nhất Nghĩa diệc thị nhân duyên (又諸法卽是法性因緣、乃至第一義亦是因緣, lại các pháp là nhân duyên của Pháp Tánh, cho đến Đệ Nhất Nghĩa cũng là nhân duyên).”
(s: dharma-kāya, 法身): tên gọi một trong 3 thân của Phật, gồm Pháp Thân, Báo Thân (報身) và Ứng Thân (應身). Với ý nghĩa là thân thể của chân lý (pháp), Pháp Thân là đương thể chân lý vĩnh viễn bất biến, là đức Phật lý Tánh Không sắc không hình, đem lại ý nghĩa mang tính nhân cách cho lý thể của chân như, còn được gọi là Pháp Thân Phật, Pháp Tánh Thân, Tự Tánh Thân, Như Như Phật, Như Như Thân, Đệ Nhất Thân, v.v. Đây là nhân cách hóa Phật tánh, tượng trưng cho Phật pháp tuyệt đối, chân lý không nơi đâu mà không hiện hữu, bao hàm khắp tất cả mọi nơi. Đức Phật là đấng giác ngộ, nên Pháp Thân là Giác Tánh (覺性, tánh giác ngộ), Báo Thân là Giác Tướng (覺相, tướng giác ngộ) và Ứng Thân là Giác Dụng (覺用, sự diệu dụng của giác ngộ). Hơn nữa, Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) có lập ra Tam Pháp Thân (三法身, ba loại Pháp Thân), gồm Pháp Hóa Sanh Thân (法化生身), Ngũ Phần Pháp Thân (五分法身) và Thật Tướng Pháp Thân (實相法身). Pháp Hóa Sanh Thân là hóa thân Phật do pháp tánh hóa hiện; Ngũ Phần Pháp Thân là thân thể có 5 phần công đức như Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến. Thật Tướng Pháp Thân là thật tướng của các pháp vốn có Tánh Không. Bên cạnh đó, cũng có Tam Pháp Thân do Thiên Thai Tông lập ra, gồm Không Pháp Thân (空法身, Pháp Thân của Tiểu Thừa), Tức Giả Pháp Thân (卽假法身, Pháp Thân của Đại Thừa Biệt Giáo) và Tức Trung Pháp Thân (卽中法身, Pháp Thân của Đại Thừa Viên Giáo). Như trong Niệm Phật Khởi Duyên Di Đà Quán Kệ Trực Giải (念佛起緣彌陀觀偈直解, CBETA No. 1195) có giải thích về Pháp Thân rằng: “Pháp Thân giả, tức Như Lai Tạng Đại Niết Bàn thể, sanh diệt tâm diệt, chơn như tâm hiện, tức danh Pháp Thân; thử thân vô dộ khả lai, vô độ khả khứ, bổn Pháp Giới Thân, châu biến nhất thiết (法身者、卽如來藏大涅槃體、生滅心滅、眞如心現、卽名法身、此身無土可來、無土可去、本法界身、周遍一切, Pháp Thân tức là thể của Như Lai Tạng Đại Niết Bàn, tâm sanh diệt mà diệt, thì tâm chơn như hiển hiện, tức gọi là Pháp Thân; thân này không quốc độ nào có thể đến, không quốc độ nào có thể đi, vốn là thân của Pháp Giới, biến khắp tất cả).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập