Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Tụ »»

(寶樹): cây báu. Từ này thường thấy xuất hiện trong kinh điển Phật Giáo. Người ta dùng bày loại trân báu để tạo thành hình dáng cây; tỷ dụ như vàng vòng (黃金) làm gốc cây, Bạch Ngân (白銀) làm thân cây, Lưu Ly (琉璃) làm cành cây, Thủy Tinh (水晶) làm ngọn cây, Hổ Phách (琥珀) làm lá cây, Mỹ Ngọc (美玉) làm hoa và Mã Não (瑪瑙) làm trái cây. Trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō No. 360) có đoạn rằng: “Thiết ngã đắc Phật, quốc trung Bồ Tát, tùy ý dục kiến thập phương vô lượng nghiêm tịnh Phật độ, ứng thời như nguyện, ư bảo thọ trung, giai tất chiếu kiến, do như minh kính, đỗ kỳ diện tượng (設我得佛、國中菩薩、隨意欲見十方無量嚴淨佛土、應時如願、於寶樹中、皆悉照見、猶如明鏡、睹其面像, nếu như ta thành Phật, các Bồ Tát trong nước, tùy ý muốn thấy mười phương vô lượng Phật độ nghiêm tịnh, tùy thời được như nguyện; trong hàng cây báu, tất đều chiếu thấy, giống như gương sáng, thấy rõ hình mặt).” Hay như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật Kinh (佛說觀無量壽佛經, Taishō No. 365) cũng có đoạn: “Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: 'Địa tưởng thành dĩ, thứ quán bảo thọ; quán bảo thọ giả, nhất nhất quán chi, tác thất trùng hàng thọ tưởng, nhất nhất thọ cao bát thiên do tuần, kỳ chư bảo thọ, thất bảo hoa diệp, vô bất cụ tục (佛告阿難及韋提希:地想成已、次觀寶樹、觀寶樹者、一一觀之、作七重行樹想、一一樹高八千由旬、其諸寶樹、七寶華葉、無不具足, Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hy rằng: 'Quán tưởng về đất xong rồi, kế đến quán cây báu; quán cây báu thì quán từng cây một, tưởng tượng bảy hàng lớp cây, mỗi một cây cao tám ngàn do tuần; các cây báu ấy, hoa và lá bằng bảy thứ báu, không cây nào không đầy đủ').” Ngoài ra, trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 64 lại có đoạn: “Trượng tích Tây lai bái Pháp Vương, nguyện cầu diệu điển viễn truyền dương, kim chi tam tú thi đàn thoại, bảo thọ thiên hoa liên nhụy hương, bách xích cán đầu tu tấn bộ, thập phương thế giới lập hành tàng, tu thành ngọc tượng trang nghiêm thể, Cực Lạc môn tiền thị đạo trường (杖錫西來拜法王、願求妙典遠傳揚、金芝三秀诗坛瑞,宝树千花莲蕊香。金芝三秀詩壇瑞、寶樹千花蓮蕊香、百尺竿头须进步,十方世界立行藏。百尺竿頭須進步、十方世界立行藏、修成玉象庄严体,极乐门前是道场。修成玉象莊嚴體、極樂門前是道塲, quảy trượng qua Tây lễ Pháp Vương, nguyện mong kinh điển khắp truyền dương, cành vàng tam tú thơ đàn lạ, cây báu ngàn hoa sen nhụy hương, trăm bộ đầu sào nên bước tiếp, mười phương thế giới vững trụ thường, tu thành voi ngọc trang nghiêm dáng, Cực Lạc cửa này chính đạo trường).” Câu “thường du bảo thọ chi giai (常遊寳樹之堦)” có nghĩa là thường rong chơi nơi thềm ngọc có hàng cây báu, tức chỉ cho thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật Di Đà.
(洞庭): tức Động Đình Hồ (洞庭湖), tên gọi hồ lớn ở miền Bắc Tỉnh Hồ Nam (湖南省), bờ Nam Trường Giang (長江), diện tích 2, 820 km2, được xem như là hồ nước lớn thứ 2 Trung Quốc với tên là Bát Bách Lí Động Đình (八百里洞庭, Động Đình Tám Trăm Dặm). Cả 4 dòng sông Tương (湘), Tư (資), Nguyên (沅) và Lễ (澧) cùng đỗ vào hồ này; tại Huyện Nhạc Dương (岳陽縣), hồ nhập vào Trường Giang. Trong hồ có khá nhiều núi nhỏ, trong đó nổi tiếng nhất là Quân Sơn (君山). Bên bờ hồ có các cổ tích, thắng cảnh như Lầu Nhạc Dương (岳陽樓), v.v. Trong Bát Nghĩa Ký (八義記), phần Sơn Thần Điểm Hóa (山神點化) có câu: “Tam túy Nhạc Dương Nhân bất thức, lãng ngâm phi quá Động Đình Hồ (三醉岳陽人不識、朗吟飛過洞庭湖, say túy Lầu Nhạc Dương người chẳng biết, ngâm nga qua khỏi Hồ Động Đình).” Hay trong Tương Phi Miếu Ký Lược (湘妃廟記略) có giải thích rõ rằng: “Động Đình cái thần tiên động phủ chi nhất dã, dĩ kỳ vi Động Đình chi đình, cố viết Động Đình; toại chỉ Động Đình chi sơn dĩ danh hồ viết Động Đình Hồ (洞庭蓋神仙洞府之一也、以其爲洞庭之庭、故曰洞庭、遂指洞庭之山以名湖曰洞庭湖, Động Đình là một trong các động phủ của thần tiên, do vì nó là cái đình của Động Đình, nên gọi là Động Đình; lại chỉ cho việc lấy tên núi Động Đình đặt cho hồ là Hồ Động Đình).” Trong Sở Từ (楚辭), Cửu Ca (九歌), phần Tương Phu Nhân (湘夫人) có câu: “Niễu niễu hề thu phong, Động Đình ba hề mộc diệp hạ (嫋嫋兮秋風、洞庭波兮木葉下, yểu điệu chừ gió thu, sóng Động Đình chừ dưới lá cây).”
(童齔): có hai nghĩa:
(1) Tuổi ấu thơ, đồng niên. Như trong Cựu Đường Thư (舊唐書), Truyện Bùi Hưu (裴休傳) có câu: “Hưu chí thao kiên chánh, đồng sấn thời, huynh đệ đồng học ư Tế Nguyên biệt thự (休志操堅正、童齔時、兄弟同學於濟源別墅, Hưu chí vững kiên trì, lúc tuổi nhỏ, anh em cùng học nơi biệt thự của Tế Nguyên).” Hay như trong Quách Tân Giai Truyện (郭新楷傳) của Vương Khải Vận (王闓運, 1833-1916) cũng có câu: “Đồng sấn dĩnh dị, sổ tuế tang phụ, cô cư Trường Sa (童齔穎異、數歲喪父、孤居長沙, lúc nhỏ khác thường, mấy năm sau để tang cha, sống một mình nơi Trường Sa).”
(2) Chỉ cho tiểu nhi, đứa con nít. Như trong Bắc Sử (北史), Truyện Hàn Kỳ Lân (韓麒麟傳) có đoạn rằng: “Giả lịnh nhất xứ đàn tranh, xuy địch, hoãn vũ trường ca, nhất xứ nghiêm sư khổ huấn, tụng thi giảng lễ, tuyên lịnh đồng sấn, nhậm ý sở tùng (假令一處彈箏、吹笛、緩舞長歌、一處嚴師苦訓、誦詩講禮、宣令童齔、任意所從, giả ra lịnh cho một nơi chơi đàn tranh, thổi sáo, nhảy múa, ca hát; một nơi khác thì có thầy nghiêm khắc, dạy khó khăn, đọc thơ giảng lễ nghi, rồi ra lịnh bảo trẻ nít, tùy ý theo nơi nào).” Hơn nữa, Thuyết Văn (說文) có giải thích rõ rằng: “Nam bát nguyệt sanh xỉ, bát tuế nhi sấn; nữ thất nguyệt sanh xỉ, thất tuế nhi sấn (男八月生齒、八歲而齔、女七月生齒、七歲而齔, nam tám tháng mọc răng, tám tuổi mọc răng già; nữ bảy tháng mọc răng, bảy tuổi mọc răng già).” Cho nên trẻ em 7, 8 tuổi còn được gọi là Đồng Sấn (童齔). Trẻ lên 9 tuổi là Cửu Linh (九齡). Trong Chu Thư (周書), quyển 12, Liệt Truyện (列傳) thứ 4, phần Tề Dương Vương Hiến (齊煬王憲) có đoạn rằng: “Tề Dương Vương Hiến tự Tỳ Hạ Đột, Thái Tổ đệ ngũ tử dã; tánh thông mẫn, hữu độ lượng, tuy tại đồng sấn, nhi thần thái ngực nhiên (齊煬王憲字毗賀突、太祖第五子也、性通敏、有度量、雖在童齔、而神彩嶷然, Tề Dương Vương Hiến tự là Tỳ Hạ Đột, con thứ năm của Thái Tổ [tại vị 479-482]; tánh thông mẫn, có độ lượng, tuy đang còn nhỏ tuổi mà thần thái khác người).” Trong Ma Ha A Di Đà Kinh Trung Luận (摩訶阿彌陀經衷論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 401) có câu rằng: “Dư đồng sấn thời, nhật tùng tiên tỉ chú hương đảnh lễ, cập thập tuế quá hương đôn, văn kỳ sư phương thọ chư đệ Mạnh Tử thư (余童齔時、日從先妣炷香頂禮、及十歲過鄉墩、聞其師方授諸弟孟子書, lúc ta tuổi còn bé, hằng ngày theo mẹ đã quá vãng thắp hương đảnh lễ, đến mười tuổi khi đi qua ụ đất của làng, nghe vị thầy ấy dạy cho học trò sách Mạnh Tử).” Hoặc như trong Khai Nguyên Thích Giáo Lục (開元釋敎錄, Taishō Vol. 55, No. 2154) quyển 3, truyện của Phật Đà Bạt Đà La (s: Buddhabhadra, 佛陀跋陀羅) cũng có câu: “Kỳ đồng sấn xuất gia, dĩ thông giải kinh luận, thiếu thọ nghiệp ư Đại Thiền Sư Phật Đại Tiên (其童齔出家、已通解經論、少受業於大禪師佛大先, Ngài xuất gia lúc bé, đã thông hiểu kinh luận, lớn lên thọ giáo với Đại Thiền Sư Phật Đại Tiên).”
(戒法): chỉ chung cho luật pháp do đức Phật chế ra, cũng là quỹ phạm của chúng sanh. Phàm 5 giới, 8 giới, 10 giới, Cụ Túc Giới (具足戒), Tam Tụ Tịnh Giới (三聚淨戒), 10 giới trọng, 48 giới khinh, v.v., được gọi là giới pháp; sau đó chỉ chung cho giới luật. Giới là căn bản của Thánh đạo, nhờ nương vào giới này, sanh Thiền định và trí tuệ diệt khổ; được miễn khỏi bị chìm đắm trong biển sanh tử luân hồi, nên được gọi là một trong những con đường tắt dẫn đến giải thoát. Trong tác phẩm Sự Vật Kỷ Nguyên (事物紀原), chương Đạo Thích Khoa Giáo (道釋科敎), Giới Đàn (戒壇), của Cao Thừa (高承, ?-?) nhà Tống, cho biết rằng: “Hán Ngụy chi tăng, tuy thế nhiễm nhi giới pháp vị bị, duy thọ Tam Quy (漢魏之僧、雖剃染而戒法未僃、唯受三歸, tăng sĩ thời nhà Hán và Ngụy, tuy xuất gia mà giới pháp chưa đủ, chỉ thọ Tam Quy thôi).” Hay trong Lược Thọ Tam Quy Ngũ Bát Giới Tinh Bồ Tát Giới (略授三歸五八戒幷菩薩戒, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1087) cũng khẳng định rằng: “Phù giới pháp giả, nãi thị thành Phật chi nguyên, chứng Thánh chi bản (夫戒法者、乃是成佛之源、證聖之本, phàm giới pháp chính là nguồn để thành Phật, là gốc để chứng Thánh).” Hoặc trong Ngũ Dăng Hội Nguyên (五燈會元, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1565) quyển 1, phần Thập Tam Tổ Ca Tỳ La Tôn Giả (十三祖迦毗摩羅尊者), lại có đoạn: “Khởi sân hận tưởng, mạng chung đọa vi mãng thân, trú thị quật trung, kim dĩ thiên tải, thích ngộ tôn giả, hoạch văn giới pháp, cố lai tạ nhĩ (起嗔恨想、命終墮爲蟒身、住是窟中、今已千載、適遇尊者、獲聞戒法、故來謝爾, do khởi tưởng sân hận, khi mạng hết đọa làm thân con trăn, sống trong động này, nay đã ngàn năm, may gặp tôn giả, được nghe giới pháp, nên đến tạ người).”
(和風, わふう, wafū): có hai nghĩa. (1) Kiểu Nhật, phong cách Nhật; đồng nghĩa với Hòa dạng (和様, わよう, wayō), Hòa thức (和式, わしき, washiki). (2) Gió ôn hòa, phần nhiều chỉ gió xuân. Như trong bài thơ Thượng Tị Nhật Từ Ty Lục Lâm Viên Yến Tập (上巳日徐司錄林園宴集) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường có câu: “Bạc y lâm tích thủy, xuy diện thọ hòa phong (薄衣臨積水、吹面受和風, áo mỏng bên sông nước, xáp mặt đón gió xuân).” Hay trong bài Xuân Vũ Tam Tuyệt Cú (春雨三絕句) của Lưu Cơ (劉基, 1311-1375) nhà Minh cũng có câu: “Xuân vũ hòa phong tế tế lai, viên lâm thủ thứ phát khô cai (春雨和風細細來、園林取次發枯荄, gió ấm mưa xuân nho nhỏ đến, vườn rừng lần lượt phát rễ khô).”
(律宗, Ris-shū): học phái chuyên nhấn mạnh về sự tu tập và nghiên cứu giới luật, do Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường thành lập nên ở Trung Hoa, lấy việc thọ trì Tứ Phần Luật (四分律) cũng như Tam Tụ Tịnh Giới (三聚淨戒) của Bồ Tát làm yếu nhân để thành Phật. Giới luật do đức Phật chế ra được thâu tập thành Luật Tạng; nhưng khi giáo đoàn phân liệt thì giới luật được truyền thừa khác nhau theo 20 bộ phái. Tại Trung Hoa, 4 bộ luật gồm Thập Tụng Luật (十頌律), Tứ Phần Luật (四分律), Tăng Kỳ Luật (僧祇律) và Ngũ Phần Luật (五分律) được lưu truyền. Trong đó, chỉ có Tứ Phần Luật là được phổ biến nhất, từ đó phân phái thành Tướng Bộ Tông (相部宗) của pháp Lệ (法礪, 560-635), Nam Sơn Tông (南山宗) của Đạo Tuyên (道宣, 596-667), Đông Tháp Tông (東塔宗) của Hoài Tố (懷素, 624-697). Học phái này cũng được truyền sang Nhật, và trở thành một trong 6 tông phái lớn vùng Nam Đô. Vào năm 754 (năm thứ 6 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳]), Giám Chơn (鑑眞, Ganjin)—cao đệ của Hằng Cảnh (恒景, Kōkei), đệ tử của Đạo Tuyên, đã từ Trung Quốc sang và truyền thừa tông này vào Nhật. Sau đó, ông thành lập 3 giới đàn tại Đông Tự (東寺, Tō-ji), Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji), Quan Thế Âm Tự (觀世音寺, Kanzeon-ji) và khai sáng Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺, Tōshōdai-ji) làm đạo tràng căn bản để nghiên cứu về giới luật cũng như làm ngôi chùa trung tâm chính cho tông phái này. Về sau, tông phái này trãi qua một thời suy vong, nhưng rồi được phục hưng lại nhờ nhóm Thật Phạm (實範, Jitsuhan), Giác Thạnh (覺盛, Kakujō) và Duệ Tôn (叡尊, Eison). Hơn nữa, nhóm Tuấn Nhưng (俊芿, Shunjō), Đàm Chiếu (曇照, Donshō) sang nhà Đường cầu pháp, rồi truyền giới luật vào Nhật và xác lập nên Bắc Kinh Luật (北京律) ở trung tâm Tuyền Dũng Tự (泉涌寺, Senjū-ji), đối lập với Nam Kinh Luật (南京律) của Giác Thạnh. Hiện tại, bên cạnh ngôi chùa Tổng Bản Sơn của Luật Tông là Đường Chiêu Đề Tự, còn có sự hiện hữu của giáo đoàn Chơn Ngôn Luật Tông (眞言律宗), lấy Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji) làm Tổng Bản Sơn.
(五篇): 5 thiên giới luật; còn gọi là Ngũ Phạm (五犯), Ngũ Phạm Tụ (五犯聚), Ngũ Chúng Tội (五眾罪), Ngũ Chủng Chế (五種制); tức Ba La Di (s: pārājika, 波羅夷), Tăng Tàn (s: saṃghāvaśeṣa, 僧殘), Ba Dật Đề (s: pāyattika, 波逸提), Ba La Đề Đề Xá Ni (s: pratideśanīya, 波羅提提舍尼), Đột Cát La (s: duṣkṛta, 突吉羅); tổng quát 250 giới của Tỳ Kheo và 348 giới của Tỳ Kheo Ni. (1) Ba La Di, ý dịch là đoạn đầu (斷頭), là tội nặng nhất trong giới luật; người phạm tội giống như bị đứt đầu, vĩnh viễn bị đuổi ra khỏi tăng đoàn, tức 4 tội Ba La Di của Tỳ Kheo, và 8 tội Ba La Di của Tỳ Kheo Ni. (2) Tăng Tàn là tội nặng sau Ba La Di; người phạm tội giống như bị người làm cho tàn hại, chỉ còn lại cổ họng mà thôi; người phạm tội phải nhờ tăng chúng vì người ấy mà tiến hành pháp sám hối để hóa giải tội lỗi. Đó là 13 tội Tăng Tàn của Tỳ Kheo, 17 tội Tăng Tàn của Tỳ Kheo Ni. (3) Ba Dật Đề, ý dịch là đọa; nghĩa là người phạm tội này thì sẽ bị đọa vào Địa Ngục Nóng Lạnh; tức là 30 tội Xả Đọa (捨墮) và 90 tội Đơn Đọa (單墮) của Tỳ Kheo, 30 tội Xả Đọa và 178 tội Đơn Đọa của Tỳ Kheo Ni. (4) La Đề Đề Xá Ni, ý dịch là tác hướng bỉ hối (作向彼悔), nghĩa là người phạm tội này thì nên hướng vị Tỳ Kheo khác mà chí thành sám hối thì sẽ được hóa giải tội lỗi; tức là 4 tội Đề Xá Ni của Tỳ Kheo, 8 tội Đề Xá Ni của Tỳ Kheo Ni. (5) Đột Cát La, ý dịch là ác tác (惡作), nghĩa là những sai phạm do hai nghiệp thân và miệng tạo ra. Giới này khó giữ mà dễ phạm, nên thường phải thận trọng, ghi nhớ; tức là 2 pháp Bất Định, 100 Chúng Học, 7 tội Diệt Tránh của Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni. Năm Thiên này cọng thêm tội Thâu Lan Giá (s: sthūlātyaya, 偷蘭遮), gọi là Lục Tụ (六聚). Như trong Sa Di Luật Nghi Yếu Lược Thuật Nghĩa (沙彌律儀要略述義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1119) có đoạn: “Sa Di thập chi giới tướng, thị Ngũ Thiên Tam Tụ chi cơ, nhị thập tứ môn uy nghi (沙彌十支戒相、是五篇三聚之基、二十四門威儀, mười chi giới tướng của Sa Di là cơ sở của năm thiên ba tụ, là hai mươi bốn cửa oai nghi).” Hay trong Tăng Yết Ma (僧羯磨, Taishō Vol. 40, No. 1809) lại có đoạn: “Thử Yết Ma giả, tắc thiệu long chi chánh thuật, khuông hộ chi hoằng quy, tông tự quy ư Ngũ Thiên, lạm tràng khởi ư Tứ Phần (此羯磨者、則紹隆之正術、匡護之宏規、宗緒歸於五篇、濫觴起於四分, pháp Yết Ma này, là phương thuật để phát triển, là quy tắc để hộ trì, nối dõi quy về năm thiên, đầu nguồn phát xuất nơi Tứ Phần).”
(s: dharma-rāja, 法王): vua pháp, tôn xưng thường dùng để chỉ cho chư Phật. Vương có nghĩa tối thắng, tự tại; đức Phật là chủ tể của Pháp, có thể giáo hóa chúng sanh một cách tự tại, nên được gọi là Pháp Vương. Như trong Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經, Taishō No. 12) quyển Hạ có câu: “Phật vi Pháp Vương, tôn siêu chúng Thánh, phổ vi nhất thiết thiên nhân chi sư (佛爲法王、尊超眾聖、普爲一切天人之師, Phật là Pháp Vương, được tôn kính hơn các bậc Thánh, là vị thầy của khắp hết thảy trời người).” Hay như trong Thích Ca Phương Chí (釋迦方誌, Taishō No. 51) có giải thích rằng: “Phàm nhân cực vị, danh viết Luân Vương; Thánh nhân cực vị, danh viết Pháp Vương (凡人極位、名曰輪王、聖人極位、名曰法王, ngôi vị cao nhất của người phàm gọi là Luân Vương, ngôi vị cao nhất của bậc Thánh là Pháp Vương).” Trong bài xưng tán đức Phật có câu: “Pháp Vương vô thượng tôn, Tam Giới vô luân thất, thiên nhân chi đạo sư, Tứ Sanh chi từ phụ (法王無上尊、三界無倫匹、天人之導師、四生之慈父, đấng Pháp Vương vô thượng, Ba Cõi chẳng ai bằng, thầy dạy khắp trời người, cha lành chung Bốn Loại).” Hay như trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 64 lại có đoạn: “Trượng tích Tây lai bái Pháp Vương, nguyện cầu diệu điển viễn truyền dương, kim chi tam tú thi đàn thoại, bảo thọ thiên hoa liên nhụy hương, bách xích cán đầu tu tấn bộ, thập phương thế giới lập hành tàng, tu thành ngọc tượng trang nghiêm thể, Cực Lạc môn tiền thị đạo trường (杖錫西來拜法王、願求妙典遠傳揚、金芝三秀诗坛瑞,宝树千花莲蕊香。金芝三秀詩壇瑞、寶樹千花蓮蕊香、百尺竿头须进步,十方世界立行藏。百尺竿頭須進步、十方世界立行藏、修成玉象庄严体,极乐门前是道场。修成玉象莊嚴體、極樂門前是道塲, quảy trượng qua Tây lễ Pháp Vương, nguyện mong kinh điển khắp truyền dương, cành vàng tam tú thơ đàn lạ, cây báu ngàn hoa sen nhụy hương, trăm bộ đầu sào nên bước tiếp, mười phương thế giới vững trụ thường, tu thành voi ngọc trang nghiêm dáng, Cực Lạc cửa này chính đạo trường).”
(豐儀、丰儀): thể hiện phong độ uy nghi. Như trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1456) quyển 55, bài Đại Minh Lô Sơn Ngũ Nhũ Phong Pháp Vân Thiền Tự Tiền Trung Hưng Tào Khê Từ Pháp Hám Sơn Đại Sư Tháp Minh (大明廬山五乳峰法雲禪寺前中興曹溪嗣法憨山大師塔銘), có đoạn: “Phục như Tào Khê, đương niên chi thất thập hữu bát, lạp chi lục thập, thị vi Thiên Khải Quý Hợi, tiên ư huyền hồ giả nhất nhật nhi thị tịch yên, sư phong nghi từ mãn, thần tình ngưng định, vọng chi tợ A La Hán (復如曹溪、當年之七十有八、臘之六十、是為天啟癸亥、先於懸弧者一日而示寂焉、師丰儀慈滿、神情凝定、望之似阿羅漢, lại như Tào Khê, năm ấy là bảy mươi tám tuổi, Hạ Lạp sáu mươi, nhằm vào năm Quý Hợi [1623] niên hiệu Thiên Khải [đời vua Hy Tông nhà Minh], trước ngày nhà vua sanh con trai thì thị tịch vậy; sư có phong thái từ bi, thần tình định tĩnh, nhìn vào giống như A La Hán).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập