Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Nguyên »»

(s: ūrṇa, p: uṇṇa, 白毫): lông mày trắng, tức bạch hào tướng (s: ūrṇa-lakṣana, p: uṇṇa-lakkhaṇa, 白毫相, tướng lông mày trắng), một trong 32 tướng tốt của đức Phật; còn gọi là Hào Mi (毫眉), Hào Tướng (毫相), Bạch Mao Tướng (白毛相), Mi Gian Bạch Mao Tướng (眉間白毛相), Bạch Hào Trang Nghiêm Diện Tướng (白毫莊嚴面相), Bạch Hào Mao Quang Tướng (白毫毛光相), Mi Gian Hào Tướng (眉間毫相), v.v. Giữa hai hàng chân mày của đức Thế Tôn, có lông mày trắng nhỏ mịn, mềm mại như bông Đâu La (s, p: tūla, 兜羅), kéo ra rất dài (khi sơ sanh là 5 tấc, khi thành đạo là 1 trượng 5 tấc), khi thả lỏng ra thì uyển chuyển xoay về bên phải như trôn ốc. Lông mày trắng này có thể phóng ra ánh sáng, nên có tên gọi là bạch hào quang (白毫光). Chúng sanh nào gặp được ánh sáng này thì có thể tiêu trừ nghiệp chướng và thân tâm an lạc. Theo Vô Thượng Y Kinh (無上依經) quyển hạ có giải thích rằng khi đức Phật đang còn tu nhân hạnh Bồ Tát, mỗi khi thấy chúng sanh nào tu tập Tam Học Giới, Định, Tuệ, ngài thường xưng dương, tán thán; cho nên có được tướng tốt này. Hơn nữa, Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (觀佛三昧海經) quyển 1, 2, Phẩm Quán Tướng (觀相品) còn cho rằng bên cạnh vô lượng tướng tốt của đức Như Lai, tướng này được xem như là thù thắng nhất. Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經) có đề cập rằng lông mày trắng giữa hai hàng chân mày của đức Phật Vô Lượng Thọ giống như 5 ngọn núi Tu Di; người nào thấy được tướng này, thì tự nhiên thấy được toàn bộ tám vạn bốn ngàn tướng tốt. Trong bài kệ tán dương đức Phật A Di Đà có câu: “A Di Đà Phật thân kim sắc, tướng hảo quang minh vô đẳng luân, bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải (阿彌陀佛身金色、相好光明無等倫、白毫宛轉五須彌、紺目澄清四大海, Phật A Di Đà thân vàng sắc, tướng tốt chói sáng không sánh bằng, mày trắng uyển chuyển năm Tu Di, xanh mắt trong suốt bốn biển lớn).” Hay như trong Phổ Đà Lạc Già Tân Chí (普陀洛迦新志) quyển 1 có đoạn: “Đàn chỉ năng siêu, tiện Tây phương chi vô lượng, cầu Thế Tôn phóng bạch hào chi quang, trực thú an lạc (彈指能超、羨西方之無量、求世尊放白毫之光,直趣安乐。求世尊放白毫之光、直趣安樂, trong khoảng khảy móng tay có thể vượt qua, lòng ham thích Tây phương vô lượng, cầu mong Thế Tôn phóng ánh sáng nơi lông mày trắng, và trực tiếp đến cõi an lạc).” Ngoài ra, có thuật ngữ “bạch hào chi tứ (白毫之賜)” được dùng để chỉ các đồ vật thọ dụng của chư tăng. Ngay trong kinh điển của đạo giáo cũng có xuất hiện từ hào quang này, như trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經) có đoạn: “Ngọc Nữ bổng hương hoa, ngũ sắc tường vân nội, phóng xuất bạch hào quang, chiếu nhất thiết thiên hạ, hiển thân cứu chúng sanh (玉女捧香花、五色祥雲內、放出白毫光、照一切天下、顯身救眾生, Ngọc Nữ nâng hương hoa, trong mây lành năm sắc, phóng ra ánh bạch hào, chiếu hết thảy thiên hạ).”
(s: Dharmākara, 法藏): còn gọi là Pháp Tạng Tỳ Kheo (法藏比丘); âm dịch là Đàm Ma Ca (曇摩迦), Đàm Ma Ca Lưu (曇摩迦留); ý dịch là Pháp Bảo Xứ (法寶處), Pháp Xứ (法處), Pháp Tích (法積), Tác Pháp (作法); là pháp danh của đức Phật A Di Đà khi chưa thành Phật. Theo Vô Lượng Thọ Kinh, quyển Thượng, trong đời quá khứ xa xưa thời đức Thế Tự Tại Vương Phật (世自在王佛) trụ thế, có vị quốc vương, sau khi nghe Phật thuyết pháp, bèn phát tâm vô thượng, xả bỏ vương vị xuất gia, hiệu là Pháp Tạng. Vị này tài cao, minh triết, siêu bạt giữa đời, theo tu tập với Thế Tự Tại Vương Phật, phát 48 lời thệ nguyện để cứu độ chúng sanh và sau một thời gian tu hành lâu xa, ngài thành tựu bản nguyện của mình và được thành Phật. Vị Phật này chính là A Di Đà Phật. Như trong Lễ Niệm Di Đà Đạo Tràng Sám Pháp (禮念彌陀道塲懺法, CBETA No. 1467) quyển 7, phần Phát Nguyện Vãng Sanh (發願徃生) có đoạn rằng: “Thị cố phục ưng tu học Bồ Đề hạnh nguyện, như A Di Đà Phật tối sơ nhân trung, vi Pháp Tạng Tỳ Kheo, sở phát tứ thập bát nguyện; hựu như Phổ Hiền Văn Thù quảng đại hạnh nguyện, diệc như thập phương tam thế chư đại Bồ Tát sở hữu hạnh nguyện, ngã diệc như thị thứ đệ tu học (是故復應修學菩提行願、如阿彌陀佛最初因中、爲法藏比丘、所發四十八願、又如普賢文殊廣大行願、亦如十方三世諸大菩薩所有行願、我亦如是次第修學, vì vậy lại nên tu học hạnh nguyện Bồ Đề, như trong nhân vị đầu tiên của Phật A Di Đà, là Tỳ Kheo Pháp Tạng, đã phát bốn mươi tám nguyện, cũng như hạnh nguyện rộng lớn của Phổ Hiền, Văn Thù, cũng như hạnh nguyện vốn có của chư vị đại Bồ Tát trong mười phương ba đời, con cũng lần lượt tu học như vậy).”
(孤魂): những vong hồn cô quạnh, sống lây lất đây đó, không nơi nương tựa, không ai thờ tự. Trong Đạo Giáo cũng như Phật Giáo thường tiến hành nghi thức cúng cho các âm linh cô hồn để cho họ có thức ăn uống và nhờ nghe câu kinh, tiếng kệ mà được siêu độ, thoát khỏi cảnh khổ sống không nơi nương tựa như vậy. Theo Linh Bảo Lãnh Giáo Tế Độ Kim Thư (靈寶領敎濟度金書) của Đạo Giáo, nghi thức này được gọi là Ngọc Sơn Tịnh Cúng (玉山淨供), Cam Lồ Tịnh Cúng (甘露淨供), Tế Luyện (祭煉), hay tên gọi phổ biến nhất là Phóng Diệm Khẩu (放焰口). Trong Lịch Thế Chơn Tiên Thể Đạo Thông Giám (歷世眞仙體道通鑒) quyển 23 có dạy rằng: “Mỗi ư Tam Nguyên Bát Tiết, cát nhật lương tiêu, phổ triệu thập phương chư đại Địa Ngục, cùng hồn trệ phách, lai nghệ đàn tiền, câu thọ Tế Luyện, kỳ thừa phù lục, các toại siêu sanh (毎於三元八節、吉日良宵、普召十方諸大地獄、窮魂滞魄、來詣壇前、倶受祭煉、祇承符籙、各逐超生, Vào mỗi dịp Tam Nguyên, tám tiết, ngày tốt đêm lành, mời khắp mười phương các địa ngục lớn, hồn cùng đường, phách lang thang, đến tập trung trước đàn, đều thọ lễ Tế Luyện, mong thừa phù phép, thảy được siêu sanh).” Trong Phật Giáo, lễ nghi này cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống tâm linh của người Phật tử. Tùy theo nghi lễ tiến hành đơn giản hay long trọng, tên gọi có khác nhau như Cúng Cháo, Cúng Cô Hồn, Cúng Thí Thực, Chẩn Tế Cô Hồn, Phóng Diệm Khẩu, Thí Ngạ Quỷ, v.v. Trong bài Chúng Sanh Thập Loại Tế Văn (眾生十類祭文, Văn Tế Mười Loại Chúng Sanh) của Nguyễn Du (阮攸, 1765-1820) có đoạn rằng: “Trong trường dạ tối tăm trời đất, có khôn thiêng phảng phất u minh, thương thay thập loại chúng sinh, hồn đơn phách chiếc linh đinh quê người, hương lửa đã không nơi nương tựa, hồn mồ côi lần lữa đêm đen, còn chi ai khá ai hèn, còn chi mà nói kẻ hiền người ngu…”
(地官): tên gọi của 6 chức quan dưới thời nhà Chu, tương đương với chức Tư Đồ (司徒), chuyên giám sát những việc liên quan đến giáo dục, đất đai và nhân sự. Đây cũng là tên vị quan dưới âm ty địa ngục. Địa Quancòn là tên gọi của một trong 3 vị của Tam Quan Đại Đế (三官大帝), chính danh là Địa Quan Đại Đế (地官大帝), Trung Nguyên Nhị Phẩm Xá Tội Địa Quan (中元二品赦罪地官), Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Nhị Phẩm Thanh Hư Đại Đế (中元赦罪地官二品清虛大帝), lệ thuộc Thượng Thanh Cảnh (上清境), do khí của Nguyên Động Hỗn Linh (地官由元洞混靈) và tinh màu vàng hỗn hợp lại thành, tổng chủ quản Ngũ Đế (五帝), Ngũ Nhạc (五嶽), các thần tiên. Ông phụng sắc chỉ của Ngọc Hoàng Thượng Đế (玉皇上帝), quản chưởng việc tội ác của con người và đến ngày rằm tháng 7 thường hạ phàm, chỉnh đốn việc tội phước cũng như xá tội cho con người. Giống như Thiên Quan, Địa Quan cũng có vài truyền thuyết khác nhau. Có truyền thuyết cho rằng ông là vua Thuấn, do vì ông có công lao to lớn trong việc khai khẩn đất đai, người dân tưởng nhớ và tôn thờ ông như là vị thần. Vua Thuấn họ Diêu (姚), tên là Trọng Hoa (重華), con cháu đời thứ 8 của Hoàng Đế (黃帝); cha tên Cổ Tẩu (瞽叟), mẹ là Ác Đăng (握登), hạ sanh Thuấn ở vùng đất Diêu Hư (姚虛). Ông để tang mẹ lúc còn nhỏ, cha lại tái giá, sanh được một con tên là Tượng (象). Cậu bé này tánh tình ngạo mạn, thường cùng với mẹ ghẻ hành hạ Thuấn. Tuy nhiên, Thuấn bẩm tính nhân từ, lại rất hiếu thảo và có tài hoa hơn người, thường cày ruộng ở Lịch Sơn (歷山), bắt cá ở Lôi Trạch (雷澤), săn bắn ở Phụ Hạ (負夏), làm đồ gốm ở Hà Tân (河濱); cho nên, người dân dẫn cả gia đình dòng họ đi theo ông để học tập các kỷ năng thao tác. Chỉ trong 2 năm, ông đã hình thành nên thôn ấp, rồi 3 năm thì phát triển thành đô thị; từ đó, uy đức và tiếng tăm của ông vang xa. Vua Nghiêu bèn tuyển người hiền và nhường ngôi cho Thuấn. Sau khi vua Thuấn băng hà, Đạo Giáo tôn sùng ông như là vị thần, chuyên xá tội cho con người vào dịp Tiết Trung Nguyên. Do vì ông chí hiếu với song thân, cho nên Tiết Trung Nguyên còn được gọi là Hiếu Tử Tiết (孝子節). Lại có thuyết cho rằng dưới thời Chu U Vương (周幽王) có 3 vị quan liêm chính là Cát Ung (葛雍), Đường Hoằng (唐宏) và Chu Thật (周實). Cả ba đều từ quan, sống cuộc đời tự tại với thiên nhiên. Đến thời vua Chơn Tông nhà Tống, họ được phong làm Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan. Ngoài ra, có thuyết cho rằng Ngôn Vương Gia (言王爺) có 3 người con gái đều gả cho Trần Tử Thung (陳子摏) làm vợ; mỗi người hạ sanh được một trai, bẩm tánh khác người; nhân đó, Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho cả ba làm Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan, sắc mệnh chuyên cai quản Ba Cõi, được gọi là Tam Quan Đại Đế. Trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經), phần Địa Quan Bảo Cáo (地官寶誥) của Đạo Giáo có đoạn về Địa Quan rằng: “Chí tâm quy mạng lễ, Thanh Linh Động Dương, Bắc Đô Cung trung, bộ Tứ Thập Nhị Tào, giai cửu thiên vạn chúng, chủ quản Tam Giới Thập Phương Cửu Địa, chưởng ác Ngũ Nhạc Bát Cực Tứ Duy, thổ nạp âm dương, khiếu nam nữ thiện ác thanh hắc chi tịch, từ dục thiên địa, khảo chúng sanh lục tịch phước họa chi danh, pháp nguyên hạo đại, nhi năng ly Cửu U hạo kiếp, thùy quang nhi năng tiêu vạn tội, quần sanh phụ mẫu, tồn một triêm ân, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Trung Nguyên thất khí, xá tội Địa Quan, Động Linh Thanh Hư Đại Đế, Thanh Linh Đế Quân (志心皈命禮、青靈洞陽、北都宮中、部四十二曹、偕九千萬眾、主管三界十方九地、掌握五嶽八極四維、吐納陰陽、竅男女善惡青黑之籍、慈育天地、考眾生錄籍禍福之名、法源浩大、而能離九幽浩劫、垂光而能消萬罪、群生父母、存沒沾恩、大悲大願、大聖太慈、中元七氣、赦罪地官、洞靈清虛大帝、青靈帝君, Một lòng quy mạng lễ: Thanh Linh Động Dương, trong Bắc Đô Cung, cai quản 42 bộ quan, nhiếp chín ngàn vạn chúng, chủ quản Ba Cõi, Mười Phương, Chín Xứ, chấp chưởng Năm Núi, Tám Cực, Bốn Phương, nhổ thâu âm dương, xét hồ sơ thiện ác, trắng đen của nam nữ, từ bi nuôi dưỡng trời đất, kiểm tra từng tên họa phước của hồ sơ chúng sanh, pháp vốn lớn không cùng, mà có thể lìa kiếp nạn của chốn Cửu U, nương ánh sáng mà có thể tiêu vạn tội, bậc cha mẹ của quần sanh, người còn kẻ mất đều được thấm nhuần ơn, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, bảy khí Trung Nguyên, xá tội Địa Quan, Động Linh Thanh Hư Đại Đế, Thanh Linh Đế Quân).”
(元霄): lễ hội truyền thống rất quan trọng, vốn phát xuất từ Trung Quốc, được tiến hành vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch, sau dịp tiết xuân; còn gọi là Tiểu Chánh Nguyệt (小正月), Nguyên Tịch (元夕), Đăng Tiết (燈節), Thượng Nguyên Tiết (上元節). Như trong bài Song Đầu Mẫu Đơn Đăng Ký (雙頭牡丹燈記) của Cù Hựu (瞿佑, 1341-1427) người vùng Tiền Đường (錢塘, nay thuộc Hàng Châu [杭州], Triết Giang [浙江]) có câu: “Mỗi tuế Nguyên Tịch, ư Minh Châu trương đăng ngũ dạ, khuynh thành sĩ nữ, giai đắc túng quan (每歲元夕、於明州張燈五夜、傾城士女、皆得縱觀, mỗi năm vào dịp Nguyên Tịch, tại Minh Châu giăng đèn năm đêm, nam nữ khuynh thành đều được xem thoải mái).” Chánh nguyệt (正月, tháng Giêng) là tháng đầu tiên trong một năm, người xưa gọi là tiêu (霄); vì vậy, ngày rằm tháng Giêng được gọi là Nguyên Tiêu Tiết (元霄節, Tết Nguyên Tiêu). Đây cũng là ngày lễ hội tình nhân của người Trung Quốc. Nguồn gốc truyền thuyết về lễ hội này vốn có từ xa xưa. Có thuyết cho rằng nó được thiết lập từ thời Hán Văn Đế (漢文帝, tại vị 180-157 tcn). Tương truyền sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang (漢高祖劉邦, tại vị 202-195 tcn) qua đời, Lữ Hậu (呂后, 241-180 tcn) soán quyền, cả dòng tộc nhà họ Lữ lên năm quyền bính; sau khi ba qua đời, nhóm người Châu Bột (周勃), Trần Bình (陳平), v.v., dẹp trừ thế lực của Lữ Hậu, lập Lưu Hằng (劉恆) lên làm Hán Văn Đế. Nhân ngày bình định thế lực nhà họ Lữ và thống nhất quốc gia vào ngày rằm tháng Giêng, từ đó hằng năm vào ngày này, nhà vua thường mặc áo mỏng, ra ngoài cung nội cùng với dân chúng vui chơi thái bình, và cũng lấy ngày này làm Tết Nguyên Tiêu. Dưới thời Hán Võ Đế, hoạt động tế tự Thái Nhất Thần (太一神, các vị thần chủ tể của vũ trụ) cũng được quy định đúng ngày rằm tháng Giêng; cho nên khi Tư Mã Thiên (司馬遷, 135-90 tcn) sáng kiến ra Thái Sơ Lịch (太初歷), xác định Tết Nguyên Tiêu là lễ hội vô cùng trọng đại đối với quốc gia và dân tộc. Về truyền thống thắp đèn vào dịp Nguyên Tiêu này, nguồn gốc của nó phát xuất từ thuyết Tam Nguyên (三元) của Đạo Giáo: rằm tháng Giêng là Thượng Nguyên Tiết, rằm tháng 7 là Trung Nguyên Tiết (中元節) và rằm tháng 10 là Hạ Nguyên Tiết (下元節). Người chủ quản ba lễ hội này là 3 vị quan tên Thiên, Địa, Thủy. Thiên Quan (天官), thường được gọi là Thiên Quan Tứ Phước (天官賜福, Quan Trời Ban Phước), là người thường vui vẻ, hoan hỷ, nên vào dịp Thượng Nguyên, kỷ niệm sinh nhật của ông thì cần phải đốt đèn chúc mừng. Lại có thuyết cho rằng tục lệ giăng đèn vào dịp này vốn phát xuất từ thời đại của Minh Đế (明帝, tại vị 57-75) nhà Đông Hán. Nhà vua rất tin sùng Phật pháp, nghe rằng vào ngày rằm tháng Giêng, chúng tăng thường chiêm ngưỡng xá lợi Phật, thắp đèn cúng dường chư Phật, bèn ra lịnh cho thắp đèn cúng dường chư Phật suốt một ngày đêm tại Hoàng Cung cũng như các chùa chiền, miếu vũ và cho mọi người rước đèn đi khắp nơi. Từ đó, trở đi, nghi thức Phật Giáo này đã trở thành lễ hội truyền thống trọng đại của dân gian, phá triển từ trong cung đình ra đến ngoài dân chúng. Có thuyết khác cho rằng Lễ Thượng Nguyên là để kỷ niệm Đông Phương Sóc (東方朔, 154-93 tcn) và Nguyên Tiêu Cô Nương (元宵姑娘). Tương truyền Hán Võ Đế có một vị thần rất sủng ái tên Đông Phương Sóc, nhân vật rất hiền lương và phong lưu. Có hôm nọ vào dịp tiết đông, sau mấy ngày tuyết rơi nhiều, Đông Phương Sóc bèn đến Ngự Hoa Viên để ngắm hoa mai cùng với nhà vua, khi vừa đến cổng vườn hoa, chợt phát hiện có một người cung nữ đang khóc thảm thiết, chuẩn bị gieo mình xuống giếng tự sát. Ông hoang mang vội vàng chạy đến cứu và hỏi rõ nguyên nhân vì sao tự sát. Nguyên lai cung nữ ấy tên là Nguyên Tiêu (元宵), gia đình có song thân và một người em gái. Từ ngày vào cung nội đến nay, chưa có cơ duyên gặp người thân; cho nên cứ mỗi năm vào tháp chạp cho đến đầu xuân, thường nhớ đến gia đình, song thân, muốn báo hiếu cũng không thực hiện được; vì vậy quyết định tự sát cho xong. Nghe vậy, Đông Phương Sóc rất thông cảm cho hiếu tình cao cả của nàng cung nữ, bèn hứa sẽ tìm cách giúp nàng đoàn tụ cùng gia đình. Có hôm nọ, ông ra ngoài thành, thấy trên đường Trường An có một gian bói toán, nhiều người tranh nhau xem bói. Ai cũng bốc trúng quẻ “chánh nguyệt thập lục hỏa phần thân (正月十六火焚身, mười sáu tháng Giêng lửa thiêu thân).” Nhất thời, kinh đô Trường An sinh hỗn loạn vì quẻ bói xấu kia; mọi người đều tìm biện pháp giải quyết khỏi ách nạn ấy. Thấy vậy, Đông Phương Sóc bảo rằng: “Vào đêm 13 tháng Giêng, Thần Lửa có phái một vị Thần Nữ Áo Đỏ hạ phàm thẩm tra, vị ấy là người phụng chỉ đốt cháy Trường An. Ta sẽ thảo đôi dòng này đưa các ngươi tâu lên Thiên Tử, có thể giúp người tìm ra biện pháp.” Nói xong, ông viết lên một phong thiếp hồng, giao mọi người rồi quay về nhà. Dân chúng cầm thiếp hồng đến Hoàng Cung, tâu lên Hoàng Thượng. Hán Võ Đế xem qua, thấy có dòng chữ: “Trường An tại kiếp, hỏa phần đế khuyết, thập ngũ thiên hỏa, diệm hồng tiêu dạ (長安在劫、火焚帝闕、十五天火、焰紅宵夜, Trường An kiếp nạn, lửa thiêu cung vua, ngày rằm lửa bốc, đỏ rực đêm rằm).” Nhà vua kinh sợ, cho triệu Đông Phương Sóc đa mưu túc kế đến để tìm biện pháp giải quyết. Ông giả bộ thưa rằng: “Thần thường nghe rằng Thần Lửa rất thích bánh nếp tròn, trong cung nội có Nguyên Tiêu chẳng phải là người làm bánh nếp tròn ngon lắm sao ? Vào đêm rằm, bảo cung nữ đó làm bánh, Hoàng Thượng đích thân dâng hương cúng dường, truyền lệnh cho mỗi nhà trong kinh đô đều phải làm bánh nếp tròn để cùng nhau dâng cúng cho Thần Lửa. Rồi ra lịnh cho khắp thần dân đều cầm đèn vào đêm rằm, đốt pháo, phóng lửa khói, như thể cả thành đang bị đốt cháy. Ngoài ra, còn thông báo cho bá tánh ngoài thành, vào đêm rằm được vào thành ngắm đèn hoa; nhờ vậy mới có thể tiêu trừ tai họa và giải nạn được.” Hoàng Đế nghe xong rất cao hứng, lập tức truyền lệnh cho thực hiện phương pháp của Đông Phương Sóc. Vào đêm rằm tháng Giêng, khắp thành Trường An náo nhiệt, vui nhộn hơn bao giờ. Cả song thân và em gái Nguyên Tiêu cũng được vào thành xem hoa đăng, nhờ vậy cả gia đình nàng được đoàn tụ. Từ đó, tương truyền Hán Võ Đế hạ lịnh dâng cúng bánh nếp tròn nhân ngày rằm tháng Giêng hằng năm. Tục lệ này vẫn được lưu truyền mãi cho đến ngày hôm nay. Từ “thang viên (湯圓, bánh nếp tròn, bánh trôi nước)” có nghĩa là “tròn nóng”, có âm đọc cùng với từ “đoàn viên (團圓, đoàn tụ, sum họp)”, tức chỉ cho sự đoàn tụ, hòa hợp, hạnh phúc của gia đình; cũng là hình thức thể hiện sự tưởng nhớ đến thân nhân ở xa, mong ngày hội ngộ, và nói lên nguyện vọng muốn có cuộc sống an bình, đoàn tụ trong tương lai. Ngoài ra, cũng có thuyết cho rằng nguồn gốc của Tết Nguyên Tiêu là Tết Trạng Nguyên. Nhân dịp này, nhà vua triệu tập các Trạng Nguyên đến để thết đãi và mời vào vườn Thượng Uyển ngắm hoa, làm thi phú. Hoạt động của lễ hội này phát triển theo thời gian và diễn biến của lịch sử. Như dưới thời nhà Hán, Tết Nguyên Tiêu được tiến hành trong 1 ngày, đến thời nhà Đường thì kéo dài 3 ngày, nhà Tống là 5 ngày; sang đến nhà Minh thì vào ngày mồng 8, người ta đã bắt đầu thắp đèn cho đến ngày 17. Trong ngày Tết Nguyên Tiêu, ngoài ngắm đèn, ăn bánh trôi, còn có rất nhiều hoạt động vui chơi giải trí, tỷ dụ như đi cà kheo, múa ương ca, múa sư tử, v.v. Đối với Việt Nam, rằm tháng Giêng cũng là một ngày rất quan trọng đối với người dân. Họ thường đến chùa lễ Phật, dâng hương tụng kinh, sám hối, cầu an để nguyện cầu cho một năm mới được an bình, hanh thông, hạnh phúc, vạn sự cát tường như ý. Bên cạnh đó, cũng nhân ngày này, tín đồ Phật tử Việt Nam thường hành lễ dâng sao giải nạn hạnh ách của một năm. Cho nên dân gian Việt Nam vẫn có câu rằng: “Lễ Phật quanh năm, không bằng rằm tháng Giêng.” Lễ hội này đã lưu lại khá nhiều dấu ấn trong các văn chương, thi phú như trong Cựu Đường Thư (舊唐書), phần Trung Tông Kỷ (中宗紀) có đoạn: “Cảnh Long tứ niên Thượng Nguyên dạ, đế dữ Hoàng Hậu vi hành quán đăng (景龍四年上元夜、帝與皇后微行觀燈, vào đêm Thượng Nguyên năm Cảnh Long thứ 4 [710], nhà vua [Đường Trung Tông] cùng với Hoàng Hậu thân hành đi xem hoa đăng).” Hay trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 66 có kể rằng: “Thứ nhật, chánh thị chánh nguyệt thập ngũ nhật, Thượng Nguyên giai tiết, hảo sanh tình minh, hoàng hôn nguyệt thướng, lục nhai tam thị, các xứ phường ngung hạng mạch, điểm phóng hoa đăng (次日、正是正月十五日、上元佳節、好生晴明、黃昏月上、六街三市、各處坊隅巷陌、點放花燈, hôm sau, đúng vào ngày rằm tháng Giêng, tiết đẹp Thượng Nguyên, trời đất trong sáng, hoàng hôn trăng lên, sáu phố ba chợ, các nơi phố phường, hẽm ngách, đều thắp sáng thả hoa đăng).” Đặc biệt thi ca đã ca ngợi nhiều về lễ hội linh thiêng này. Tùy Dương Đế (隋煬帝, tại vị 604-618) có để lại bài Nguyên Tịch Ư Thông Cù Kiến Đăng Dạ Thăng Nam Lâu (元夕於通衢建燈夜升南樓, Ngày Nguyên Tiêu Lập Hoa Đăng Nơi Đường Lộ, Đêm Lên Lầu Nam) như sau: “Pháp luân thiên thượng chuyển, Phạm thanh thiên thượng lai, đăng thọ thiên quang chiếu, hoa diệm thất chi khai, nguyệt ảnh nghi lưu thủy, xuan phong hàm dạ lai, phần động hoàng kim địa, chung phát Lưu Ly đài (法輪天上轉、梵聲天上來、燈樹千光照、花焰七枝開、月影疑流水、春風含夜梅、燔動黃金地、鐘發琉璃台, xe pháp trên trời chuyển, tiếng Phạm vẳng trời bay, đèn cây ngàn ánh chiếu, hoa rực bảy nhánh khai, ánh trăng như nước chảy, gió xuân ngậm đêm mai, xoay động vàng ròng đất, chuông vọng Lưu Ly đài).” Thi sĩ Thôi Dịch (崔液, ?-713) nhà Đường có làm bài Thượng Nguyên Dạ (上元夜): “Ngọc lậu đồng hồ thả mạc tồi, thiết quan kim tỏa triệt dạ khai, thùy gia kiến nguyệt năng nhàn tọa, hà xứ văn đăng bất khán lai (玉漏銅壺且莫催、鐵關金鎖徹夜開、誰家見月能閒坐、何處聞燈不看來, thời gian vàng ngọc chớ giục thôi, khóa vàng cửa thiết suốt đêm khai, nhà ai trăng ngắm ngồi nhàn hạ, nào chốn nghe đèn chẳng đến xem).” Trong khi đó, Trương Hỗ (張祜, khoảng 785-849?) nhà Đường cũng có làm bài Chánh Nguyệt Thập Ngũ Dạ Đăng (正月十五夜燈) như sau: “Thiên môn khai tỏa vạn đăng minh, chánh nguyệt trung tuần động địa kinh, tam bách nội nhân liên tụ vũ, nhất tấn thiên thượng trước từ thinh (千門開鎖萬燈明、正月中旬動地京、三百內人連袖舞、一進天上著詞聲, mở tung ngàn cửa đèn sáng trong, tuần giữa tháng giêng động thần kinh, ba trăm người cùng nối áo múa, vọng đến trời cao khúc thái bình).” Thi hào Lý Thương Ẩn (李商隱, khoảng 813-858) nhà Đường có bài thơ diễn tả về phong cảnh Tết Nguyên Tiêu rằng: “Nguyệt sắc đăng sơn mãn đế đô, xa hương bảo cái ải thông cù, thân nhàn bất đổ trung hưng thịnh, tu trục hương nhân tái Tử Cô (月色燈山滿帝都、香車寶蓋隘通衢、身閒不睹中興盛、羞逐鄉人賽紫姑, trăng tỏ đèn đêm khắp đế đô, xe hương lọng báu rợp đường xa, nhàn hạ chẳng màng đời suy thịnh, dân làng dâng cúng đáp Tử Cô [theo truyền thuyết dân gian trung quốc là một cô nương bần cùng nhưng hiền lương]).” Hay như thi hào Âu Dương Tu (歐陽修, 1007-1072) nhà Tống có để lại bài Sanh Tra Tử Nguyên Tịch (生查子元夕) rằng: “Khứ niên Nguyên Dạ thời, hoa thị đăng như trú, nguyệt đáo liễu tiêu đầu, nhân ước hoàng hôn hậu, kim niên Nguyên Dạ thời, nguyệt dữ đăng y cựu, bất kiến khứ niên nhân, lệ thấp xuân sam tụ (去年元夜時、花市燈如晝、月到柳梢頭、人約黃昏後、今年元夜時、月與燈依舊、不見去年人、淚濕春衫袖, năm ngoái đêm Nguyên Tiêu, hoa đèn như ngày sáng, trăng đến trên đầu liễu, người về sau hoàng hôn, năm nay đêm Nguyên Tiêu, nguyệt cùng trăng như cũ, chẳng thấy người cũ đâu, lệ ướt tay áo mỏng).” Thi nhân Nguyên Hảo Vấn (元好問, 1190-1257) nhà Nguyên cũng có bài Kinh Đô Nguyên Tịch (京都元夕) như sau: “Huyền phục hoa trang trước xử phùng, lục nhai đăng hỏa náo nhi đồng, trường sam ngã diệc hà vi giả, dã tại du nhân tiếu ngữ trung (袨服華妝著處逢、六街燈火鬧兒童、長衫我亦何爲者、也在遊人笑語中, áo thâm hoa kết mặc theo cùng, phố phường đèn sáng rộn nhi đồng, áo rộng ta cũng là ai nhỉ, vẫn với du nhân cười nói vang).” Sau này, Kheo Phùng Giáp (丘逢甲, 1864-1912) nhà Thanh có làm bài Nguyên Tịch Vô Nguyệt (元夕無月) rằng: “Tam niên thử tịch vô nguyệt quang, minh nguyệt đa ưng tại cố hương, dục hướng hải thiên tầm nguyệt khứ, ngũ canh phi mộng độ côn dương (三年此夕無月光、明月多應在故鄉、欲向海天尋月去、五更飛夢渡鯤洋, ba năm đêm ấy chẳng sáng trăng, trăng tỏ phần nhiều tại cố hương, muốn hướng chân trời tìm trăng lặn, năm canh cỡi mộng vượt ngàn trùng).” Ngoài ra, còn một số câu đối liễn được dùng để treo nhân dịp Tết Nguyên Tiêu, như: “phong thanh nguyệt lãng, đăng thái tinh huy (風清月朗、燈彩星輝, gió mát trăng thanh, đèn rực sao tỏ)”, “vô biên xuân sắc, hữu khánh niên đầu (無邊春色、有慶年頭, vô biên sắc xuân, tốt đẹp đầu năm)”, “nguyệt quang kiểu khiết, nhân chúc huy hoàng (月光皎潔、銀燭輝煌, ánh trăng sáng tỏ, đèn hoa huy hoàng)”, “vạn gia Nguyên Tịch yến, nhất lộ thái bình ca (萬家元夕宴、一路太平歌, vạn nhà đón Nguyên Tịch, một cõi thái bình ca)”, “minh nguyệt thiên môn tuyết, ngân đăng vạn thọ hoa (明月千門雪、銀燈萬樹花, trăng tỏ ngàn nhà tuyết, đèn trong vạn cây hoa)”, “phóng thủ kình minh nguyệt, khai tâm lạc Nguyên Tiêu (放手擎明月、開心樂元宵, buông tay nâng trăng sáng, mở lòng vui Nguyên Tiêu)”, “vạn hộ quản huyền ca thạnh thế, mãn thiên diệm hỏa diệu xuân quang (萬戶管弦歌盛世、滿天焰火耀春光, vạn nhà gãy đàn ca đời thịnh, khắp trời lửa rực tỏa ánh xuân)”, “thiên không minh nguyệt tam thiên giới, nhân túy xuân phong thập nhị lâu (天空明月三千界、人醉春風十二樓, trời cao trăng tỏ ba ngàn cõi, người say xuân gió mười hai lầu)”, “Ngũ dạ tinh kiều liên Nguyệt Điện, lục nhai đăng hỏa bộ Thiên Thai (五夜星橋連月殿、六街燈火步天台, năm đêm sao cầu nối Cung Nguyệt, sáu đường đèn rực bước Thiên Thai)”, “ngọc vũ vô trần thiên khoảnh bích, ngân hoa hữu diệm vạn gia xuân (玉宇無塵千頃碧、銀花有焰萬家春, nhà ngọc không bụi ngàn dặm sáng, hoa đồng tỏa rạng vạn chốn xuân)”, v.v.
(三河四海九江): ba sông, bốn biển, chín sông, là từ chỉ chung cho những nơi có nước như ao hồ, sông ngòi, biển cả trên khắp thế giới. Như trong Thái Thượng Linh Bảo Ngọc Quỹ Minh Chơn Đại Trai Quan Công Nghi (太上靈寶玉匱明眞大齋官功儀) của Đạo Giáo có đoạn cung thỉnh rằng: “Cẩn thượng thỉnh Tam Nguyên Quân, Thượng Nguyên Thiên Quan, Trung Nguyên Địa Quan, Hạ Nguyên Thủy Quan, Tam Cung Cửu Phủ, Bách Nhị Thập Tào, Ngũ Nhạc Đại Thần, Thập Đại Động Thiên, Tam Thập Lục Động Thiên, Nhị Thập Tứ Hóa, Tam Hà Tứ Hải, Cửu Giang Thủy Đế, Thập Nhị Hà Nguyên, Cửu Cung Chân Nhân, Thập Nhị Tiên Quân, Cửu Thiên Ty Mạng, Ngũ Nhạc Trượng Nhân, Cửu Thiên Sứ Giả, Trữ Phó Chánh Chức Tá Mạng Đại Thần, Thiên Tiên Địa Tiên, Phi Tiên Thần Tiên, Vương Đồng Ngọc Nữ, binh mã kỵ thừa, giáng lâm tiêu tòa (謹上請三元君、上元天官、中元地官、下元水官、三宮九府、百二十曹、五嶽大神、十大洞天、三十六洞天、二十四化、三河四海、九江水帝、十二河源、九宮眞人、十二仙君、九天司命、五嶽丈人、九天使者、儲副正職佐命大神、天仙地仙、飛仙神仙、王童玉女、兵馬騎乘、降臨醮座, xin cung thỉnh Tam Nguyên Quân, Thượng Nguyên Thiên Quan, Trung Nguyên Địa Quan, Hạ Nguyên Thủy Quan, Ba Cung Chín Phủ, Trăm Hai Mươi Tào, Đại Thần Năm Núi, Trời Mười Động Lớn, Trời Ba Mươi Sáu Động, Hai Mươi Bốn Hóa, Ba Sông Bốn Biển, Chín Sông Thủy Đế, Mười Hai Nguồn Sông, Chân Nhân Chín Cung, mười hai tiên quân, Cửu Thiên Ty Mạng, Ngũ Nhạc Trượng Nhân, Cửu Thiên Sứ Giả, Trữ Phó Chánh Chức Tá Mạng Đại Thần, Thiên Tiên Địa Tiên, Phi Tiên Thần Tiên, Vương Đồng Ngọc Nữ, cỡi mang binh ngựa, giáng xuống đàn cúng).” Hay như trong Thái Thượng Thần Chú Diên Thọ Diệu Kinh (太上神呪延壽妙經) cũng có đoạn: “Tam Hà Tứ Hải, Cửu Giang Bát Cực, chư chân nhân đẳng, Tiên Đồng Ngọc Nữ, Tam Giới Địa Kỳ, Tam Quan Cửu Thự, nhất thiết thần minh, văn trì thử kinh, tức vi tiêu trừ nhất thiết khổ não (三河四海、九江八極、諸眞人等、仙童玉女、三界地祇、三官九署、一切神明、聞持此經、卽爲消除一切苦惱, Ba Sông Bốn Biển, Chín Sông Tám Hướng, các vị chân nhân, Tiên Đồng Ngọc Nữ, Thổ Thần Ba Cõi, Ba Quan Chín Sảnh, hết thảy thần minh, nghe trì kinh này, tức được tiêu trừ hết thảy khổ ách).”
(三皈): hay Tam Quy Y (s: tri-śaraṇa-gamana, p: ti-saraṇa-gamana, 三皈依、三歸依), Tam Quy (三歸), Tam Tự Quy (三自歸), Tam Quy Giới (三歸戒), Thú Tam Quy Y (趣三歸依). Riêng từ quy y hàm nghĩa cứu hộ, hướng về. Tam Quy Y tức là quay trở về và nương tựa vào Tam Bảo (三寶, Ba Ngôi Báu gồm Phật, Pháp và Tăng) và cầu xin quý Ngài cứu giúp để được vĩnh viễn thoát khỏi tất cả khổ. Đó là Quy Y Phật (s: Buddhaṃ śaraṇaṃ gacchāmi, 皈依佛, I take refuge in the Buddha), Quy Y Pháp (s: Dharmaṃ śaraṇaṃ gacchāmi, 皈依法, I take refuge in the Dharma) và Quy Y Tăng (s: Saṃghaṃ śaraṇaṃ gacchāmi, 皈依僧, I take refuge in the Sangha). Đây là nghi thức cần phải có để trở thành tín đồ Phật Giáo. Sau khi đức Phật Thích Ca thành đạo, khi chưa có Tăng Bảo thì chỉ truyền thọ hai phép quy y Phật và Pháp mà thôi. Theo Ngũ Phần Luật (五分律) quyển 15 cho biết rằng người thọ Tam Quy Y đầu tiên là thân phụ của Tỳ Kheo Da Xá (s: Yaśa, Yaśoda, 耶舍). Phép Tam Quy Y này có thể chia làm 2 loại:
(1) Phiên Tà Tam Quy (翻邪三歸), nghĩa là Ba Phép Quy Y thọ nhận khi từ bên tà đạo quay về với chánh đạo;
(2) Thọ Giới Tam Quy (受戒三歸), gồm có 4 loại như Ngũ Giới Tam Quy (五戒三歸, người Phật tử tại gia trước khi thọ Năm Giới thì phải thọ Ba Phép Quy Y); Bát Giới Tam Quy (八戒三歸, trước khi thọ Bát Quan Trai Giới thì phải thọ Ba Phép Quy Y); Thập Giới Tam Quy (十戒三歸, trước khi thọ Mười Giới để trở thành Sa Di [s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌], Sa Di Ni [s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerā, sāmaṇerī, 沙彌尼] thì phải thọ Ba Phép Quy Y); Cụ Túc giới Tam Quy (, trước khi thọ Cụ Túc giới để trở thành Tỳ Kheo [s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘], Tỳ Kheo Ni [s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼] thì phải thọ Ba Phép Quy Y).
Về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc Quy Y Tam Bảo, Câu Xá Luận (倶舍論) quyển 14 có giải thích rằng người phát tâm Quy Y Tam Bảo thì sẽ vĩnh viễn giải thoát hết thảy các khổ. Trong khi đó, Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章) quyển 10 có nêu ra 3 ý nghĩa khác về việc Quy Y Tam Bảo nhằm:
(1) Vì để xa lìa các điều ác bất thiện của sanh tử;
(2) Vì để cầu xuất thế Niết Bàn;
(3) Vì để lợi ích chúng sanh.
Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn (法界次第門) quyển Thượng cũng cho biết rằng công dụng của việc Quy Y Tam Bảo là để phá Ba Tà, cứu độ Ba Đường (Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh), v.v. Trước khi vào phần chính văn của Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 1, Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tánh Luận (究竟一乘寶性論) quyển 1, Đại Thừa Khởi Tín Luận (大乘起信論), Phật Địa Kinh Luận (佛地經論) quyển 1, A Tỳ Đàm Tâm Luận (阿毘曇心論), v.v., đều có nêu văn Quy Kính Tam Bảo. Trong Tỳ Ni Thảo Yếu (毘尼討要) quyển 5 có đoạn: “Ngã mỗ giáp tận hình thọ Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng [tam thuyết]; ngã mỗ giáp tận hình thọ Quy Y Phật cánh, Quy Y Pháp cánh, Quy Y Tăng cánh [tam thuyết] (我某甲盡形壽歸依佛、歸依法、歸依僧[三說]、我某甲盡形壽歸依佛竟、歸依法竟、歸依僧竟[三說], con … nguyện suốt đời Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng [ba lần]; con … nguyện suốt đời Quy Y Phật rồi, Quy Y Pháp rồi, Quy Y Tăng rồi [ba lần]).” Bên cạnh đó, trong Thọ Bồ Tát Giới Nghi (授菩薩戒儀) của Trạm Nhiên (湛然) lại có đoạn: “Đệ tử mỗ giáp nguyện tùng kim thân, tận vị lai tế, Quy Y Phật Lưỡng Túc Tôn, Quy Y Pháp Ly Dục Tôn, Quy Y Tăng Chúng Trung Tôn [tam thuyết]; đệ tử mỗ giáp nguyện tùng kim thân, tận vị lai tế, Quy Y Phật cánh, Quy Y Pháp cánh, Quy Y Tăng cánh [tam thuyết] (弟子某甲願從今身、盡未來際、歸依佛兩足尊、歸依法離欲尊、歸依僧眾中尊[三說]、弟子某甲願從今身、盡未來際、歸依佛竟、歸依法竟、歸依僧竟[三說], đệ tử … nguyện từ đời này cho đến cùng tận tương lai, Quy Y Phật Lưỡng Túc Tôn, Quy Y Pháp Ly Dục Tôn, Quy Y Tăng Chúng Trung Tôn [ba lần]; đệ tử … nguyện từ đời này cho đến cùng tận tương lai, Quy Y Phật rồi, Quy Y Pháp rồi, Quy Y Tăng rồi [ba lần]).” Nguyên Không (源空, Genkū), tức Pháp Nhiên (法然, Hōnen, 1133-1212), người khai sáng Tịnh Độ Tông Nhật Bản, có giải thích trong tác phẩm Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集, Senchakuhongannembutsushū) rằng “tận hình thọ (盡形壽, cho đến suốt đời này)” là Tam Quy của Tiểu Thừa; trong khi đó, “tận vị lai tế (盡未來際, cho đến tận cùng tương lai, tức đời sau và nhiều đời sau nữa)” là Tam Quy của Đại Thừa. Trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō No. 2122) quyển 87 còn cho biết rằng: “Vân hà danh vi Tam Quy ? Phật ngôn: 'Thiện nam tử vi phá chư khổ, đoạn trừ phiền não, thọ ư vô thượng tịch diệt chi lạc, dĩ thị nhân duyên thọ Tam Quy Y' (云何名爲三歸、佛言、善男子爲破諸苦、斷除煩惱、受於無上寂滅之樂、以是因緣受三歸依, Thế nào là Ba Phép Quy Y ? Phật dạy: 'Thiện nam tử vì phá các khổ, đoạn trừ phiền não, thọ niềm vui vắng lặng vô thượng, lấy nhân duyên này mà thọ Ba Phép Quy Y).” Riêng trong Thái Thượng Tam Nguyên Từ Bi Thủy Sám (太上三元慈悲水懺) có đề cập đến “Quy Thân, Quy Mạng, Quy Thần (歸身、歸命、歸神)” là Tam Quy Y của Đạo Giáo; và “Đạo, Kinh, Sư (道、經、師)” là Ba Ngôi Báu của họ.
(天官): tên gọi của một trong ba vị Tam Quan Đại Đế (三官大帝), tức Thiên Quan Đại Đế (天官大帝), còn gọi là Thượng Nguyên Tứ Phước Thiên Quan Nhất Phẩm Tử Vi Đại Đế (上元賜福天官一品紫微大帝), và hai vị kia là Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Nhị Phẩm Thanh Hư Đại Đế (中元赦罪地官二品清虛大帝), Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế (下元解厄水官三品洞陰大帝). Từ thời Thượng Cổ, tại Trung Quốc đã có nghi lễ tế trời, đất và nước rồi. Ba vị Đại Đế này được thần cách hóa chỉ dưới Ngọc Hoàng Thượng Đế (玉皇上帝) một bậc, chuyên chưởng quản việc phước lộc, tội ác và giải trừ tai ách của con người. Trong dân gian vẫn truyền tụng rằng: “Thiên Quan hảo lạc, Địa Quan hảo nhân, Thủy Quan hảo đăng (天官好樂、地官好人、水官好燈, Thiên Quan thích vui, Địa Quan thích người, Thủy Quan thích đèn).” Thượng Nguyên (上元, rằm tháng giêng), Trung Nguyên (中元, rằm tháng bảy) và Hạ Nguyên (下元, rằm tháng mười) là ba ngày tế hội của ba vị Đại Đế này. Thiên Quan Đại Đế lệ thuộc vào Ngọc Thanh Cảnh (玉清境), do 3 khí xanh, vàng, trắng mà kết hợp thành, tổng chủ quản các đế vương trên trời. Mỗi năm vào ngày rằm tháng giêng, vị này thường giáng phàm xem xét tội phước của con người, nên có tên là Thiên Quan Tứ Phước (天官賜福, Quan Trời Ban Phước). Có nhiều truyền thuyết khác nhau liên quan đến vị này. Có thuyết cho rằng ông là Nghiêu Đế (堯帝); do vì nhà vua có lòng nhân lớn nên được phong làm Thiên Quan, phụng mạng Ngọc Hoàng Thượng Đế, xem xét việc tốt xấu của con người. Nghiêu Đế họ là Y Kì (伊祁), tên Phóng Huân (放勳), con vua Khốc (嚳), em của vua Chí (摰). Khi Chí lên ngôi vua thì phong cho Nghiêu là (陶侯), rồi đổi tên là Đường (唐); nên được gọi là Đào Đường (陶唐). Tương truyền Đường Nghiêu (唐堯) có dung mạo rất quái dị, lông mày có 8 sắc màu, tai có 3 lỗ thông. Khi vua Chí nhường ngôi cho Nghiêu thì bốn phương xuất hiện hung thần, ác khí, làm nguy hại đến tánh mạng của bá tánh. Nhà vua bèn sai Hậu Nghệ (后羿) đến hàng phục hung thần kia. Ông tóm thâu gió lớn nơi sông hồ, chém chết mãnh thú ven hồ Động Đình (洞庭), thâu tóm độc xà và làm cho dân chúng được yên ổn. Vua Nghiêu lại vẽ ra bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, chế định một năm có 12 tháng. Sau khi tại vị được 98 năm, vua Nghiêu truyền ngôi vị lại cho Thuấn (舜), hưởng thọ 177 tuổi; được tôn xưng là Thiên Quan Tứ Phước Thần (天官大帝賜福神). Trong Đạo Giáo tôn sùng ông là Thượng Nguyên Nhất Phẩm Tứ Phước Thiên Quan Đại Đế (上元一品賜福天官大帝). Thuyết khác cho rằng Thiên Quan là vị quan thường tâu những lời can gián lên nhà vua tên Đường Hoằng (唐宏) dưới thời Chu U Vương (周幽王, tại vị 781-771 tcn). Ông cùng với Cát Ung (葛雍), Chu Thật (周實) từ quan và sống cuộc đời vui thú điền viên. Đến thời Tống Chơn Tông (宋眞宗, tại vị 997-1022), cả ba được phong làm Thiên Quan, Địa Quan, Thủy Quan và được tế tự hàng năm. Cũng có truyền thuyết giải thích rằng từ khi Trương Thiên Sư (張天師, 34-156, tức Trương Đạo Lục [張道陵], tự là Phụ Hán [輔漢], cháu đời thứ 8 của Trương Lương [張良], xuất thân Phong Huyện [豐縣], Tỉnh Giang Tô [江蘇省]) khai sáng Đạo Giáo về sau, dân gian mới bắt đầu biết cúng tế ba vị Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan. Ngoài ra, có thuyết lại cho rằng Ngôn Vương Gia (言王爺) có 3 người con gái, đem gả cho Trần Tử Thung (陳子摏) làm vợ; mỗi người lại hạ sinh một người con, có bẩm tính khác thường. Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho 3 người này làm Thiên Quan, Địa Quan, Thủy Quan và ra lệnh cho họ cai quản ba cõi. Trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經), phần Thiên Quan Bảo Cáo (天官寶誥) của Đạo Giáo có đoạn: “Chí tâm quy mạng lễ: Huyền Đô Nguyên Dương, Tử Vi Cung trung, bộ Tam Thập Lục Tào, giai cửu thiên vạn chúng, khảo hiệu đại thiên thế giới chi nội, lục tịch thập phương quốc độ chi trung; phước bị vạn linh, chủ kiêm sanh thiện ác chi tịch; ân đàm Tam Giới, trí chư tiên thăng giáng chi ty, trừ vô vọng chi tai, giải thích túc ương, thoát sanh tử chi thú, cứu bạt u khổ, quần sanh thị lại, xuẩn động hàm khang, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Thượng Nguyên Cửu Khí, Tứ Phước Thiên Quan, Diệu Linh Nguyên Dương Đại Đế, Tử Vi Đế Quân (志心皈命禮、玄都元陽、紫微宮中、部三十六曹、偕九千萬眾、考較大千世界之內、錄籍十方國土之中、福被萬靈、主兼生善惡之籍、恩覃三界、致諸仙升降之司、除無妄之災、解釋宿殃、脫生死之趣、救拔幽苦、群生是賴、蠢動咸康、大悲大願、太聖大慈、上元九氣、賜福天官、曜靈元陽大帝、紫微帝君, Một lòng quy mạng lễ: Huyền Đô Nguyên Dương, trong Tử Vi Cung, cai quản 36 bộ quan, nhiếp chín ngàn vạn chúng, giám sát trong khắp thế giới đại thiên, xét hồ sơ mười phương quốc độ, chủ quản hồ sơ thiện ác con người, phước nhuần vạn sinh, chủ kiểm soát hồ sơ thiện ác; ơn ban Ba Cõi, quản lý chư tiên lên xuống, trừ các tai họa, giải trừ oan khiên đời trước, thoát khỏi đường sanh tử, cứu bạt khổ ách, chúng sanh nương tựa, động vật đều yên, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Thượng Nguyên Cửu Khí, Tứ Phước Thiên Quan, Diệu Linh Nguyên Dương Đại Đế, Tử Vi Đế Quân).”
(水府): nơi Thủy Thần trú ngụ. Ở Trung Quốc có Thủy Phủ Miếu (水府廟) được kiến lập vào năm thứ 12 (207) niên hiệu Kiến An (建安), cách 1.5 dặm về phía nam Thôn Trương Doanh (張營村), Làng Thành Giao (城郊鄉), Huyện Tân Dã (新野縣). Tương truyền, lúc bấy giờ Lưu Bị (劉僃) đang đóng binh tại Tân Dã (新野) để chiêu hiền nạp sĩ, sau ba lần đến thảo lư và cuối cùng mời được Gia Cát Lượng (諸葛亮) ra làm phụ tá. Khi Gia Cát Lượng tiến hành khảo sát địa lý quân sự vùng Tân Dã, phát hiện ra có hình dáng lưng con thủy xà (rắn nước) cách 3 dặm về phía nam Thành Tân Dã, lại gặp nước song tràn lên quá bờ đê, làm cho bá tánh phải khổ sở vì nạn nước lũ. Gia Cát Lượng đích thân thiết kế phương án trị thủy, động viên toàn quân dân cải cách đường sông, làm cho kiên cố đê điều và cho thiết lập một bến đò tại đây (tức Bến Đò Hán Tân [漢津碼頭]) để trấn thủy và đề phòng thủy tai. Người dân vùng này lại kiến lập một quần thể miếu điện ở phía đông bắc bến đò này trong vòng nửa năm trường, lấy tên là Thủy Phủ Miếu. Dưới thời nhà Đường và Tống, nơi đây trở thành trung tâm lưu thông các thương phẩm quan trọng của địa khu Trung Nguyên và trung tâm giao lưu văn hóa phồn thịnh. Đến thời nhà Minh, phần lớn các kiến trúc bị hư hại do binh hỏa. Bên trong điện có tôn thờ 58 tượng các vị thần như Thần Sông (河神), Ngọc Hoàng (玉皇), v.v. Mỗi năm những hoạt động tôn giáo quan trọng của khu miếu này có Miếu Hội vào ngày mồng 8 tháng 4, tế tự vào ngày mồng 3 tháng 3 Âm Lịch, v.v. Ngoài ra, theo tín ngưỡng của Đạo Mẫu ở Việt Nam, Thủy Phủ (miền sông nước) là một trong Tứ Phủ, do mẫu đệ tam (Mẫu Thoải) trị vì. Trong truyện cổ tích của Việt Nam có câu chuyện Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy Phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân. Trong Thái Bình Quảng Ký (太平廣記) quyển 152, phần Trịnh Đức Cự (鄭德苣) có câu: “Vi thị nãi ngộ, khủng quý, chiêu Tẩu đăng thuyền, bái nhi tấn tửu quả, khấu đầu viết: 'Ngô chi phụ mẫu, đương tại Thủy Phủ, khả tỉnh cận phủ ?' (韋氏乃悟、恐悸、召叟登舟、拜而進酒果、叩頭曰、吾之父母、當在水府、可省覲否, Họ Vi bèn tỉnh ngộ, sợ mà động lòng, mời Tẩu lên thuyền, lạy và dâng rượu quả, cúi đầu thưa: 'Cha mẹ tôi đang ở tại Thủy Phủ, liệu có thể thức tỉnh mà thân cận chăng ?').” Hay như trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經) của Đạo Giáo lại có đoạn: “Thiên Tôn ngôn: 'Thiên hạ chúng sanh, giang hà hồ hải, chu hàng thương cổ, phong ba hung dũng, kinh hoàng ưu cụ; nhược tụng thử kinh, quy y thiên địa Thủy Quan, Thủy Phủ chúng Thánh, tức sử phong điềm lãng tĩnh, thủy đồ an thỏa' (天尊言、天下眾生、江河湖海、舟航商賈、風波洶湧、驚惶憂懼、若誦此經、皈依天地水官、水府眾聖、卽使風恬浪靜、水途安妥, Thiên Tôn dạy rằng: 'Chúng sanh trong thiên hạ, sông nước hồ biển, thuyền bè buôn bán, sóng gió ầm ầm, kinh hoàng hãi sợ; nếu tụng kinh này, quy y thiên địa Thủy Quan, các bậc Thánh của Thủy Phủ, tức sẽ khiến cho gió yên sóng lặng, đường thủy yên ổn).” Hoặc trong Thái Nhất Cứu Khổ Hộ Thân Diệu Kinh (太一救苦護身妙經) của Đạo Giáo cho rằng Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙救苦天尊) ở dưới Thủy Phủ thì được gọi là Động Uyên Đế Quân (洞淵帝君): “Thử Thánh tại thiên hô vi Thái Nhất Phước Thần, tại thế hô vi Đại Từ Hành Giả, tại Địa Ngục hô vi Nhật Diệu Đế Quân, tại ngoại đạo nhiếp tà hô vi Sư Tử Minh Vương, tại Thủy Phủ hô vi Động Uyên Đế Quân (此聖在天呼爲太一福神、在世呼爲大慈行者、在地獄呼爲日耀帝君、在外道攝邪呼爲獅子明王、在水府呼爲洞淵帝君, vị Thánh này ở trên trời được gọi là Thái Nhất Phước Thần, trên thế gian được gọi là Đại Từ Hành Giả, dưới Địa Ngục được gọi là Nhật Diệu Đế Quân, nơi ngoại đạo trừ tà được gọi là Sư Tử Minh Vương, dưới Thủy Phủ được gọi là Động Uyên Đế Quân).”
(水官): tên gọi của một trong 3 vị của Tam Quan Đại Đế (三官大帝), tức Thủy Quan Đại Đế (水官大帝), Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế (下元解厄水官三品洞陰大帝), lệ thuộc Ngọc Thanh Cảnh (玉清境). Thủy Quan do khí của Phong Trạch (風澤) hòa với tinh của Thần Hạo (晨浩) mà thành, tổng chủ quản các vị thần tiên trong nước. Mỗi năm vào dịp rằm tháng 10, ông hạ phàm răn dạy tội phước, giải trừ các tai nạn, hạn ách cho con người. Có vài truyền thuyết về Thủy Quan Đại Đế như ông nguyên là vua Vũ (禹), nhờ có công lao trị thủy, nên được phong làm chức này. Vũ là con của vua Cổn (鯀), dưới thời vua Nghiêu (堯) trị thủy trong 9 năm trường mà vẫn không có kết quả, sau sai Vũ thay thế và trãi qua 13 năm thì thành công. Ông đặt quốc hiệu là Hạ (夏), vì vậy Trung Quốc có tên gọi khác là Hoa Hạ (華夏). Sau khi vua Vũ qua đời, Đạo Giáo tôn phụng ông là Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế; lấy Tiết Hạ Nguyên là ngày Vũ Đế giáng phàm giải ách cứu nạ cho muôn dân. Vì thế, ngày này còn được gọi là Tiêu Tai Nhật (消災日). Thuyết khác cho rằng Thủy Quan là Cát Ung (葛雍), một trong ba vị quan thường can gián nhà vua dưới thời Chu U Vương (周幽王). Họ từ quan, sống cuộc tự tại với thiên nhiên và sau được phong làm Tam Quan Đại Đế. Ngoài ra, có thuyết cho rằng Ngôn Vương Gia (言王爺) có 3 người con gái đều gả cho Trần Tử Thung (陳子摏) làm vợ; mỗi người hạ sanh được một trai, bẩm tánh khác người; nhân đó, Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho cả ba làm Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan, sắc mệnh chuyên cai quản Ba Cõi. Trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經), phần Thủy Quan Bảo Cáo (水官寶誥) của Đạo Giáo có đoạn về Thủy Quan rằng: “Chí tâm quy mạng lễ: Dương Cốc Động Nguyên, Thanh Hoa Cung trung, bộ tứ thập nhị tào, giai cửu thiên vạn chúng, chưởng quản giang hà Thủy Đế, vạn linh chi sự, thủy tai đại hội kiếp số chi kỳ, Chỉ Nhất Pháp Vương, chưởng trường dạ tử hồn quỷ thần chi tịch, Vô Vi Giáo Chủ, lục chúng sanh công quá tội phước chi do, thượng giải thiên tai, độ nghiệp mãn chi linh, hạ tế u cục, phân nhân quỷ chi đạo, tồn vong giai thái, lực tế vô cùng, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Hạ Nguyên Ngũ Khí, Giải Ách Thủy Quan, Kim Linh Động Âm Đại Đế, Dương Cốc Đế Quân (志心皈命體、暘谷洞元、青華宮中、部四十二曹、偕九千萬眾、掌管江河水帝、萬靈之事、水災大會劫數之期、芷一法王、掌長夜死魂鬼神之籍、無為敎主、錄眾生功過罪福之由、上解天災、度業滿之靈、下濟幽扃、分人鬼之道、存亡皆泰、力濟無窮、大悲大願、大聖大慈、下元五氣、解厄水官、金靈洞陰大帝、暘谷帝君, Một lòng quy mạng lễ: Dương Cốc Động Nguyên, trong Thanh Hoa Cung, cai quản 42 bộ quan, nhiếp chín ngàn vạn chúng, Thủy Đế chưởng quản sông hồ, mọi chuyện của muôn loài, khi có tai họa về nước, kiếp số đến kỳ; Chỉ Nhất Pháp Vương, quản lý hồ sơ hồn chết đêm dài của quỷ thần; Vô Vi Giáo Chủ, phán công quá tội phước của chúng sanh; trên giải trừ thiên tai, độ các linh hồn hết nghiệp; dưới cứu đường tối tăm, chia rõ đường quỷ và người, người còn kẻ mất được an thái, sức tế độ vô cùng, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Hạ Nguyên Ngũ Khí, Giải Ách Thủy Quan, Kim Linh Động Âm Đại Đế, Dương Cốc Đế Quân).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập