Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Nghiệp »»
(s: kalaviṅka, p: karavika, 迦陵頻伽): còn gọi là Ca La Tần Già (歌羅頻伽), Ca Lan Già (加蘭伽), Ca Lan Tần Già (迦蘭頻伽), Yết La Tần Già (羯羅頻迦), Ca Lăng Tần Già (迦楞頻伽), Ca Lăng Tỳ Già (迦陵毘伽), Ca Lăng Già (迦陵伽), Yết Lăng Già (羯陵伽), Yết Tỳ Già La (羯毘伽羅), Yết Lăng Già La (羯陵伽羅), Ca Tỳ Già La (迦毘伽羅), Hạt Thất Già La (鶡鵯伽羅), Ca Vĩ La (迦尾羅), v.v.; ý dịch là hảo thanh điểu (好聲鳥, chim có tiếng hót hay), mỹ dung điểu (美容鳥, chim có hình dáng đẹp), diệu thanh điểu (妙聲鳥, chim có âm thanh tuyệt diệu). Đây là tên của một loài chim, thường thấy chủ yếu ở Ấn Độ, xuất xứ từ trên Tuyết Sơn (s, p: Himālaya, 雪山); nó sắc màu đen mượt giống như chim sẻ, bộ lông rất đẹp, ở phần cổ có màu đỏ. Khi còn trong trứng, chim đã có thể cất tiếng hót, âm thanh trong trẻo, hòa nhã, vi diệu, so với tiếng của Trời, người, Khẩn Na La (s: kiṃnara, 緊那羅) cũng như tất cả những loài chim khác đều thua xa. Như trong A Di Đà Kinh Yếu Giải Tiện Mông Sao (阿彌陀經要解便蒙鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 430) quyển Trung có giải thích rằng: “Sơn cốc khoáng dã, kỳ trung đa hữu Ca Lăng Tần Già, xuất diệu âm thanh, nhược thiên nhược nhân, Khẩn Na La đẳng, vô năng cập giả (山谷曠野、其中多有迦陵頻伽、出妙音聲、若天若人、緊那羅等、無能及者, nơi hang núi đồng rộng, trong đó có nhiều chim Ca Lăng Tần Già, phát ra tiếng hót vi diệu, dẫu Trời dẫu người, Khẩn Na La vân vân, không thể sánh bằng).” Trong kinh điển Phật Giáo, thường lấy âm thanh của loài chim này để ví cho tiếng vi diệu của chư Phật, Bồ Tát; hoặc xem Ca Lăng Tần Già như là loài chim của thế giới Cực Lạc. Trong đồ hình Mạn Trà La Tịnh Độ, Ca Lăng Tần Già được vẽ dưới hình dạng đầu người thân chim. Trong Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận (大乘集菩薩學論, Taishō Vol. 32, No. 1636) quyển 23 có câu: “Mâu Ni Tam Nghiệp siêu Tam Hữu, thí nhược phù cừ bất trước thủy, Ca Lăng Tần Già tịnh diệu thanh, thị cố ngã kim khể cụ lễ (牟尼三業超三有、譬若芙蕖不著水、迦陵頻伽淨妙聲、是故我今稽具禮, Mâu Ni Ba Nghiệp vượt Ba Cõi, giống như hoa sen chẳng thấm nước, Ca Lăng Tần Già tiếng vi diệu, vì vậy con nay cúi đầu lạy).” Hay trong Phật Thuyết Hộ Quốc Tôn Giả Sở Vấn Đại Thừa Kinh (佛說護國尊者所問大乘經, Taishō Vol. 12, No. 321) quyển 3 có đoạn: “Phước Quang Thái Tử viên uyển chi nội, hữu chủng chủng phi điểu, Anh Vũ, Cù Dục, Uyên Ương, Nga Áp, Khổng Tước Xá Lợi, Câu Chỉ La Điểu, Câu Nỗ La Điểu, Ca Lăng Tần Già, Mạng Mạng Điểu đẳng (福光太子園苑之內、有種種飛鳥、鸚鵡、鴝鵒、鴛鴦、鵝鴨、孔雀舍利、俱枳羅鳥、俱拏羅鳥、迦陵頻伽、命命鳥等, trong vườn của Thái Tử Phước Quang có nhiều loại chim bay, như chim vẹt, sáo, uyên ương, vịt trời, chim sẻ Xá Lợi, chim Câu Chỉ La, chim Câu Nỗ La, chim Ca Lăng Tần Già, chim Mạng Mạng, vân vân).” Trong Tam Thời Hệ Niệm Nghi Quỹ (三時繫念儀範, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1465) lại có đoạn: “Lục thời hành đạo bảo lâm gian, Cửu Phẩm tiêu danh kim chiểu nội, thủy điểu thọ lâm năng thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già cọng đàm Thiền, bảo lan bảo can ảnh linh lung, bảo tọa bảo tràng quang xán lạn (六時行道寶林間、九品標名金沼內、水鳥樹林能說法、迦陵頻伽共談禪、寶欄寶網影玲瓏、寶座寶幢光燦爛, sáu thời hành đạo nơi rừng báu, Chín Phẩm đề danh trong hồ vàng, chim nước rừng cây còn thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già thảy bàn Thiền, lan can quý báu ảnh lung linh, tòa báu tràng phan sáng rực rỡ).”
(s: puruṣa damyasārathi, p: purisadammasārathi, 調御丈夫): âm dịch là Phú Lâu Sa Đàm Miệu Ta La Đề (富樓沙曇藐娑羅提), một trong 10 danh hiệu của Phật, nghĩa là một bậc thầy khéo điều phục và chế ngự, hóa đạo hết thảy các trượng phu. Đây là đại bi và đại trí của Phật, có khi dùng lời nhu hòa, có khi dùng lời bi thiết hay tạp ngữ, v.v., lấy đủ các loại phương tiện để điều ngự người tu hành, giúp cho họ nhập Niết Bàn. Mười danh hiệu này phát xuất từ trong Phật Thuyết Thập Hiệu Kinh (佛說十號經, Taishō No. 782), phần giải thích về Điều Ngự Trượng Phu như sau: “Vân hà Điều Ngự Trượng Phu ? Phật ngôn: 'Phật thị Đại Trượng Phu, nhi năng điều ngự thiện ác nhị loại; ác giả khởi bất thiện Tam Nghiệp, nhi tác chư ác đọa Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Bàng Sanh nhi đắc ác báo; thiện giả ư thân khẩu ý nhi tu chúng thiện, đắc nhân thiên phước quả; thử chi thiện ác giai do tâm tác, Phật dĩ đệ nhất nghĩa thiện Niết Bàn chi pháp, hiển thị diều ngự linh ly cấu nhiễm hoạch đắc tối thượng tịch diệt Niết Bàn, thị cố đắc danh Điều Ngự Trượng Phu' (云何調御丈夫、佛言、佛是大丈夫、而能調御
善惡二類、惡者起不善三業、而作諸惡墮地
獄餓鬼傍生而得惡報、善者於身口意而修
眾善、得人天福果、此之善惡皆由心作、佛
以第一義善涅槃之法、顯示調御令離垢染
獲得最上寂滅涅槃、是故得名調御丈夫, Thế nào là Điều Ngự Trượng Phu ? Phật dạy: 'Phật là Đại Trượng Phu, có thể điều ngự hai loại thiện và ác; người ác khởi Ba Nghiệp không lành, mà tạo các điều ác, đọa vào Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Bàng Sanh và bị quả báo ác; người thiện tu các điều lành đối với thân, miệng, ý, được quả phước của trời người; thiện và ác này đều do tâm tạo ra; Phật lấy pháp lành Niết Bàn nghĩa thứ nhất để hiển bày, điều ngự, khiến cho xa lìa cấu nhiễm, đạt được Niết Bàn vắng lặng tối thượng; cho nên có tên gọi là Điều Ngự Trượng Phu).” Câu “Điều Ngự Trượng Phu, nãi huấn Tứ Sanh chi tử (調御丈夫、乃訓四生之子)” có nghĩa là đấng Đại Trượng Phu điều ngự, dạy dỗ đàn con của Bốn Loài.
(s, p: yoga, 瑜伽): ý dịch là tương ứng, tương ưng; nương vào phương pháp điều tức (hô hấp), v.v., tập trung tâm niệm ở một điểm; tu chủ yếu pháp Chỉ Quán (止觀), cùng nhất trí với lý tương ưng. Đối với Mật Giáo, rất thịnh hành thuyết gọi là Tam Mật Du Già Tương Ưng (三密瑜伽相應), hay Tam Mật Tương Ưng (三密相應). Hành giả thực hành pháp quán hạnh Du Già này, được gọi là Du Già sư (瑜伽師). Bộ Du Già Sư Địa Luận (瑜伽師地論) thuyết về 17 cảnh địa, từ Ngũ Thức Thân Tương Ưng Địa (五識身相應地) cho đến Vô Dư Y Địa (無餘依地). Học phái hành trì theo luận thư này được gọi là Du Già Phái (瑜伽派). Riêng về phía ngoại đạo, cũng có những nhà ngoại đạo Du Già. Tam Muội (s, p: samādhi, 三昧), Thiền Định (s: dhyāna, p: jhāna, 禪定) là những pháp thực hành Du Già. Theo Thành Duy Thức Luận Thuật Ký (成唯識論述記, Taishō Vol. 43, No. 1830) quyển 2, nghĩa của tương ưng có 5: (1) Tương ưng với cảnh, nghĩa là tự tánh không sai tất cả pháp. (2) Tương ưng với hành, nghĩa là tương ưng với định, tuệ, v.v. (3) Tương ưng với lý, là lý của Nhị Đế (二諦) về an lập hay không an lập, v.v. (4) Tương ưng với quả, nghĩa là có thể chứng đắc quả vô thượng Bồ Đề. (5) Tương ưng với cơ, nghĩa là đã được quả tròn đầy, lợi sanh cứu vật, tùy cơ duyên mà cảm ứng, thuốc và bệnh tương ứng với nhau. Trong 5 nghĩa nêu trên, Hiển Giáo phần nhiều lấy nghĩa tương ưng với lý. Trong bản Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1081) có định nghĩa rõ rằng: “Phạn ngữ Du Già, Hoa ngôn tương ưng, vị Tam Nghiệp đồng thời, nhi bất tiên hậu, cọng duyên nhất cảnh dã; thủ kết ấn thời, khẩu tất tụng chú, ý tất tác quán, Tam Nghiệp tề thí, vô hữu tham sai, thỉ danh tương ưng (梵語瑜伽、華言相應、謂三業同時、而不先後、共緣一境也、手結印時、口必誦咒、意必作觀、三業齊施、無有參差、始名相應, tiếng Phạn Du Già, Tàu gọi là tương ưng, tức Ba Nghiệp đồng thời, mà không trước sau, duyên chung vào một cảnh vậy; khi tay bắt ấn, miệng phải tụng chú, ý phải quán tưởng; Ba Nghiệp cùng thí, không có sai khác, mới gọi là tương ưng).” Bên cạnh đó, trong lời tựa đầu của Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ (瑜伽集要施食儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1080) có giải thích rằng: “Du Già pháp môn, giai tùng Phạn thư tự chủng khởi quán, xuất sanh nhất thiết quảng đại thần biến, phổ lợi hữu tình (瑜伽法門、皆從梵書字種起觀、出生一切廣大神變、普利有情, pháp môn Du Già, đều từ sách loại chữ Phạn mà bắt đầu quán, sinh ra hết thảy thần biến to lớn, lợi khắp chúng hữu tình).” Cũng điển tịch này có đoạn rằng: “Cẩn y Du Già giáo, kiến trí khải pháp diên, phổ thí chư hữu tình, giai cộng thành Phật đạo (謹依瑜伽敎、建置啟法筵、普施諸有情、皆共成佛道, kính theo Du Già giáo, thiết lập bày pháp diên, thí khắp các hữu tình, đều cọng thành Phật đạo).” Hiện tại trong hầu hết các tự viện Phật Giáo Việt Nam đều dùng nghi thức Du Già Thí Thực để tiến cúng các âm linh cô hồn thông qua Đàn Tràng Chẩn Tế hay Thủy Lục Pháp Hội. Nghi thức này được thâu lục rất đầy đủ trong bộ Trung Khoa Du Già Tập Yếu (中科瑜伽集要) hay Đại Khoa Du Già Tập Yếu (大科瑜伽集要). Tất cả những bản này đều dựa theo bản Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ do Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615), Tổ thứ 8 của Tịnh Độ Tông Trung Quốc soạn; bản lời tựa ghi dòng chữ: “Thời Vạn Lịch tam thập tứ niên, tuế thứ Bính Ngọ trọng Hạ vọng nhật Vân Thê Châu Hoằng cẩn chí (時萬歷三十四年、歲次丙午仲夏望日雲棲袾宏謹識, lúc bấy giờ niên hiệu Vạn Lịch thứ 34 [1606], ngày rằm tháng 5 năm Bính Ngọ, Vân Thê Châu Hoằng kính ghi).” Bản hiện hành thông dụng nhất tại Huế là Chánh Khắc Trung Khoa Du Già Tập Yếu (正刻中科瑜伽集要), tàng bản tại Sắc Tứ Báo Quốc Tự (勅賜報國寺), được khắc vào mùa Đông năm Mậu Tý (1888) thời vua Đồng Khánh (同慶, tại vị 1885-1889), do Đại Lão Hòa Thượng Hải Thuận Lương Duyên (海順良緣, 1806-1892), Tăng Cang Chùa Diệu Đế (妙諦寺), chứng minh.
(六味): tức 6 loại vị khác nhau; gồm đắng, chua, ngọt, cay, mặn, lạt, được tìm thấy trong Bắc Bản Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 1, A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 1, v.v. Theo bản Đại Minh Tam Tạng Pháp Số (大明三藏法數) quyển 28, giải thích rằng: (1) Khổ (s: tikta, 苦, đắng), tánh của nó lạnh, có thể hóa giải cái nóng trong phủ tạng; (2) Thố (s: amla, 醋, chua như giấm), còn gọi là toan (酸), tạc (酢), tánh của nó mát, có thể giải vị của các chất độc; (3) Cam (s: madhura, 甘, ngọt), còn gọi là điềm (甜), tánh của nó hòa, có thể điều hòa lá lách, ruột; (4) Tân (s: kaṭuka, 辛, cay), tánh của nó nóng, vì vậy có thể hóa giải cái lạnh trong phủ tạng; (5) Hàm (s: lavaṇa, 鹹, mặn), tánh của nó thấm, nên có thể giúp thấm sâu vào da thịt; (6) Đạm (s: kaśāya, 淡, lạt), là thể để nhận các vị. Bắc Bản Đại Bát Niết Bàn Kinh quyển 4 lấy 6 vị này thí dụ cho pháp nghĩa của kinh; Khổ là vị chua, Vô Thường là vị mặn, Vô Ngã là vị đắng, Lạc là vị ngọt, Ngã là vị cay và Thường là vị lạt. Trong Kinh Luật Giới Tướng Bố Tát Quỹ Nghi (經律戒相布薩軌儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1136), phần Thọ Thực Ngũ Quán Pháp (受食五觀法), có đoạn: “Tam Đức Lục Vị, cúng Phật cập tăng, pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường (三德六味、供佛及僧、法界有情、普同供養, Ba Đức Sáu Vị, cúng Phật và tăng, pháp giới hữu tình, khắp cùng cúng dường).” Hay trong Tử Bá Tôn Giả Toàn Tập (紫柏尊者全集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1452) quyển 1, phần Pháp Ngữ (法語), lại có đoạn: “Tam Đức bất giải, Lục Vị bất biện, kiêm tự kỷ thân khẩu ý Tam Nghiệp bất tịnh, tắc biện thực chi sở, bất danh Hương Tích Trù, vị chi Uế Tích Trù hĩ (三德不解、六味不辨、兼自己身口意三業不淨、則辦食之所、不名香積廚、謂之穢積廚矣, Ba Đức không hiểu, Sáu Vị chẳng rõ, cọng thêm Ba Nghiệp thân miệng ý của bản thân cũng không trong sạch, thì nơi chuẩn bị thức ăn, không gọi là Nhà Bếp Hương Tích, mà gọi là Nhà Bếp Ô Uế vậy).”
(義諦, Gitai, 1771-1822): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; húy là Trí Đạt (智達); thụy hiệu Tốc Thành Viện (速成院); hiệu là Tốc Thành Tự (速成寺), Bắc Phong (北峰), Phật Tiên (佛仙); xuất thân vùng Việt Trung (越中, Ecchū, thuộc Toyama-ken [富山縣]). Ông vốn có đam mê rất lớn với học vấn của Chơn Tông; sau khi vụ loạn động Tam Nghiệp Hoặc Loạn (三業惑亂) được trấn định, ông làm Tăng sĩ của Tây Bổn Nguyện Tự (西本願寺, Nishihongan-ji) và đến trú tại Từ Minh Tự (慈明寺) vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu, thuộc Ōsaka [大阪]). Vào năm 1815, ông giảng nghĩa Bát Nhã Tán (般若讚), rồi năm 1821 thì giảng Tịnh Độ Văn Loại Sao (淨土文類鈔) nhân mấy dịp An Cư; và cùng năm đó thì luận tranh với Vân Tràng (雲幢) về vấn đề an tâm. Sau ông thiết lập trường Tư Thục Nhiếp Tân Không Hoa Xã (私塾攝津空華社) ở Từ Minh Tự và tận lực giáo dưỡng học đồ. Trước tác của ông có Bổn Nguyện Thành Tựu Văn Giảng Nghĩa (本願成就文講義) 1 quyển, Dị Hành Phẩm Di Đà Chương Đề Nhĩ Lục (易行品彌陀章提耳錄) 1 quyển, Vãng Sanh Luận Chú Bát Phiên Vấn Đáp Ký Lục (徃生論註八番問答記錄) 2 quyển, v.v.
(業感): nghĩa là lấy nhân nghiệp của thiện ác mà cảm nhận quả của khổ vui. Như trong Bí Tạng Bảo Thược (秘藏寶鑰) quyển Trung do Đại Sư Không Hải (空海, Kūkai, 774-835), Tổ sáng lập ra Chơn Ngôn Tông Nhật Bản sáng tác, có đoạn rằng: “Phù tai họa chi hưng, lược hữu tam chủng, nhất thời vận, nhị thiên phạt, Tam Nghiệp cảm (夫災禍之興、略有三種、一時運、二天罰、三業感, phàm tai họa sinh khởi, tóm tắt có ba loại, một là thời vận, hai là trời phạt, ba là nghiệp cảm).” Trong Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Lược Sớ (梵網經菩薩戒略疏, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 38, No. 695) quyển 2 giải thích rằng: “Tùy nghiệp cảm báo, thân chi hình đoạn, hữu trường hữu đoản, mạng chi phân hạn, hữu thọ hữu yểu dã (隨業感報、身之形段、有長有短、命之分限、有壽有夭也, tùy theo quả báo của nghiệp cảm, hình dáng của thân, có dài có ngắn; thời hạn của mạng, có thọ có yểu vậy).” Hay trong Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ (瑜伽集要施食儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1080) lại có đoạn: “Chơn nguyên trạm tịch, nãi tội tánh chi bản không; khổ hải hồng thâm, trục vọng ba nhi bất tức; do chúng sanh chi nghiệp cảm, trí trường kiếp dĩ trầm luân; thọ báo Địa Ngục chi trung, vĩnh la khổ sở; chuyển sanh Ngạ Quỷ chi nội, trường nhẫn cơ hư; ký vô giải thoát chi kỳ, ninh hữu siêu thăng chi lộ (眞源湛寂、乃罪性之本空、苦海洪深、逐妄波而不息、由眾生之業感、致長劫以沉淪、受報地獄之中、永罹苦楚、轉生餓鬼之內、長忍饑虛、旣無解脫之期、寧有超昇之路, nguồn chơn vắng lặng, ấy tội tánh vốn là không; biển khổ rộng sâu, theo sóng mê lầm không dứt; do chúng sanh bao nghiệp cảm, chịu bao kiếp mãi đắm chìm; chịu báo Địa Ngục bên trong, mắc hoài khổ sở; chuyển sanh Ngạ Quỷ kiếp sống, chịu đựng đói khát; đã không giải thoát thời kỳ, sao có siêu thăng nẻo trước).”
(s: pañca cakṣūṃṣi, p: pañca cakkhūni, 五眼): chỉ cho 5 loại nhãn lực.
(1) Nhục Nhãn (s: māṃsa-cakṣus, 肉眼), là con mắt vốn có đầy đủ nơi nhục nhân này.
(2) Thiên Nhãn (s: divya-cakṣus, 天眼), là con mắt của người trên cõi Trời Sắc Giới (s: rūpa-dhātu, 色界), chứng đắc được nhờ có tu Thiền Định. Mắt này xa gần trước sau, trong ngoài, ban ngày hay ban đêm, trên hay dưới đều có thể thấy được.
(3) Tuệ Nhãn (s: prajñā-cakṣus, 慧眼), là con mắt của hàng Nhị Thừa, có thể biết rõ chân không vô tướng, cũng có thể quán sát các hiện tượng đều là không tướng, định tướng.
(4) Pháp Nhãn (s: dharma-cakṣus, 法眼), là con mắt của chư vị bồ tát có thể quán chiếu thấy tất cả các pháp môn để cứu độ hết thảy chúng sanh.
(5) Phật Nhãn (s: buddha-cakṣus, 佛眼), là con mắt của Phật, có đầy đủ tác dụng của 4 loại nhãn lực vừa nêu trên. Mắt này không có gì không thấy biết, cho đến không việc gì không biết, không nghe; cả nghe và thấy đều dùng hỗ tương lẫn nhau, không có tư duy nào mà không thấy được.
Các nhà Thiên Thai Tông thuyết rằng nhân vị có Nhục Nhãn, Thiên Nhãn, Tuệ Nhãn, Pháp Nhãn; và quả vị có Phật Nhãn. Trong Đại Huệ Độ Kinh Tông Yếu (大慧度經宗要, Taishō Vol. 33, No. 1697) có câu: “Lục Độ vạn hạnh ư chi viên mãn, Ngũ Nhãn vạn đức tùng thị sanh thành, Bồ Tát chi yếu tạng dã, chư Phật chi chơn mẫu dã (六度萬行於之圓滿、五眼萬德從是生成、菩薩之要藏也、諸佛之眞母也, Sáu Độ muôn hạnh nơi đây tròn đầy, Năm Nhãn muôn đức từ đây sanh thành; là kho báu của Bồ Tát, là đức mẹ của chư Phật).” Hay trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集, Taishō Vol. 48, No. 2017) quyển Trung có đoạn: “Lịch Ngũ Vị Bồ Tát chi đạo, nhập Tam Đức Niết Bàn chi thành, luyện Tam Nghiệp nhi thành Tam Luân, ly Tam Thọ nhi viên Tam Niệm; nhân tùng Tam Quán huân phát, quả cụ Ngũ Nhãn viên minh, phương năng du hí thần thông, xuất nhập bách thiên Tam Muội (歷五位菩提之道、入三德涅槃之城、練三業而成三輪、離三受而圓三念、因從三觀薰發、果具五眼圓明、方能遊戲神通、出入百千三昧, trãi qua con đường Bồ Tát Năm Vị, bước vào thành trì Niết Bàn Ba Đức, luyện Ba Nghiệp trở thành Ba Luân, lìa Ba Thọ tròn đầy Ba Niệm, nhân từ Ba Quán phát khởi, quả đủ Năm Nhãn sáng soi; mới nên dong ruỗi thần thông, ra vào trăm ngàn Tam Muội).” Trong phần Phổ Biến Văn (普變文) của Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Xuzangjing Vol. 65, No. 1277) quyển 2 cũng có câu: “Nghênh thỉnh thiên hiền vạn thánh, quy y Ngũ Nhãn Lục Thông, vọng pháp giá dĩ quang lâm, nhạ hương xa nhi hạ giáng (迎請千賢萬聖、歸依五眼六通、望法駕以光臨、迓香車而下降, nghinh thỉnh ngàn hiền vạn thánh, quy y Năm Nhãn Sáu Thần Thông, mong ngự giá pháp quang lâm, cỡi xe hương mà giáng xuống).”
(s: pañca cakṣūṃṣi, p: pañca cakkhūni, 五眼): chỉ cho 5 loại nhãn lực. (1) Nhục Nhãn (s: māṃsa-cakṣus, 肉眼), là con mắt vốn có đầy đủ nơi nhục nhân này. (2) Thiên Nhãn (s: divya-cakṣus, 天眼), là con mắt của người trên cõi Trời Sắc Giới (s: rūpa-dhātu, 色界), chứng đắc được nhờ có tu Thiền Định. Mắt này xa gần trước sau, trong ngoài, ban ngày hay ban đêm, trên hay dưới đều có thể thấy được. (3) Tuệ Nhãn (s: prajñā-cakṣus, 慧眼), là con mắt của hàng Nhị Thừa, có thể biết rõ chân không vô tướng, cũng có thể quán sát các hiện tượng đều là không tướng, định tướng. (4) Pháp Nhãn (s: dharma-cakṣus, 法眼), là con mắt của chư vị bồ tát có thể quán chiếu thấy tất cả các pháp môn để cứu độ hết thảy chúng sanh. (5) Phật Nhãn (s: buddha-cakṣus, 佛眼), là con mắt của Phật, có đầy đủ tác dụng của 4 loại nhãn lực vừa nêu trên. Mắt này không có gì không thấy biết, cho đến không việc gì không biết, không nghe; cả nghe và thấy đều dùng hỗ tương lẫn nhau, không có tư duy nào mà không thấy được. Các nhà Thiên Thai Tông thuyết rằng nhân vị có Nhục Nhãn, Thiên Nhãn, Tuệ Nhãn, Pháp Nhãn; và quả vị có Phật Nhãn. Trong Đại Huệ Độ Kinh Tông Yếu (大慧度經宗要, Taishō Vol. 33, No. 1697) có câu: “Lục Độ vạn hạnh ư chi viên mãn, Ngũ Nhãn vạn đức tùng thị sanh thành, Bồ Tát chi yếu tạng dã, chư Phật chi chơn mẫu dã (六度萬行於之圓滿、五眼萬德從是生成、菩薩之要藏也、諸佛之眞母也, sáu độ muôn hạnh nơi đây tròn đầy, năm nhãn muôn đức từ đây sanh thành; là kho báu của Bồ Tát, là đức mẹ của chư Phật).” Hay trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集, Taishō Vol. 48, No. 2017) quyển Trung có đoạn: “Lịch Ngũ Vị Bồ Tát chi đạo, nhập Tam Đức Niết Bàn chi thành, luyện Tam Nghiệp nhi thành Tam Luân, ly Tam Thọ nhi viên Tam Niệm; nhân tùng Tam Quán huân phát, quả cụ Ngũ Nhãn viên minh, phương năng du hí thần thông, xuất nhập bách thiên Tam Muội (歷五位菩提之道、入三德涅槃之城、練三業而成三輪、離三受而圓三念、因從三觀薰發、果具五眼圓明、方能遊戲神通、出入百千三昧, trãi qua con đường Bồ Tát Năm Vị, bước vào thành trì Niết Bàn Ba Đức, luyện Ba Nghiệp trở thành Ba Luân, lìa Ba Thọ tròn đầy Ba Niệm, nhân từ Ba Quán phát khởi, quả đủ Năm Nhãn sáng soi; mới nên dong ruỗi thần thông, ra vào trăm ngàn Tam Muội).” Trong phần Phổ Biến Văn (普變文) của Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Xuzangjing Vol. 65, No. 1277) quyển 2 cũng có câu: “Nghênh thỉnh thiên hiền vạn thánh, quy y Ngũ Nhãn Lục Thông, vọng pháp giá dĩ quang lâm, nhạ hương xa nhi hạ giáng (迎請千賢萬聖、歸依五眼六通、望法駕以光臨、迓香車而下降, nghinh thỉnh ngàn hiền vạn thánh, quy y năm nhãn sáu thần thông, mong ngự giá pháp quang lâm, cỡi xe hương mà giáng xuống).”
(法水): nước pháp, có hai nghĩa chính.
(1) Chỉ cho Phật pháp, vì Phật pháp có thể làm cho tiêu trừ phiền não, giống như nước có thể rửa sạch những cấu bẩn; nên có tên gọi như vậy. Như trong Vô Lượng Nghĩa Kinh (無量義經, Taishō Vol. 9, No. 276), Phẩm Thuyết Pháp (說法品) thứ 2 có giải thích rằng: “Pháp thí như thủy, năng tẩy cấu uế; nhược tỉnh, nhược trì, nhược giang, nhược hà, khê, cừ, đại hải, giai tất năng tẩy chư hữu cấu uế; kỳ pháp thủy giả, diệc phục như thị, năng tẩy chúng sanh chư phiền não cấu (法譬如水、能洗垢穢、若井、若池、若江、若河、溪、渠、大海、皆悉能洗諸有垢穢、其法水者、亦復如是、能洗眾生諸煩惱垢, pháp ví như nước, có thể rửa sạch dơ bẩn; như giếng, như hồ, như sông nhỏ, như sông lớn, khe, kênh, biển lớn, đều có thể rửa sạch các dơ bẩn; nước pháp này cũng giống như vậy, có thể rửa sạch các dơ bẩn phiền não của chúng sanh).” Hay trong bài thơ Ngọc Thạch Kệ (玉石偈) của Tô Thức (蘇軾, 1036-1101) nhà Tống có đoạn: “Nguyện dĩ pháp thủy tẩm Ma Ni, đương quán thử thạch như ngõa lịch (願以法水浸摩尼、當觀此石如瓦礫, nguyện lấy nước pháp ngâm Ma Ni, mới biết đá này như ngói sỏi).”
(2) Là loại nước có thể trừ bệnh, xua đuổi tà ma của các Đạo sĩ, thầy pháp. Như trong hồi thứ 6 của Tây Du Bổ (西遊補), tiểu thuyết thần ma tiếp theo Tây Du Ký, của Đổng Thuyết (董說, 1620-1686) nhà Minh có đoạn: “Bị Đạo sĩ nhất khẩu pháp thủy, chỉ kiến địa lập cước bất định, kính vãng Tây Nam khứ liễu (被道士一口法水、只見他立腳不定、逕往西南去了, bị Đạo sĩ phun một bụm nước pháp, chỉ thấy chân không đứng vững trên đất, theo lối tắt đi về phía Tây Nam).” Trong bài Tịnh Tam Nghiệp Văn (淨三業文) của Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 2 có câu: “Thân tâm cấu tịnh bằng pháp thủy dĩ địch trừ, phẫn hận nghiệp tiêu trượng từ phong nhi đãng khứ (身心垢淨憑法水以滌除、忿恨業消仗慈風而蕩去, thân tâm nhớp sạch nhờ nước pháp để tẩy trừ, phẫn hận nghiệp tiêu nương gió từ mà quét sạch).” Hay trong Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 1 có đoạn: “Cố năng tinh luyện Ngũ Minh, diệu thông chư bộ, ý dục vận Tây Vức chi pháp thủy, nhuận Đông Hạ chi khát ngưỡng, phán thân hứa vu hiểm nạn, vụ tồn hoằng đạo chi tâm (故能精練五明、妙通諸部、意欲運西域之法水、潤東夏之渴仰、判身許于險難、務存弘道之心, nên có thể tinh luyện Năm Minh, thông suốt các bộ, ý muốn vận dòng nước pháp của Tây Vức [Ấn Độ], thấm nhuần sự khát mong của Đông Hạ [Trung Quốc], phân thân nơi chốn hiểm nạn, chuyên giữ hoằng đạo thâm tâm).”
(三德): tức là Pháp Thân Đức (法身德), Bát Nhã Đức (般若德) và Giải Thoát Đức (解脫德). Căn cứ vào Phẩm Tựa của Kinh Đại Bát Niết Bàn, khi Phật sắp nhập diệt, các Phật tử đã chuẩn bị rất nhiều phẩm vật để dâng lên cúng dường đức Phật và chư Tăng một lần sau cuối. Những thực phẩm rất phong phú, đặc biệt có đầy đủ ba đức tính và sáu hương vị. Nghĩa là những thức ăn dâng cúng cho Phật và tăng thì phải đầy đủ 3 đức tính (yếu tố), gồm:
(1) Trong sạch, không nhơ nhớp;
(2) Mềm mại, ngon ngọt;
(3) Như pháp, tùy thời mà chế biến, làm ra đúng pháp.
Tam Đức này tượng trưng cho Ba Thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân) của Phật hoặc ba đức tướng (Trí Đức, Đoạn Đức, Ân Đức) của quả vị Phật. Từ sự kiện lịch sử này, đời sau, các chùa thường thiết lễ Cúng Ngọ và đọc câu “Tam Đức, Lục Vị, cúng Phật cập tăng, pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường (三德六味、供佛及僧、法界有情、普同供養, ba đức, sáu vị, cúng Phật cùng tăng, cùng khắp cúng dường).” Trong Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 90 có đoạn rằng: “Tại kính tắc Tam Đế viên dung, tại tâm tắc Tam Quán câu vận, tại nhân tắc Tam Đạo tương tục, tại quả tắc Tam Đức châu viên, như thị bản mạt tương thâu, phương nhập Đại Niết Bàn bí mật chi tạng (在境則三諦圓融、在心則三觀俱運、在因則三道相續、在果則三德周圓、如是本末相收、方入大涅槃祕密之藏, nơi kính thì Ba Đế viên dung, nơi tâm thì Ba Quán vận hành, nơi nhân thì Ba Đường liên tục, nơi quả thì Ba Đức tròn khắp, như vậy gốc ngọn cùng thâu, rồi nhập vào kho tàng bí mật của Đại Niết Bàn).” Hay như trong Thiền Môn Yếu Lược (禪門要略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 55, No. 908) cũng có câu: “Hựu Tam Quán thành cố tức Tam Đức mãn, Trung Quán thành tức Pháp Thân mãn, Giả Quán thành tức Bát Nhã mãn, Không Quán thành tức giải thoát mãn, Tam Đức mãn cố danh Bí Mật Tạng (又三觀成故卽三德滿、中觀成卽法身滿、假觀成卽般若滿、空觀成卽解脫滿、三德滿故名秘密藏, lại Ba Quán thành nên Ba Đức tròn, Trung Quán thành tức Pháp Thân tròn, Giả Quán thành tức Bát Nhã tròn, Không Quán thành tức giải thoát tròn, vì Ba Đức tròn nên gọi là Kho Tàng Bí Mật).” Hoặc như trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集, Taishō Vol. 48, No. 2017) quyển Trung lại có câu: “Lịch Ngũ Vị Bồ Đề chi đạo, nhập Tam Đức Niết Bàn chi thành, luyện Tam Nghiệp nhi thành Tam Luân, ly Tam Thọ nhi viên Tam Niệm (歷五位菩提之道、入三德涅槃之城、練三業而成三輪、離三受而圓三念, trãi qua con đường Bồ Đề Năm Vị, vào thành trì Niết Bàn Ba Đức, luyện Ba Nghiệp trở thành Ba Luân, lìa Ba Thọ tròn thành Ba Niệm).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập