Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein
Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng. (We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tần phiền »»
(寶杵): chày báu, tên gọi khác của Kim Cang Chử (s: varja, 金剛杵), Hàng Ma Chử (降魔杵); âm dịch là Phược Nhật Ra (縛日囉), Phạt Chiết Ra (伐折囉), Bạt Chiết Ra (跋折囉), Phạt Xà Ra (伐闍囉). Loại pháp khí này nguyên xưa kia là vũ khí của cổ đại Ấn Độ, do vì nó cứng rắn, có thể đột phá các thứ vật chất khác, nên gọi là Kim Cang Chữ. Trong Mật Giáo, Kim Cang Chử tượng trưng cho Bồ Đề Tâm có thể phá tan phiền não, được dùng như là đạo cụ hay vật dụng đặc biệt để tu pháp. Các đấng chủ tôn trong Hải Hội Mạn Trà La (曼荼羅海會) đều có cầm cây Bảo Chử này. Hành giả của Chơn Ngôn Tông cũng thường mang theo đạo cụ này bên mình. Nó còn tượng trưng cho trí tuệ đại dụng của Như Lai Kim Cang (如來金剛), có thể phá trừ nội ma của ngu si, vọng tưởng cũng như ma chướng của ngoại đạo. Ban đầu, Kim Cang Chữ có mũi nhọn, rất bén; về sau khi nó được dùng làm pháp khí thì hình thức có thay đổi khá nhiều. Có rất nhiều loại Kim Cang Chử với các chất liệu khác nhau như vàng, bạc, đồng, sắt, đá, thủy tinh, gỗ đàn, xương người, v.v. Chiều dài của Kim Cang Chữ cũng khác nhau như loại dài 8 ngón tay, 10 ngón, 12 ngón, 16 ngón, 20 ngón, v.v. Với tư cách là một loại pháp khí của Phật Giáo, Kim Cang Chử có nhiều hình dáng khác nhau: Độc Cổ (獨股, một đầu), Nhị Cổ (二股, hai đầu), Tam Cổ (三股, ba đầu), Tứ Cổ (四股, bốn đầu), Ngũ Cổ (五股, năm đầu), Cửu Cổ (九股, chín đầu), Tháp Chử (塔杵, chày hình tháp), Bảo Chữ (寶杵), v.v. Trong số đó, loại Độc Cổ, Tam Cổ và Ngũ Cổ là thường gặp nhất; tượng trưng cho pháp giới độc nhất, Tam Mật Tam Thân (三密三身) và Ngũ Trí Ngũ Phật (五智五佛). Độc Cổ, Tam Cổ, Ngũ Cổ, Bảo Chử và Tháp Chử được gọi là Ngũ Chủng Chử (五種杵, năm loại chày). Trong đó, Độc Cổ là loại có hình thức tối cổ, mũi nhọn dài, là vật cầm tay của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ (密迹金剛力士). Trong đó, loại Độc Cổ Chử có hình thức cổ nhất, là vật thường cầm trên tay của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ (密跡金剛力士). Ngoài ra, Kim Cang Thủ (金剛手) trong 40 tay của Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音), một trong 108 bàn tay của Kim Cang Vương Bồ Tát (金剛王菩薩) đều cầm loại Độc Cổ này. Trong 5 loại này, Độc Cổ Chử tương ứng với Liên Hoa Bộ (蓮華部), đặt ở phương Tây của đại đàn. Tam Cổ Chử tương ứng với Yết Ma Bộ (羯磨部), đặt ở phương Bắc của đại đàn. Về cách dùng của Kim Cang Chử, khi cầu thành tựu sự vật, tu pháp của Kim Cang Bộ thì dùng loại Ngũ Cổ Chữ; khi gia trì thì dùng Tam Cổ Chử; khi hành đạo niệm tụng, tu pháp của Phật Bộ, Liên Hoa Bộ thì dùng Độc Cổ Chử; khi tu pháp Đại Uy Đức Minh Vương (大威德明王) thì dùng loại Cửu Cổ Chử. Ngũ Cổ Chử còn gọi là Ngũ Trí Kim Cang Chử (五智金剛杵), Ngũ Phong Kim Cang Chử (五峰金剛杵), Ngũ Phong Quang Minh (五峰光明), Ngũ Cổ Kim Cang (五股金剛); 5 thân hay 5 đỉnh nhọn của loại này tượng trưng cho Ngũ Trí Ngũ Phật (五智五佛). Hình tượng của Bồ Tát Vi Đà (s: Skanda, p: Khanda, 韋馱) thường có cầm trên tay cây Kim Cang Chử hay Bảo Chử để hàng phục ma quân, dẹp yên tà ma, bảo vệ chánh pháp. Cho nên, trong Thiền môn vẫn thường tụng bài xưng tán Bồ Tát Vi Đà rằng: “Vi Đà Thiên Tướng, Bồ Tát hóa thân, ủng hộ Phật pháp thệ hoằng thâm, Bảo Chử trấn ma quân, công đức nan luân, kỳ đảo phó quần tâm (韋馱天將、菩薩化身、擁護佛法誓弘深、寶杵鎮魔軍、功德難倫、祈禱副群心, Vi Đà Thiên Tướng, Bồ Tát hóa thân, ủng hộ Phật pháp thệ nguyện thâm, Chày Báu nhiếp ma quân, công đức khó lường, cầu nguyện khắp nhân tâm).” Trong Trùng Biên Chư Tôn Truyện (重編諸天傳, CBETA No. 1658) có câu: “Đế Thích Kim Cang Bảo Chữ, năng diệt A Tu La (帝釋金剛寶杵、能滅阿修羅, Chày Báu Kim Cang của Đế Thích có thể diệt trừ A Tu La).” Hay như trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, CBETA No. 1456) quyển 34 của Hám Sơn Đức Thanh (憨山德清, 1546-1623) có bài tán về Tứ Tý Quan Âm Đại Sĩ (四臂觀音大士) rằng: “Thông thân thủ nhãn, hà chỉ hữu tứ, ư vô tận trung, liêu nhĩ như thị, Bảo Chữ không ma, chơn kinh vô tự, tổng thị thần thông, bất tư nghì sự (通身手眼、何只有四、於無盡中、聊爾如是、寶杵空魔、眞經無字、總是神通、不思議事, khắp mình tay mắt, sao chỉ có bốn, trong vô tận ấy, vẫn cứ như vậy, Chày Báu dẹp ma, chơn kinh không chữ, thảy là thần thông, chuyện chẳng nghĩ bàn).”
(s, p: bodhi, 菩提): ý dịch là đạo (道, con đường, giáo lý), giác (覺, giác ngộ, sự tỉnh thức), trí (智, trí tuệ) và thông thường nó chỉ cho chánh giác, quả vị của chư Phật, và phân biệt thành 3 loại bồ đề là Thanh Văn Bồ Đề (聲聞菩提, tức A La Hán Bồ Đề), Bích Chi Bồ Đề (辟支菩提, tức Bích Chi Phật Bồ Đề) và Chánh Đẳng Bồ Đề (正等菩提, tức Phật Bồ Đề). Hai loại đầu chỉ đoạn phiền não chướng mà thôi, còn Phật Bồ Đề thì đoạn tận phiền não và sở tri, cho nên được gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề (無上正等菩提), Vô Thượng Chánh Đẳng Giác (無上正等覺), Vô Thượng Chánh Chơn Đạo (無上正眞道), A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (阿耨多羅三藐三菩提), Chánh Đẳng Bồ Đề (正等菩提), v.v. Trong Đại Thừa Phật Giáo thì chỉ đề cập đến Phật Bồ Đề mà thôi, còn hai loại kia rất ít khi thấy. Thiền Sư Huệ Trung (慧忠, 683-769), vị tổ thứ 6 của Ngưu Đầu Tông, có bài kệ an tâm rằng: “Nhân pháp song tịnh, thiện ác lưỡng vong, chơn tâm chơn thật, Bồ Đề đạo tràng (人法雙淨、善惡兩忘、眞心眞實、菩提道塲, người pháp vắng lặng, thiện ác đều quên, chơn tâm chân thật, Bồ Đề đạo tràng).”
(大力): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho sức mạnh của đại tự nhiên. Như trong bài Trường Ca Hành (長歌行) của Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường có câu: “Đại lực vận thiên địa (大力運天地, đại lực vận hành trời đất).” (2) Chỉ sức mạnh vô cùng to lớn. (3) Tôn xưng của đức Phật, chỉ cho đấng có sức mạnh tâm linh trí tuệ to lớn, có thể đoạn tận phiền não, vô minh. Như trong Phật Thuyết Đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp Kinh (佛說大乘菩薩藏正法經, Taishō Vol. 11, No. 316) quyển 26 có đoạn: “Ư kỳ chánh pháp bất nhạo thân cận, thiết kiến hữu nhân ư chư khế kinh, nhi sanh cung kính tôn trọng cúng dường, hữu đại lực năng chủng chủng xưng tán (於其正法不樂親近、設見有人於諸契經、而生恭敬尊重供養、有大力能種種稱讚, đối với chánh pháp của vị ấy không muốn gần gủi, như thấy có người đối với các khế kinh, mà sanh cung kính tôn trọng cúng dường, có năng lực lớn có thể xưng tán các loại).” Hay trong Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn (釋禪波羅蜜次第法門, Taishō Vol. 46, No. 1916) quyển 10 có câu: “Lợi căn Thanh Văn cụ thử lục pháp Phát Chân Vô Lậu, tức thành bất hoại pháp đại lực A La Hán (利根聲聞具此六法發眞無漏、卽成不壞法大力阿羅漢, Thanh Văn lợi căn có đủ sáu pháp Phát Chân Vô Lậu này, tức thành A La Hán có năng lực lớn không hoại pháp).”
(等覺): tên gọi khác của đức Phật, còn gọi là Đẳng Chánh Giác (等正覺), một trong 10 đức hiệu của Phật. Đẳng (等) nghĩa là bình đẳng; giác (覺) tức là giác ngộ; sự giác ngộ của chư Phật là bình đẳng, nhất như, nên được gọi là Đẳng Giác. Như trong Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 10 có cho biết rằng: “Chư Phật đẳng cố, danh vi Đẳng Giác (諸佛等故、名爲等覺, các đức Phật bình đẳng nên có tên là Đẳng Giác).” Hay như trong Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sanh Kệ Bà Tẩu Bàn Đầu Bồ Tát Tạo Tinh Chú (無量壽經優婆提舍願生偈婆藪槃頭菩薩造幷註, tức Tịnh Độ Luận Chú [淨土論註], Vãng Sanh Luận Chú [往生論註], Taishō Vol. 40, No. 1819) quyển Thượng cũng giải thích rằng: “Dĩ chư pháp đẳng cố, chư Như Lai đẳng, thị cố chư Phật Như Lai danh vi Đẳng Giác (以諸法等故、諸如來等、是故諸佛如來名爲等覺, vì các pháp bình đẳng, nên các Như Lai bình đẳng, vì vậy các đức Phật Như Lai có tên gọi là Đẳng Giác).” Trong 52 vị của giai vị Đại Thừa, vị Bồ Tát ở giai vị thứ 51 được gọi là Đẳng Giác, là địa vị tối cao của Bồ Tát. Nghĩa là khi đầy đủ ba kỳ trăm kiếp tu hành, Bồ Tát của Biệt Giáo thì đoạn tận 11 phẩm vô minh, Bồ Tát của Viên Giáo thì đoạn tận 41 phẩm vô minh, sẽ chứng đắc Phật quả Diệu Giác; công đức trí tuệ của vị ấy ngang hàng với Diệu Giác; nên được có tên là Đẳng Giác, hay gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ (一生補處, ý chỉ một kiếp kế tiếp sẽ thành Phật), Kim Cang Tâm (金剛心, tâm kiên cố như kim cương, có thể phá tan phiền não), Hữu Thượng Sĩ (有上士, đức Phật Diệu Giác thì được gọi là Vô Thượng Sĩ, bậc Đẳng Giác thì có tên như vậy), Vô Cấu Địa (無垢地, đạt đến cảnh giới không cấu nhiễm), v.v. Như trong Tứ Giáo Nghi (四敎儀, Taishō Vol. 46, No. 1929) quyển 10 có đoạn rằng: “Nhược vọng Pháp Vân danh chi vi Phật, vọng Diệu Giác danh Kim Cang Tâm Bồ Tát, diệc danh Vô Cấu Địa Bồ Tát (若望法雲名之爲佛、望妙覺名金剛心菩薩、亦名無垢地菩薩, nếu hướng về quả vị Pháp Vân Địa thì gọi đó là Phật, hướng về Diệu Giác thì gọi là Bồ Tát Kim Cang Tâm, cũng có tên là Bồ Tát Vô Cấu Địa).” Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀, Taishō Vol. 46, No. 1911) quyển 1 khẳng định rằng: “Cứu cánh tức Bồ Đề giả, Đẳng Giác nhất chuyển nhập ư Diệu Giác (究竟卽菩提者、等覺一轉入於妙覺, cứu cánh tức Bồ Đề nghĩa là Đẳng Giác một lần chuyển nhập vào Diệu Giác).”
(臥蓐, 臥褥): nằm trên đệm cỏ, chiếu rơm. Tương truyền ngày xưa, người phụ nữ khi sinh con thường nằm trên chiếc đệm bằng cỏ, hay chiếu rơm. Cho nên “ngọa nhục chi thần” (臥蓐之辰) có nghĩa là lúc chuyển bụng sinh con. Trong Hậu Hán Thư (後漢書) quyển 64 có đoạn: “Triệu Kì tự Bân Khanh, Kinh Triệu Trường Lăng nhân dã …, niên tam thập dư, hữu trọng tật, ngọa nhục thất niên (趙岐字邠卿、京兆長陵人也…年三十餘、有重疾、臥蓐七年, Triệu Kì tự là Bân Khanh, người vùng Trường Lăng, Kinh Triệu …, năm lên hơn ba mươi tuổi, có bệnh nặng, nằm đệm cỏ bảy năm).” Hay trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, CBETA No. 1252) quyển 2, phần Bảo Thai (保胎), có câu: “Thiết niệm: Mỗ dựng thê Tần phiền tiện chất, bồ liễu vi xu, tương lâm ngọa nhục chi kỳ (切念、某孕妻蘩蘋賤質、蒲柳微軀、將臨臥蓐之期, Nép nghĩ: vợ mang thai … yếu mềm hèn mọn, thân mảnh bồ liễu, sắp đến kỳ chuyển bụng sinh con).”
(s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃): âm dịch là Nê Hoàn (泥洹), Niết Bàn Na (涅槃那), Niết Lệ Bàn Na (涅隷槃那); ý dịch là Diệt (滅), Diệt Độ (滅度), Tịch (寂), Tịch Diệt (寂滅). Theo nguyên ngữ tiếng Sanskrit nirvāṇa, nó có nghĩa là thổi tiêu đi, cho nên nó nói lên trạng thái thổi tiêu tan lửa phiền não của Ba Độc tham sân si. Về định nghĩa của từ này, trong các Kinh A Hàm (p: Āgama, 阿含) thì có câu định hình là diệt tận tham dục, sân nhuế và ngu si. Tỷ dụ như trong Kinh Tạp A Hàm 19 (雜阿含經) có đoạn rằng: "Vân hà vi Niết Bàn ? Xá Lợi Phất ngôn: Niết Bàn giả, tham dục vĩnh tận, sân nhuế vĩnh tận, ngu si vĩnh tận, nhất thiết chư phiền não vĩnh tận, thị danh Niết Bàn (云何爲涅槃、舍利弗言、涅槃者、 貪欲永盡、瞋恚永盡、愚癡永盡、一切諸煩惱永盡、是名涅槃, Thế nào gọi là Niết Bàn ? Xá Lợi Phất bảo rằng: Niết Bàn là hết sạch tham dục, hết sạch sân nhuế, hết sạch ngu si. Đó gọi là Niết Bàn)". Đến thời kỳ bộ phái Phật Giáo thì Niết Bàn được chia thành 2 loại là Hữu Dư Niết Bàn (有餘涅槃, hay Hữu Dư Y Niết Bàn) và Vô Dư Niết Bàn (無餘涅槃, hay Vô Dư Y Niết Bàn). Hữu Dư Niết Bàn là trạng thái mà người giác ngộ đã diệt tận phiền não nhưng nhục thân vẫn còn sống. Vô Dư Niết Bàn là trạng thái mà người giác ngộ đã diệt tận luôn nhục thân của mình sau khi chết. Từ quan niệm đó, sự qua đời của đức Phật được gọi là Niết Bàn hay nhập Niết Bàn, viên tịch, v.v.; cho nên kinh điển mà đức Phật thuyết trước khi nhập Niết Bàn thì được gọi là Niết Bàn Kinh (涅槃經) hay Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經). Trong Thành Duy Thức Luận 10 (成唯識論) lại chia Niết Bàn thành 4 loại là Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn (自性清淨涅槃), Hữu Dư Y Niết Bàn (有餘依涅 槃), Vô Dư Y Niết Bàn (無餘依涅槃) và Vô Trú Xứ Niết Bàn (無住處涅槃). Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn là chỉ về trạng thái mà tâm tánh của hết thảy chúng sanh xưa nay vốn thanh tịnh. Vô Trú Xứ Niết Bàn là cõi Niết Bàn lý tưởng của Đại Thừa, chỉ về trạng thái của chư Phật cũng như Bồ Tát chẳng trú vào sanh tử, cũng chẳng nương vào Niết Bàn, mà cho rằng sanh tử chính là Niết Bàn, với từ bi và trí tuệ đầy đủ, sống tùy duyên tự tại, nhậm vận vô tác. Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士, 1230-1291) của Việt Nam có câu: “Niết Bàn tâm tịch tịch, sanh tử hải trùng trùng, bất sinh hoàn bất diệt, vô thỉ diệc vô chung (涅槃心寂寂、生死海重重、不生還不滅、無始亦無終, Niết Bàn tâm vắng lặng, sanh tử biển trùng trùng, chẳng sanh lại chẳng diệt, không trước lại không sau).”
(s: daśa-bala, p: dasa-bala, 十力): hay Như Lai Thập Lực (如來十力), gồm:
(1) Xứ Phi Xứ Trí Lực (處非處智力, trí lực phân biệt rõ ràng đạo lý hay phi đạo lý, phải trái thiện ác),
(2) Nghiệp Dị Thục Trí Lực (業異熟智力, trí lực biết được nghiệp thiện ác và quả báo của nghiệp ấy),
(3) Tĩnh Lự Giải Thoát Đẳng Trì Đẳng Chí Trí Lực (静慮解脫等持等至智力, trí lực biết trọn vẹn Thiền Định của Tứ Tĩnh Lự hay Tứ Thiền, Tám Giải Thoát, các Tam Muội, Tám Đẳng Chí, v.v.),
(4) Căn Thượng Hạ Trí Lực (根上下智力, trí lực biết được căn cơ của chúng sanh trên dưới lợi hay độn),
(5) Chủng Chủng Thắng Giải Trí Lực (種種勝解智力, trí lực biết được ý hướng, dục vọng, v.v., của chúng sanh),
(6) Chủng Chủng Giới Trí Lực (種種界智力, trí lực biết được các tánh loại, giới địa của lớp lớp chúng sanh),
(7) Biến Thú Hành Trí Lực (遍趣行智力, trí lực biết được sự biến thiên của các con đường hạnh nghiệp),
(8) Túc Trú Tùy Niệm Trí Lực (宿住隨念智力, trí lực nhớ rõ cuộc sống xa xưa trong kiếp quá khứ),
(9) Tử Sanh Trí Lực (死生智力, trí lực sanh tử trong tương lai và con đường ác con đường thiện), và
(10) Lậu Tận Trí Lực (漏盡智力, trí lực biết rõ phương pháp để đoạn tận phiền não và trở thành bậc lậu tận).
(塵勞): tên gọi khác của phiền não (s: kleśa, p: kilesa, 煩惱); các phiền não như Tham, Sân, Si, v.v., làm nhơ nhớp chơn tánh, lầm cho thân tâm mệt mỏi, điên loạn; nên gọi là trần lao. Như trong Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (慈悲道塲懺法, Taishō Vol. 45, No. 1909) quyển 5, phần Giải Oán Thích Kết (解怨釋結) thứ 3, có đoạn: “Nhất niệm chi gian, khai bát vạn tứ thiên trần lao môn, huống phục nhất nhật, sở khởi chúng tội, nhất nguyệt nhất niên, chung thân lịch kiếp, sở khởi chúng tội (一念之間、開八萬四千塵勞門、況復一日、所起眾罪、一月一年、終身歷劫、所起眾罪, chỉ trong một niệm, mở tám vạn bốn ngàn cửa trần lao, huống trong một ngày, sanh khởi các tội, một tháng một năm, suốt đời muôn kiếp, sanh khởi các tội).” Hay trong Kỳ Viên Chánh Nghi (祇園正儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1233) cũng có đoạn: “Phù xuất gia giả, vi yếm trần lao, cầu thoát sanh tử, hưu tâm tức niệm, đoạn tuyệt phàn duyên, cố danh xuất gia (夫出家者、爲厭塵勞、求脫生死、休心息念、斷絕攀緣、故名出家, phàm xuất gia là, chán ghét trần lao, cầu thoát sanh tử, dừng tâm dứt niệm, chặt đứt các duyên, nên gọi xuất gia).” Hoặc trong Ngự Tuyển Ngữ Lục (御選語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1319) lại có đoạn: “Đương dụng đại trí tuệ đả phá Ngũ Uẩn phiền não trần lao, như thử tu hành, định thành Phật đạo (當用大智慧打破五蘊煩惱塵勞、如此修行、定成佛道, phải dùng trí tuệ lớn phá tan phiền não trần lao của Năm Uẩn, tu hành như vậy, quyết thành Phật đạo).”
(s: anupadhiśeṣa-nirvāṇa, p: anupādisesa-nibbāna, 無余依涅槃): hay còn gọi là Vô Dư Niết Bàn, đối lập với Hữu Dư Y Niết Bàn, nghĩa là chứng đạt cảnh giới Niết Bàn mà thân thể do Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊) hợp thành này cũng tận diệt, không còn chỗ sở y nào nữa. Nó cũng là một trong bốn loại Niết Bàn, gồm Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn, Hữu Dư Niết Bàn, Vô Dư Niết Bàn và Vô Trú Xứ Niết Bàn. Theo thuyết của Duy Thức thì khi đoạn tận phiền não chướng, thức thứ 8 sẽ chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí, diệt hết tất cả lậu hoặc thì gọi là Vô Dư Y Niết Bàn.
(無生): còn gọi là vô khởi (無起), có hai nghĩa. (1) Thật tướng của các pháp không có sanh diệt; đồng nghĩa với vô sanh diệt (無生滅) hoặc vô sanh vô diệt (無生無滅). Sự tồn tại của các pháp vốn không có thật thể, do nhân duyên mà thành, là không, nên có thể nói rằng không có sanh diệt. Tuy nhiên, hạng phàm phu mê lầm lý vô sanh này, nên khởi lên phiền não về sanh diệt, vì vậy bị lưu chuyển sanh tử. Nếu nương theo kinh luận, quán lý vô sanh thì có thể trừ được phiền não sanh diệt. (2) Là ý dịch của A La Hán (s: arhat, p: arahant, 阿羅漢) hay Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃). A La Hán có nghĩa là bất sanh (不生, không sanh), tức đoạn tận phiền não của Ba Cõi, không còn trở lại thọ sanh trong Ba Cõi này nữa. Lại nữa, người nương theo bản nguyện vãng sanh Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà, là khế hợp với bản nguyện của Ngài, nhân vô sanh này chính là lý của Niết Bàn; cho nên khác với cái gọi là sanh vọng tưởng hư huyễn trong nội tâm của kẻ phàm phu. Về điểm này, Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sanh Kệ Chú (無量壽經優婆提舍願生偈註, tức Vãng Sanh Luận Chú [往生論註], Taishō Vol. 40, No. 1819) quyển Hạ gọi là “vô sanh chi sanh (無生之生, sanh của vô sanh).” Từ quan điểm không sanh diệt của Niết Bàn mà nói, tức chỉ giác ngộ Niết Bàn, cũng tức là chứng đắc thân vô sanh; Cực Lạc là khế hợp với thế giới của Niết Bàn; và từ nghĩa này, có tên gọi là vô sanh giới (無生界, cõi vô sanh). Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh (大方廣圓覺修多羅了義經, Taishō Vol. 17, No. 842) quyển 1 dạy rằng: “Nhất thiết chúng sanh ư vô sanh trung, vọng kiến sanh diệt, thị cố thuyết danh luân chuyển sanh tử (一切眾生於無生中、妄見生滅、是故說名轉輪生死, hết thảy chúng sanh trong vô sanh, lầm thấy sanh diệt, cho nên gọi là luân chuyển sanh tử).” Trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經, Taishō Vol. 16, No. 665) quyển 1 còn khẳng định thêm rằng: “Vô sanh thị thật, sanh thị hư vọng, ngu si chi nhân, phiêu nịch sanh tử, Như Lai thật thể, vô hữu hư vọng, danh vi Niết Bàn (無生是實、生是虛妄、愚痴之人、漂溺生死、如來體實、無有虛妄、名爲涅槃, vô sanh là thật, sanh là giả dối, người mà ngu si, trôi lăn sanh tử, thật thể Như Lai, không có giả dối, gọi là Niết Bàn).” Hay trong Phật Thuyết Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh (佛說仁王般若波羅蜜經, Taishō Vol. 8, No. 245) quyển Thượng cũng cho biết rằng: “Nhất thiết pháp tánh chân thật không, bất lai bất khứ, vô sanh vô diệt, đồng chơn tế, đẳng pháp tánh (一切法性眞實空、不來不去、無生無滅、同眞際、等法性, tất cả pháp tánh chân thật không, chẳng đến chẳng đi, không sanh không diệt, đồng với chơn tế, ngang với pháp tánh).” Trong bài kệ thị tịch Thiền sư Quảng Nghiêm (廣嚴, 1121-1190) thuộc thế hệ thứ 11 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông Việt Nam có câu rằng: “Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ, sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh (離寂方言寂滅去、生無生後說無生, lìa diệt mới cho tịch diệt hết, đạt vô sanh rồi nói vô sanh).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập