Yếu tố của thành công là cho dù đi từ thất bại này sang thất bại khác vẫn không đánh mất sự nhiệt tình. (Success consists of going from failure to failure without loss of enthusiasm.)Winston Churchill
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tăng Mân »»
(s, p: nāga, 龍): rồng, âm dịch là Nẵng Nga (曩誐), Na Già (那伽), tên gọi của một trong 8 bộ chúng hộ trì Phật pháp. Trong thần thoại Ấn Độ, đây là động vật không tưởng thần cách hóa loài rắn; loại có uy đức gọi là Long Vương (龍王) hay Long Thần (龍神). Tương truyền loài này sống trong biển lớn, có ma lực có thể kêu mây và làm mưa gió. Trong thánh điển Phật Giáo có đề cập nhiều đến loài này, tỷ dụ như trong Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Kinh (佛母大孔雀明王經) có nêu lên hơn 160 tên loài rồng này. Trong truyền thuyết về đức Phật kể lại chuyện khi ngài giáng sanh, có hai con rồng rưới nước thanh tịnh lên mình ngài; khi thành đạo thì con rồng đã bảo vệ, che chở thân ngài trong 7 ngày mưa bão; đức Phật đã từng chữa bệnh cho con rồng mù và hàng phục loài độc long, v.v. Trong Pháp Hoa Kinh (法華經) cho biết rằng 8 vị Long Vương lớn đến nghe đức Phật thuyết pháp; hay như trong Phẩm Đề Bà Đạt Đa (提婆達多品) của kinh này có câu chuyện vị long nữ 8 tuổi thành Phật. Trú xứ của rồng được gọi là Long Cung (龍宮), nằm sâu dưới lòng đáy biển, được trang hoàng lộng lẫy và của báu chất đầy như núi. Nó là vị hộ pháp của Đại Thừa Phật Giáo. Đối với Mật Giáo, đồ hình Thai Tạng Mạn Trà La (胎藏曼茶羅) có 2 vị Long Vương đại diện cho Nan Đà (難陀) và Ô Ba Nan Đà (烏波難陀), có quan hệ rất sâu với pháp cầu mưa. Câu chuyện Thiện Nữ Long Vương (善女龍王) xuất hiện trong khi Không Hải (空海, Kūkai) đang tu luyện pháp tại Thần Tuyền Uyển (神泉苑) là rất nổi tiếng.
(s: Maṇḍala, 曼茶羅 hay 曼陀羅): theo nguyên ngữ Sanskrit là maṇḍala, ngữ căn maṇḍa có nghĩa là "chơn tủy, bản chất", và vì tiếp vĩ ngữ la có nghĩa là "có được", cho nên từ này có nghĩa là "có được bản chất", tức là đạt được giác ngộ tối cao gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác của Phật. Chính vì đó là cảnh địa sung thật, đầy đủ như vòng tròn, nên từ này còn được dịch là "Luân Viên Cụ Túc" (輪圓具足, vòng tròn đầy đủ). Về mặt ngữ nguyên học, từ maṇḍala vẫn chưa được giải thích một cách trọn vẹn cho lắm, nhưng trong văn bản bình thường nó có nghĩa là "hình thức giống như vòng tròn". Trong Chơn Ngôn Mật Giáo, nó có nghĩa là "nơi đắc ngộ" hay "đạo tràng". Vì trong đạo tràng có thiết lập đàn tràng để cho chư Phật và Bồ Tát vân tập, nên từ này còn có nghĩa là "đàn" hay "sự tập hợp", từ đó nó được dùng để gọi những hình đồ vẽ các hình tượng tập trung. Quan niệm mang tính trừu tượng một cách thuần túy thì được gọi là Tự Tánh Mạn Trà La (自性曼茶羅). Theo đà phát triển về quán tưởng Phật, hình thức Quán Tưởng Mạn Trà La phản ánh thế giới của Phật trong tâm mang tính cụ thể bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, theo thường tình thì việc quán Phật rất khó khăn, nên hiện tại các hình tượng được vẽ rất cụ thể. Trong Kinh Ngưu Lê Mạn Đà La Chú (牛梨曼陀羅呪經) được dịch vào thời nhà Lương (502-557), có đề cập đến cách vẽ tượng Bổn Tôn ở giữa trung tâm của đàn, và các tượng quyến thuộc nằm chung quanh tượng Bổn Tôn này. Gần đây nguyên bản chép bằng tiếng Sanskrit (thế kỷ thứ 5-6) của kinh này được phát hiện ở Kashmir, và điều này chứng tỏ rằng vào thời ấy ở Ấn Độ cũng đã xuất hiện hình thức Mạn Đà La rồi. Từ thời Nam Bắc Triều (420-589) cho đến thời nhà Tùy (581-619), hình thức vẽ các họa tượng như Phép Cầu Mưa (請雨法), Thập Nhất Diện Quan Âm (十一面觀音), v.v., đã trở nên rõ ràng. Vào đầu thời nhà Đường thì trong Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經) do A Địa Cù Đa (阿地瞿多) dịch có đề cập đến Tập Hội Đàn (集會壇). Đến thế kỷ thứ 8, trong Bất Không Quyên Sách Kinh (不空羂索經) hay Nhất Tự Phật Đảnh Luân Vương Kinh (一字佛頂輪王經) do Bồ Đề Lưu Chí (菩提流志) dịch đã thấy xuất hiện hình thức Thai Tạng Mạn Trà La (胎藏曼茶羅). Ở Ấn Độ, vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7, và từ thế kỷ thứ 7 đến đầu thế kỷ thứ 8 thì Đại Nhật Kinh (大日經), Kim Cang Đảnh Kinh (金剛頂經) đã được thành lập, cho nên trong Thai Tạng Mạn Trà La và Kim Cang Giới Mạn Trà La (金剛界曼茶羅) đã xuất hiện Đại Nhật Như Lai (大日如來) làm đấng Trung Tôn. Chính vì lẽ đó, trong Mật Giáo gọi hình thức trước là Tạp Mật (雜密) và hình thức sau là Thuần Mật (純密). Cả hai đều được truyền vào Trung Hoa và được chỉnh bị thống nhất lại với nhau, hoàn thành nên Lưỡng Giới Mạn Trà La (兩界曼茶羅). Rồi cả hai bộ này cũng được Không Hải sang Trung Hoa thỉnh về Nhật và lưu bố với tư cách là Hiện Đồ Mạn Trà La (現圖曼茶羅).
(成實宗, Jōjitsu-shū): tên gọi của học phái nghiên cứu dựa trên bộ Thành Thật Luận (s: Satyasiddhi-śāstra, 成實論) của Ha Lợi Bạt Ma (s: Harivarman, 訶利跋摩, khoảng thế kỷ thứ 3-4), do Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch vào khoảng năm 411-412. Ở Trung Hoa thì nó thuộc một chi nhánh của Tam Luận Tông. Trước tiên tông này được môn hạ của La Thập nghiên cứu, rồi Tăng Đạo (僧道) và Tăng Tung (僧嵩) đã thành lập nên 2 hệ thống tư tưởng lớn. Tăng Đạo thì trước tác bộ Thành Thật Luận Nghĩa Sớ (成實論義疏), đóng vai trò chỉ đạo trong việc nghiên cứu về Thành Thật Tông ở vùng phía Nam. Ông có một số đệ tử như Đàm Tế (曇濟), Đạo Lượng (道亮), Đạo Mãnh (道猛), v.v. Đệ tử của Đàm Tế và Đạo Mãnh thì có Pháp Sủng (法寵). Còn đối với Đạo Lượng, người soạn ra bộ Thành Thật Luận Nghĩa Sớ thì có Trí Lâm (智林). Tăng Tung thì quảng bố Thành Thật Luận ở Từ Châu; còn các môn hạ của đệ tử ông là Tăng Uyên (僧淵) như Đàm Độ (曇度), Đạo Đăng (道登), Huệ Cầu (慧球), v.v., thì được tín nhiệm thời Bắc Ngụy. Vào thời Nam Tề thì Tăng Nhu (僧柔), Huệ Thứ (慧次) vâng theo mệnh lệnh của vua Tuyên Văn Vương (宣文王) trước tác bộ Lược Thành Thật Luận (略成實論); sau này môn hạ của họ cũng xuất hiện ra 3 vị đại pháp sư của nhà Lương là Trí Tạng (智藏), Tăng Mân (僧旻) và Pháp Vân (法雲). Trong số 3 người này thì Trí Tạng là người đã đem hết sức mình xiển dương Thành Thật Luận. Vào đời nhà Tùy thì có Trí Thoát (智脫) rất nổi tiếng. Đối với Nhật Bản thì tông này cũng được vương triều Bách Tế (百濟) của Triều Tiên truyền vào, nhưng chỉ phụ thuộc vào Tam Luận Tông, chứ không tồn tại như một tông phái lớn như ở Trung Quốc.
(莊嚴寺, Shōgon-ji): hiện tọa lạc tại Huyện Giang Ninh (江寧縣), Phủ Giang Ninh (江寧府), Thăng Châu (昇州), Tỉnh Giang Tô (江蘇省, Kim Lăng). Vào năm thứ 4 (348) niên hiệu Vĩnh Hòa (永和) nhà Đông Tấn, Tạ Thượng (謝尚) cải trang tư gia của ông thành chùa và trong khoảng thời gian niên hiệu Đại Minh (大明) nhà Tống thì được đặt tên là Trấn Tây Tự (鎭西寺). Vào năm thứ 5 (573) niên hiệu Thái Kiến (太建), chùa bị thiêu cháy tan tành, Trình Văn Tú (程文秀), vị sắc sứ Dự Châu (豫州), tu sửa lại và đổi tên thành Hưng Nghiêm Tự (興嚴寺). Đến năm thứ 23 (649) niên hiệu Trinh Quán (貞觀) nhà Đường, Ngưu Đầu Huệ Trung (牛頭慧忠) đến trú trì nơi đây và xây dựng Pháp Đường. Đối với Thiền Tông, đây được xem như là ngôi Pháp Đường đầu tiên. Một số danh tăng như Đàm Bân (曇斌), Tăng Mân (僧旻), Đạo Huệ (道慧), Huệ Thiệp (慧涉), v.v., cũng đã từng sống qua ở đây.
(智藏, Chizō, 458-522): vị tăng sống dưới thời nhà Lương thuộc Nam Triều, cùng với Tăng Mân (僧旻) và Pháp Vân (法雲) được gọi là Ba Vị Pháp Sư Lớn của nhà Lương, xuất thân Quận Ngô (呉郡, thuộc Huyện Ngô [呉縣], Giang Tô [江]), họ Cố (顧). Ban đầu ông tên Tịnh Tạng (淨藏), lúc nhỏ thông minh, khiêm tốn. Theo Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) quyển 5 cho biết rằng ông xuất gia năm 16 tuổi, đến năm thứ 6 (470) niên hiệu Thái Thỉ (泰始), đến trú tại Hưng Hoàng Tự (興皇寺), theo hầu Tăng Viễn (僧遠) và Tăng Hựu (僧祐) ở Định Lâm Tự (定林寺) cũng như Hoằng Tông (弘宗) ở Thiên An Tự (天安寺). Bên cạnh đó, ông còn theo học với Tăng Nhu (僧柔), Huệ Thứ (慧次), tinh thông kinh luận và giới luật. Dưới thời Văn Tuyên Vương (文宣王), khi Phật pháp thịnh hành, nhà vua cho thuyết giảng Tịnh Danh Kinh (淨名經), triệu tập hơn 20 vị tăng để tinh giải kinh luận, khi ấy ông là người nhỏ tuổi nhất ngồi bên dưới, nhưng đến khi thuyết giảng về nghĩa lý thì chẳng có ai bì kịp. Đến thời Lương Võ Đế (梁武帝), ông lại được sùng tín hơn, sắc phong trú trì Khai Thiện Tự (開善寺). Năm 29 tuổi, nghe thầy tướng số bảo ông chỉ sống đến 31 tuổi, vì vậy ông không thuyết giảng nữa, chỉ chuyên tâm tu tập, phát nguyện lớn không ra khỏi cửa chùa, ngày đêm thọ trì Kinh Kim Cang Bát Nhã (金剛般若經). Đến cuối năm 31 tuổi, ông lấy hương tắm rửa sạch sẽ, tụng kinh đợi chết, nhưng lại nghe trên không trung có âm thanh, nhờ thần lực của Kinh Bát Nhã mà được tăng tuổi thọ. Từ đó trở đi, chúng đạo tục vùng Giang Tả đều trì tụng Kinh Bát Nhã. Về sau, ông từng thuyết giảng Thành Thật Luận (成實論) ở Bành Thành Tự (彭城寺), rồi giảng Kinh Pháp Hoa (法華經) ở Huệ Luân Điện (惠輪殿). Khi vua Võ Đế thọ Bồ Tát giới, ông làm giới sư. Hoàng Thái Tử cũng kính trọng ông và thường đến pháp tịch nghe giảng kinh. Vào tháng 9 năm thứ 3 (522) niên hiệu Phổ Thông (普通), ông thị tịch, hưởng thọ 65 tuổi.
(圓珍, Enchin, 815-891): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Bình An, thụy hiệu là Trí Chứng Đại Sư (智証大師), xuất thân vùng Tán Khi (讚岐, Sanuki, thuộc Kagawa-ken [香川縣] ngày nay), tục danh là Hòa Khí (和氣), mẹ là Tá Bá (佐伯), đồng hàng với cháu Không Hải. Năm 15 tuổi, ông được người chú Nhân Đức (仁德) dẫn đến đầu sư với Nghĩa Chơn (義眞, Gishin), đến năm 20 tuổi thọ giới rồi sau đó ẩn tu trong núi suốt 12 năm, và đến năm 32 tuổi mới ra lãnh chúng. Vì có chí sang nhà Đường cầu pháp, nên năm 853 ông sang Trung Quốc, đến Khai Nguyên Tự (開元寺) ở Huyện Liên Giang (連江縣), thuộc Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến ngày nay), học Tất Đàm ở Bát Nhã Hằng Duy (般若恒罹) và Luật Sớ ở Tồn Thức (存式). Sau khi đến Khai Nguyên Tự ở vùng Ôn Châu (溫州, thuộc Tỉnh Triết Giang ngày nay), ông được Tông Bổn (宗本) trao cho các bản sớ Câu Xá Luận. Tiếp theo ông đến Đài Châu (台州, thuộcTỉnh Triết Giang ngày nay), thọ nhận một số văn bản chương sớ của Duy Ma Kinh, Nhân Minh Luận từ Tri Kiến (知建). Sau đó, ông lại đến Quốc Thanh Tự (國清寺) ở trên Ngũ Đài Sơn và gặp được Vật Đắc (物得), Viên Tải (圓載). Kế đến, ông được Pháp Toàn (法全) của Thanh Long Tự (青龍寺) trao truyền Quán Đảnh của Kim Thai Lưỡng Bộ, và thọ nhận đại pháp của Tất Đàm Địa cũng như Tam Muội Da Giới. Ông cũng có học Mật Giáo với Trí Huệ Luân Tam Tạng (智慧輪三藏). Trong khoảng thời gian 7 tháng lưu lại tại Trường An, ông đã nhận được một số rất nhiều pháp cụ, sớ chương, và tham bái các ngôi chùa nổi tiếng nơi đây. Chính ông đã cúng tiền xây dựng phục hưng Quốc Thanh Tự, nên được gọi là Thiên Thai Sơn Quốc Thanh Tự Nhật Bản Quốc Đại Đức Tăng Viện (天台山國清寺日本國大德僧院).Sau 6 năm lưu học cầu pháp, ông trở về nước, mang theo một số lượng lớn kinh sớ của Thiên Thai, Chơn Ngôn, Câu Xá, Nhân Minh, Tất Đàm, gồm khoảng hơn 440 bộ và 1000 quyển. Năm 859, thể theo lời thỉnh cầu của Đại Hữu (大友), ông chuyển đến ở tại Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) thuộc vùng Tam Tỉnh (三井, Mii), sau đó ông tạo nơi đây thành Thiên Thai Biệt Viện, và đến năm 868 thì được cử làm Tọa Chủ chùa này thay thế An Huệ (安慧, Anne). Môn hạ của ông có Duy Thủ (惟首, Yuishū), Du Hiến (猷憲, Yuken), Tăng Mạng (増命, Zōmyō), Tôn Ý (尊意, Soni), v.v. Trước tác của ông có Đại Nhật Kinh Chỉ Quy (大日經指歸) 1 quyển, Giảng Diễn Pháp Hoa Nghi (講演法華儀) 2 quyển, Thọ Quyết Tập (授決集) 2 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập