Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Khi ý thức được rằng giá trị của cuộc sống nằm ở chỗ là chúng ta đang sống, ta sẽ thấy tất cả những điều khác đều trở nên nhỏ nhặt, vụn vặt không đáng kể.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Kỳ »»

(s: saṃbhoga-kāya, 報身): chỉ cho thân quả báo của Phật; còn gọi là Báo Phật (報佛), Báo Thân Phật (報身佛), Thọ Pháp Lạc Phật (受法樂佛); hoặc được dịch là Thọ Dụng Thân (受用身), Thực Thân (食身), Ứng Thân (應身); là một trong 3 thân (Pháp Thân, Ứng Thân và Hóa Thân) và 4 thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân và Hóa Thân) của Phật; tức là thân Phật có quả báo nhân vị vô lượng nguyện hạnh, vạn đức viên mãn. Đây cũng là thân kết quả của sự báo ứng các nguyện hạnh đầy đủ của vị Bồ Tát mới phát tâm tu tập cho đến tròn đầy Mười Địa. Như A Di Đà Phật, Dược Sư Như Lai, Lô Xá Na Phật, v.v., đều là Báo Thân Phật. Báo Thân lấy Đại Trí (大智, tức trí tuệ không phân biệt của bậc Thánh), Đại Định (大定, nghĩa là không tác ý) và Đại Bi (大悲, tâm từ bi có thể giúp cứu bạt nỗi khổ của chúng sanh) làm thể; có đầy đủ vô lượng sắc tướng, muôn công đức của Thập Lực (s: daśa-bala, p: dasa-bala, 十力, Mười Lực), Tứ Vô Úy (s: catur-vaiśāradya, p: catu-vesārajja, 四無畏, Bốn Vô Úy), v.v. Theo Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 9 cho biết rằng đức Phật co hai thân là Pháp Tánh Thân (法性身, Thân Pháp Tánh) và Phụ Mẫu Sanh Thân (父母生身, thân do cha mẹ sanh ra). Pháp Tánh Thân thì biến khắp cùng hư không, tướng hảo trang nghiêm, có vô lương hào quang sáng rực và vô lượng âm thanh. Quyển 30 cùng điển tịch này còn nêu rõ rằng đức Phật lại có hai thân là Chơn Thân (眞身) và Hóa Thân. Chơn Thân thì cùng khắp hư không, âm thanh thuyết pháp của thân này cũng biến khắp mười phương vô lượng thế giới, nhưng chỉ có vị Bồ Tát ở địa vị Thập Trụ (十住) mới có thể lấy trí lực phương tiện không thể nghĩ bàn mà nghe được. Quyển 33 lại nêu ra hai loại thân khác là Pháp Tánh Sanh Thân (法性生身) và Tùy Thế Gian Thân (隨世間身). Pháp Tánh Sanh Thân thường có vô lượng vô số không thể tính đếm các vị Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ theo hầu. Thông thường thân này chỉ cho Thật Báo Thân (實報身) của Phật. Đối với nội chứng cũng như ngoại dụng của Báo Thân, căn cứ trên nghĩa thọ dụng, Thiên Thai học giả chia Báo Thân thành Tự Thọ Dụng Báo Thân (自受用報身) và Tha Thọ Dụng Báo Thân (他受用報身); rồi căn cứ trên quốc độ cư trú của Báo Thân mà phân thành Chơn Báo Thân Độ (眞報身土) và Ảnh Hiện Báo Thân Độ (影現報身土). Chơn Báo Thân Độ chính là nơi chư vị Bồ Tát thị hiện trên mặt đất, là cõi nước Báo Thân để dùng phương tiện giáo hóa, truyền đạo. Thọ Dụng Thân (受用身) của Pháp Tướng Tông và Duy Thức Tông đồng nghĩa với thân này. Đại Thừa Đồng Tánh Kinh (大乘同性經, Taishō Vol. 16, No. 673) quyển Thượng cho rằng thành Phật nơi cõi uế độ tương đối là Hóa Thân, thành Phật nơi cõi Tịnh Độ là Báo Thân. Trong Phật Tam Thân Tán (佛三身讚, Taishō Vol. 32, No. 1678) có bài kệ về Báo Thân rằng: “Ngã kim khể thủ Báo Thân Phật, trạm nhiên an trú đại Mâu Ni, ai mẫn hóa độ Bồ Tát chúng, xứ hội như nhật nhi phổ chiếu, Tam Kỳ tích tập chư công đức, thỉ năng viên mãn tịch tĩnh đạo, dĩ đại âm thanh đàm diệu pháp, phổ linh hoạch đắc bình đẳng quả (我今稽首報身佛、湛然安住大牟尼、哀愍化度菩薩眾、處會如日而普照、三祇積集諸功德、始能圓滿寂靜道、以大音聲談妙法、普令獲得平等果, con nay cúi lạy Báo Thân Phật, sáng trong an trú đức Mâu Ni, xót thương hóa độ chúng Bồ Tát, khắp chốn như trời chiếu cùng khắp, ba đời tích tập các công đức, mới thể tròn đầy đạo vắng lặng, lấy âm thanh lớn bàn pháp mầu, khiến cho đạt được bình đẳng quả).” Hay trong Triệu Luận Lược Chú (肇論略註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 54, No. 873) quyển 5 có giải thích rằng: “Dĩ tam thế chư Phật khoáng kiếp tu nhân, chứng thử nhất tâm chi thể, danh vi Pháp Thân; dĩ thù quảng đại chi nhân, danh vi Báo Thân; tùy cơ ích vật, danh vi Hóa Thân; nhất thiết chư Phật giai cụ Tam Thân; Pháp Thân vi thể, Hóa Thân vi dụng, hữu cảm tức hiện, vô cảm tức ẩn (以三世諸佛曠劫修因、證此一心之體、名爲法身、以酬廣大之因、名爲報身、隨機益物、名爲化身、一切諸佛皆具三身、法身爲體、化身爲用、有感卽現、無感卽隱, vì ba đời các đức Phật muôn kiếp tu nhân, chứng thể nhất tâm này, nên gọi là Pháp Thân; để báo ứng nhân to lớn này, nên gọi là Báo Thân; tùy cơ duyên mà làm lợi ích muôn loài, nên gọi là Hóa Thân; hết thảy các đức Phật đều có đủ Ba Thân; Pháp Thân làm thể, Hóa Thân làm dụng, có cảm tức hiển hiện, không cảm thì ẩn tàng).” Trong Tứ Phần Luật Sưu Huyền Ký (四分律搜玄錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 41, No. 732) quyển 1 cho biết rằng: “Báo Thân danh Lô Xá Na (報身名盧舍那, Báo Thân có tên gọi là Lô Xá Na).” Vì vậy, có câu cúng dường “Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật (圓滿報身盧舍那佛).”
(八紘): hay Bát Huyền. Hoành (紘), đồng nghĩa với chữ duy (維), nghĩa là phương, góc. Thời cổ đại, người ta xem Bát Hoành là thiên hạ. Trong Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1261) quyển 3 có giải thích rõ rằng: “Hoài Nam Tử vân: 'Thiên hữu Cửu Bộ Bát Kỷ, địa hữu Cửu Châu Bát Quế; Cửu Châu chi ngoại hữu Bát Duyên, Bát Duyên chi ngoại hữu Bát Hoành; Đông Bắc phương chi hoành viết Hoang Thổ; Đông phương chi hoành viết Tang Dã; Đông Nam phương chi hoành viết Chúng An; Nam phương chi hoành viết Phản Hộ; Tây Nam phương chi hoành viết Hỏa Thổ; Tây phương chi hoành viết Ốc Dã; Tây Bắc phương chi hoành viết Sa Sở; Bắc phương chi hoành viết Ủy Vũ; cố viết tứ phương tứ giác vị chi Bát Hoành. Bát Hoành chi ngoại hữu Bát Cực; hựu Cửu Di, Bát Địch, Thất Nhung, Lục Man, vị chi Tứ Hải' (淮南子云、天有九部八紀、地有九州八桂、九州之外有八埏、八埏之外有八紘、東北方之紘曰荒土、東方之紘曰桑野、東南方之紘曰眾安、南方之紘曰反戶、西南方之紘曰火土、西方之紘曰沃野、西北方之紘曰沙所、北方之紘曰委羽、故曰四方四角謂之八紘、八紘之外有八極、又九夷、八狄、七戎、六蠻、謂之四海, Hoài Nam Tử cho rằng: 'Trời có Chín Bộ Tám Kỷ, đất có Chín Châu Tám Quế; ngoài Chín Châu có Tám Duyên, ngoài Tám Duyên có Tám Hoành; góc phương Đông Bắc gọi là Hoang Thổ; góc phương Đông gọi là Tang Dã; góc phương Đông Nam gọi là Chúng An; góc phương Nam gọi là Phản Hộ; góc phương Tây Nam gọi là Hỏa Thổ; góc phương Tây gọi là Ốc Dã; góc phương Tây Bắc gọi là Sa Sở; góc phương Bắc gọi là Ủy Vũ; cho nên bốn phương bốn góc được gọi là Tám Hoành. Ngoài Tám Hoành lại có Tám Cực; và Chín Di, Tám Địch, Bảy Nhung, Sáu Man được gọi là Bốn Biển').” Trong bài Đề Phi Vân Đình (題披雲亭) của Hy Tẩu Thiệu Đàm Thiền Sư Quảng Lục (希叟紹曇禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1390), quyển 8 có đoạn: “Đại địa hắc man man, nhật nguyệt cửu thao thao, sơn đằng liêu nhất huy, thần dữ cảnh tương hội, Bát Hoành tịnh vô trần, vạn tượng kính trung ế, thiên ngoại xuất đầu khán, tiếu phách lan can toái (大地黑漫漫、日月久韜韜、山藤聊一揮、神與境相會、八紘淨無塵、萬象鏡中翳、天外出頭看、笑擘闌干碎, đại địa tối mù mịt, trời trăng dài mênh mông, dây leo buồn rũ cánh, thần với cảnh gặp nhau, đất trời không gợn bẩn, muôn vật ảnh trong kính, ngoài trời thò đầu ngắm, cười chẻ lan can vụn).” Hay trong Hoằng Trí Thiền Sư Quảng Lục (宏智禪師廣錄, Taishō Vol. 48, No. 2001) cũng có câu: “Nhất ngôn tận thập phương, vạn quyển cai bất đắc, nhất bộ châu Bát Hoành, tứ mã truy bất cập (一言盡十方、萬卷該不得、一步周八紘、駟馬追不及, một lời khắp mười phương, muôn quyển thâu chẳng được, một bước vòng tám hướng, ngựa hay đuổi không kịp).” Trong Thiền môn, vào thời khóa Lạy Thù Ân Chúc Tán, thường có xướng câu: “Bát Huyền an hữu đạo chi trường, Tứ Hải lạc vô vi chi hóa (八紘安有道之長、四海樂無爲之化, Tám Phương yên có đạo trường tồn, Bốn Biển vui vô vi chuyển hóa).” Đặc biệt trong Đệ Nhị Thế Chiến, quân đội của Nhật Hoàng có dùng khẩu hiệu “Bát Hoành nhất vũ (八紘一宇, thế giới một nhà).” Cụm từ này được tìm thấy trong điều Thần Võ Thiên Hoàng (神武天皇), quyển 3 của Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshoki): “Yểm Bát Hoành nhi vi vũ (掩八紘而爲宇, che tám phương mà làm nhà).”
(龍華之會): hay Long Hoa Hội (龍華會), Long Hoa Tam Hội (龍華三會), Long Hoa Tam Đình (龍華三庭), Di Lặc Tam Hội (彌勒三會), Từ Tôn Tam Hội (慈尊三會), Long Hoa (龍華), tức chỉ ba hội thuyết pháp của Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒) sau khi thành đạo. Sau khi đức Phật diệt độ khoảng 56 ức 7 ngàn vạn năm (có thuyết cho là 57 ức 6 ngàn vạn năm), từ trên cung trời, Bồ Tát Di Lặc hạ sanh xuống nhân gian, xuất gia học đạo, ngồi thành chánh giác dưới gốc cây Long Hoa (s: nāga-puṣpa, 龍華樹, Mesuna roxburghii Wigh, Mesuna ferrea) trong vườn Hoa Lâm (華林), Thành Xí Đầu (翅頭城), và thuyết pháp trước sau 3 lần. Theo Tam Thế Đẳng Phẩm (三世等品) của Bồ Tát Xử Thai Kinh (菩薩處胎經) cho biết rằng trong 3 hội Long Hoa, hội thứ nhất Ngài thuyết pháp độ được 96 ức chúng sanh và truyền thọ Năm Giới của đức Thích Tôn; hội thứ hai độ được 94 ức và mọi người đều thọ trì ba pháp Quy Y; hội thứ ba độ được 92 ức và hết thảy đều niệm Nam Mô Phật. Tín ngưỡng đức Phật Di Lặc xuất thế vốn thịnh hành từ xưa cho đến nay, ai ai cũng khát ngưỡng chờ đợi sự xuất hiện của ngài để được dự vào pháp hội Long Hoa. Như trong Xuất Tam Tạng Ký Tập (出三藏記集) quyển 12, Nguyên Thủy Tập Mục Lục Tự (原始集目錄序) của Pháp Uyển Tạp Lục (法苑雜錄) có đề cập bản Tống Minh Hoàng Đế Sơ Tạo Long Hoa Thệ Nguyện Văn (宋明皇帝初造龍華誓願文), Kinh Sư Chư ấp Tạo Di Lặc Tượng Tam Hội Ký (京師諸邑造彌勒像三會記), Tề Cánh Lăng Văn Tuyên Vương Long Hoa Hội Ký (齊竟陵文宣王龍華會記), v.v. Hơn nữa, nơi bài minh sau lưng bức tượng Di Lặc do Tỳ Kheo Tăng Hân (僧欣) tạo lập vào tháng 12 năm thứ 23 (499) niên hiệu Thái Hòa (太和) nhà Bắc Ngụy có ghi lại lúc đức Phật Di Lặc xuất hiện; nguyện vọng của ông là được tái sanh làm người và trở thành vương tộc để tham dự vào hội thuyết pháp Long Hoa. Ngoài ra, pháp hội cúng dường Phật Di Lặc và Quán Phật Hội (灌佛會, Hội Tắm Phật) cũng được gọi là Long Hoa Hội. Từ xa xưa, Long Hoa Hội đã là một lễ hội rất thịnh hành được tổ chức vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch từ trong hoàng cung ra đến ngoài dân dã để kỷ niệm ngày Bồ Tát Di Lặc hạ sanh. Như trong Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記), Điều Long Hoa Hội (龍華會條) của Lương Tông Lẫm (梁宗懍, ?-?) thời Nam Triều có ghi lại rằng: “Tứ nguyệt bát nhật, chư tự các thiết hương thang dục Phật, cọng tác Long Hoa hội, dĩ vi Di Lặc hạ sanh chi chưng (四月八日、諸寺各設香湯浴佛、共作龍華會、以爲彌勒下生之徵, vào ngày mồng tám tháng tư, các chùa đều thiết hương, nước nóng tắm Phật, và tổ chức Hội Long Hoa để làm chứng cớ cho việc Bồ Tát Di Lặc hạ sanh).” Hay trong bài thơ Bồi Nguyên Thị Ngự Du Chi Hình Sơn Tự (陪元侍御遊支硎山寺) của Lưu Trường Khanh (劉長卿, ?-786?) nhà Đường có câu: “Chi công khữ dĩ cửu, tịch mịch Long Hoa Hội (支公去已久、寂寞龍華會, Ông Chi đi đã lâu, Hội Long Hoa vắng lặng).” Bên cạnh đó, trong Suy Bi Đồ (推碑圖) của Lưu Bá Ôn (劉伯溫, 1311-1375) nhà Minh cũng có câu: “Ngưu đầu thử vĩ triệt hạ tai, triêu bệnh mộ tử thậm bi ai, hữu nhân thâu đắc thiên Phật bảo, Long Hoa hộ hựu kiến đương lai (牛頭鼠尾撒下災、朝病暮死甚悲哀、有人收得天佛寶、龍華護佑見當來, đầu trâu đuôi chuột hết hung tai, sáng bệnh chiều chết quá bi ai, có người thu được báu trời Phật, Long Hoa phò hộ thấy tương lai).” Khi pháp môn sám hối thịnh hành, xuất hiện bộ Đắc Ngộ Long Hoa Tu Chứng Sám Nghi (得遇龍華修證懺儀, 4 quyển) do Sa Môn Như Tinh (如惺) của Từ Vân Tự (慈雲寺) trên Thiên Thai Sơn (天台山) soạn. Tại Thiên Vương Điện (天王殿) của Linh Ẩn Tự (靈隱寺), Hàng Châu (杭州), Tỉnh Triết Giang (浙江省) có hai câu đối về đức Phật Di Lặc rằng: “Bố Đại vô song phá nhan thùy tiếu nhĩ đẳng mạc đãi Long Hoa Tam Hội, pháp môn bất nhị đại phục năng dung lai nhân toàn bằng niệm Phật nhất tâm (布袋無雙破顔垂笑爾等莫待龍華三會、法門不二大腹能容來人全憑念佛一心, Bố Đại vô song tươi cười thương chúng các người chớ đợi Long Hoa Ba Hội, pháp môn chẳng khác bụng lớn chứa trùm kẻ đến đều nương niệm Phật nhất tâm).” Ngoài ra, tín ngưỡng Long Hoa còn được tìm thấy trong Đạo Giáo qua Tam Kỳ Phổ Độ Long Hoa Kinh (三期普度龍華經); như trong bài Hoàn Kinh Tán (完經讚) có câu: “Thiên Hoàng Ngọc Đế, phổ độ chúng sinh, Long Hoa Kinh Sám dĩ xiển minh, tín thọ nhi phụng hành, vạn sự hàm hanh, độ kiếp đắc thái bình (天皇玉帝、普度眾生、龍華經懺已闡明、信受而奉行、萬事咸亨、度劫得太平, Thiên Hoàng Ngọc Đế, độ khắp chúng sinh, Long Hoa Kinh Sám đã rõ rành, tin nhận đem tu hành, vạn sự thông hanh, vạn kiếp được thái bình).”
(s: sarva-dharma, p: sabba-dhamma, 一切法) [thuật]: tất cả các pháp, hết thảy các pháp, toàn bộ các pháp, còn có tên là nhất thiết vạn pháp (一切萬法, tất cả vạn pháp). Hết thảy các pháp là tên gọi chung bao gồm tất cả vạn hữu. Trí Độ Luận (智度論) 2 có đoạn rằng: “Nhất thiết pháp lược thuyết hữu tam chủng, nhất giả hữu vi pháp, nhị giả vô vi pháp, tam giả bất khả thuyết pháp, thử tam kỷ nhiếp nhất thiết pháp (一切法略說有三種、一者有爲法、二者無爲法、三者不可說法、此三己攝一切法, hết thảy các pháp nói tắt có 3 loại, một là pháp hữu vi, hai là pháp vô vi, ba là pháp không thể nói được, cả 3 loại này thâu tóm riêng hết thảy các pháp)”.
(s: dharma-rāja, p: dhamma-rāja, 法王): có mấy nghĩa chính. (1) Là tôn xưng của đức Phật. Vương (王) có nghĩa là tối thắng, không ai bằng, tự tại, không ngăn ngại; đức Phật là chủ tể các pháp môn, có thể giáo hóa chúng sanh một cách tự tại, nên được gọi là Pháp vương. Như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) giải thích rằng: “Phật vi pháp vương tôn siêu chúng Thánh, phổ vị nhất thiết thiên nhân chi sư (佛爲法王尊超眾聖、普爲一切天人之師, đức Phật là vua pháp, tôn kính hơn các bậc Thánh, là thầy của khắp tất cả trời người).” Hay trong Thích Ca Phương Chí (釋迦方志, Taishō Vol. 51, No. 2088) quyển Thượng cho biết thêm rằng: “Phàm nhân cực vị danh viết Luân Vương, thánh nhân cực vị danh viết Pháp Vương (凡人極位名曰輪王、聖人極位名曰法王, ngôi vị cao tột của người phàm gọi là Luân Vương, ngôi vị cao tột của bậc Thánh là Pháp Vương).” (2) Là tôn xưng của vị Bồ Tát. Căn cứ vào Kinh Hoa Nghiêm quyển 27 cho biết rằng vị Bồ Tát khi thọ chức, chư Phật lấy nước trí tuệ rưới lên đỉnh đầu để cho vị ấy đầy đủ Mười Lực của đức Phật, có thể chuyển hóa 10 con đường thiện, nên được gọi là Quán Đảnh Pháp Vương (灌頂法王). Theo Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō Vol. 11, No. 310) quyển 27, vì vị Bồ Tát có đủ 4 việc, nên được gọi là Pháp Vương. Bốn việc đó là không bỏ đạo tâm; khuyến hóa người khác phát ý; lấy gốc của các đức mà khuyên giúp đạo tâm; khiến cho hết thảy Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, các bậc Thanh Văn cũng như Duyên Giác, đạt đến nghiệp cùng tận không hoại. (3) Là tên gọi khác của vua Diêm Ma (閻魔) dưới cõi u minh. (4) Là phong hiệu vị thủ lãnh của Phật Giáo Tây Tạng. Bắt đầu từ năm 1270 (Chí Nguyên [至元] thứ 7) đời vua Thế Tổ Hốt Tất Liệt (世祖忽必烈, tại vị 1260-1271, 1271-1294) nhà Nguyên, nhà vua phong cho Bát Tư Ba (八思巴), thủ lãnh của Phái Tát Ca (薩迦派), là Đại Bảo Pháp Vương (大寶法王). Đến năm 1406 (Vĩnh Lạc [永樂] thứ 4), vua Thành Tổ (成祖, tại vị 1402-1424) nhà Minh cho mời Cáp Lập Ma (哈立麻), vị Lạt Ma thủ lãnh của Phái Ca Nhĩ Cư (迦爾居派) đến Bắc Kinh, rồi đến năm sau thì phong cho vị này là Vạn Hạnh Cụ Túc Thập Phương Tối Thắng Viên Giác Diệu Trí Tuệ Thiện Phổ Ứng Hựu Quốc Diễn Giáo Như Lai Đại Bảo Pháp Vương Tây Thiên Tự Tại Phật (萬行具足十方最勝圓覺妙智慧善普應佑國演敎如來大寶法王西天自在佛), gọi tắt là Đại Bảo Pháp Vương. Từ đó về sau, lại phân biệt phong cho các vị Lạt Ma thượng thủ của hai phái Tát Ca và Cách Lỗ (格魯) là Đại Thừa Pháp Vương (大乘法王), Đại Từ Pháp Vương (大慈法王). (5) Về phía Nhật Bản, dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara, 710-794), có Thiếu Tăng Đô Đạo Kính (道鏡, Dōkyō, ?-772), tăng sĩ của Pháp Tướng Tông, thường ra vào cung nội, được Thiên Hoàng sủng ái, ban tặng cho hiệu là Đại Thần Thiền Sư (大臣禪師). Rồi đến năm 766 (Thiên Bình Thần Hộ [天平神護] thứ 2), ông được ban cho chức vị Pháp Vương. Ngoài ra, Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi, 574-622) cũng được tôn xưng là Thánh Đức Pháp Vương (聖德法王) hay Đại Pháp Vương Hoàng Thái Tử (大法王皇太子). Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) có bài kệ Tán Phật (讚佛): “Pháp Vương vô thượng tôn, Tam Giới vô luân thất, thiên nhân chi đạo sư, Tứ Sanh chi từ phụ, ngã kim tạm quy y, năng diệt Tam Kỳ nghiệp, xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận (法王無上尊、三界無倫匹、天人之導師、四生之慈父、我今暫皈依、能滅三祇業、稱揚若讚歎、億劫莫能盡, đấng pháp vương vô thượng, Ba Cõi chẳng ai bằng, thầy dạy khắp trời người, cha lành chung Bốn Loại, con nay tạm quy y, dứt sạch nghiệp Ba Kỳ, xưng dương và tán thán, ức kiếp không cùng tận).”
(中秋節): đây là ngày Tết truyền thống của nhân dân các nước Đông Á, vốn khởi nguồn từ Trung Quốc, nhằm vào ngày rằm tháng 8 Âm Lịch hằng năm. Theo Âm Lịch Trung Quốc, tháng Tám là tháng thứ hai của mùa Thu; xưa kia gọi là Trọng Thu (仲秋); sau này dân gian gọi là Trung Thu (中秋), Thu Tịch (秋夕), Bát Nguyệt Tiết (八月節), Bát Nguyệt Bán (八月半), Nguyệt Tịch (月夕), Nguyệt Tiết (月節). Hơn nữa, do vì vào lúc này mặt trăng tròn đầy, tượng trưng cho sự đoàn viên, nên có tên là Đoàn Viên Tiết (團圓節). Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, các nước như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, v.v., cũng xem Tết Trung Thu như là ngày Tết truyền thống của quốc gia. Từ ngữ “Trung Thu” được tìm thấy sớm nhất trong các thư tịch Chu Lễ (周禮), Lễ Ký (禮記), v.v. Như trong chương Nguyệt Lịnh (月令) của Lễ Ký có ghi rằng: “Trung Thu chi nguyệt dưỡng suy lão, hành mi chúc ẩm thực (仲秋之月養衰老、行糜粥飲食, tháng của giữa Thu dưỡng tuổi già, nấu cháu kê mà ăn uống).” Từ thời nhà Đường (唐, 618-907) trở về sau, Tết Trung Thu trở thành ngày Têt cố định. Truyền thuyết cho rằng vua Đường Huyền Tông Lý Long Cơ (唐玄宗李隆基, tại vị 658-762) mộng thấy đi chơi trên cung trăng, thưởng thức nhạc trời gọi là Nghê Thường Vũ Y Khúc (霓裳羽衣曲), từ đó dân gian bắt đầu thịnh hành tập tục Tết Trung Thu. Thông thường, người ta vẫn cho rằng lễ Tết này bắt đầu thịnh hành dưới thời nhà Tống (宋, 960-1279). Đến cuối thời nhà Nguyên (元, 1271-1368), khi khởi binh, Chu Nguyên Chương (朱元璋, tại vị 1368-1398) có bí mật lấy bánh Trung Thu làm tín hiệu “bát nguyệt thập ngũ nhật sát Thát Tử (八月十五日殺韃子, ngày Rằm tháng Tám giết quân Mông Cổ)”; cho nên vào năm 1368 (Hồng Võ [洪武] nguyên niên), Chu Nguyên Chương cho lấy bánh Trung Thu làm bánh ngọt thiết đãi quần thần. Vào thời nhà Minh (明, 1368-1644) và Thanh (清, 1616-1636), Tết Trung Thu đã trở thành một trong những ngày Tết truyền thống lớn nhất của Trung Quốc. Bộ Chánh Đức Giang Ninh Huyện Chí (正德江寧縣誌) có ghi lại rằng vào đêm Trung Thu, người dân Nam Kinh thường thưởng thức trăng Thu, cả nhà cùng nhau ngắm trăng được gọi là khánh đoàn viên (慶團圓), ngồi quanh quần ăn uống vui vẻ gọi là viên nguyệt (圓月), ra ngoài đi chơi các phố phường gọi là tẩu nguyệt (走月). Một trong những truyền thuyết nổi tiếng về nguồn gốc của Tết Trung Thu là Thường Nga Bôn Nguyệt (嫦娥奔月, Thường Nga [Hằng Nga] đùa giỡn với trăng). Tương truyền từ thời cổ đại xa xưa, anh hùng bắn mặt trời là Hậu Nghệ (后羿) cưới Hằng Nga làm vợ, trở thành đế vương, thường thi hành chính sách hung bạo, ác độc. Có một hôm nọ, Hậu Nghệ xin được một bao thuốc trường sinh bất tử từ tay Tây Vương Mẫu (西王母). Hậu Nghệ mang thuốc về nhà và cất vào trong một cái hộp. Hằng Nga biết được, sợ rằng sau khi uống thuốc này vào thì Hậu Nghệ sẽ trở thành trường sinh bất tử, làm cho muôn dân càng thống khổ hơn, bèn lấy toàn bộ thuốc ấy uống sạch, sau đó biến thành tiên nữ, bay lên trên cung trăng. Bá tánh sau khi biết Hằng Nga thành tiên bay lên cung trăng rồi, thiết bàn hương án dưới mặt trăng, cầu xin tiên nữ ban cho bình an, cát tường. Vì vậy có phong tục lạy mặt trăng vào dịp Tết Trung Thu. Mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều có những tập tục trong dịp Tết Trung Thu. Tại Trung Hoa, có một số phong tục chính như ngắm trăng Trung Thu, ăn Bánh Trung Thu, treo hay rước lồng đèn, đốt tháp đồ mã, v.v. Tập tục ngắm trăng được xem như là một trong những hoạt động truyền thống vào dịp này. Trong Lễ Ký có từ “Thu mộ tịch nguyệt (秋暮夕月)”, ý là bái tế Thần Mặt Trăng; vào lúc này thì thiết hương án để nghinh đón mùa lạnh và tế mặt trăng. Như trong Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) có ghi rằng: “Trung Thu dạ, quý gia kết sức đài tạ, dân gian tranh chiếm tửu lâu ngoạn nguyệt (中秋夜、貴家結飾台榭、民間爭占酒樓玩月, vào đêm Trung Thu, nhà cao sang thì trang trí đài cao, dân gian thì tranh nhau chiếm quán rượu để ngắm trăng).” Về Bánh Trung Thu, dân gian Trung Quốc có câu rằng: “Bát nguyệt thập ngũ nhật chánh viên, Trung Thu nguyệt bính hương hựu điềm (八月十五日正圓、中秋月餅香又甜, ngày Rằm tháng Tám trăng thật tròn, ăn bánh Trung Thu hương ngọt thơm).” Trong Mộng Lương Lục (夢梁錄) của Ngô Tự Mai (吳自牧, ?-?) nhà Nam Tống cho biết rằng Bánh Trung Thu đương thời là một loại thực phẩm điểm tâm. Sau này, loại bánh này được đem dùng ăn ngắm trăng và đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào dịp lễ hội này. Đồng thời, Bánh Trung Thu cũng là lễ vật để liên lạc cảm tình giữa bằng hữu với nhau trong dịp Tết Trung Thu. Ngoài các loại bánh thông thường ra, tại Triết Giang (江浙) còn có Bánh Trung Thu Thịt Tươi (鮮肉月餅, Tiên Nhục Nguyệt Bính). Riêng tập quán đốt tháp vàng mã rất thịnh hành ở các vùng nông thôn của Phúc Kiến (福建), Giang Tây (江西), Quảng Đông (廣東), Quảng Tây (廣西), v.v. Thân của tháp được kết thành bởi những miếng gạch vỡ vụn, thân cây, cỏ bện; hình tròn, trên nhỏ dưới to, bên trong rỗng. Tại bán đảo Triều Tiên, lễ hội này được gọi là Thu Tịch (秋夕), Trọng Thu Tiết (仲秋節), Gia Bài (嘉俳), Trọng Thu (仲秋), Gia Bài Nhật (嘉俳日), Trọng Thu Giai Tiết (仲秋佳節). Nhân ngày này, người dân ở đây có phong tục thường đi tảo mộ, lấy các loại sản phẩm thu hoạch được để cúng tế tổ tiên, trở về quê thăm người thân, v.v. Đối với Nhật Bản, Tết Trung Thu được gọi là Thập Ngũ Dạ (十五夜, jūgoya), Trung Thu Danh Nguyệt (中秋の名月, chūshū-no-meigetsu), Vu Danh Nguyệt (芋の名月, imo-no-meigetsu). Người Nhật cũng có phong tục ngắm trăng gọi là nguyệt kiến (月見, tsukimi) và ăn loại bánh gọi là tsukimidango (月見團子, nguyệt kiến đoàn tử). Đặc biệt đối với Việt Nam, Tết Trung Thu đã trở thành ngày Tết long trọng của trẻ em, còn được gọi là Tết Trông Trăng hay Tết Thiếu Nhi, Tết Nhi Đồng. Trẻ em Việt Nam rất mong đợi được đón Tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước, v.v., rồi các thứ bánh như bánh nướng, bánh dẻo. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức Múa Lân, Múa Sư Tử, Múa Rồng để các em vui chơi thỏa thích. Thi sĩ Tản Đà (傘沱, 1889-1939) có làm bài thơ về Trung Thu rằng: “Có bầu có bạn can chi tủi, cùng gió cùng mây thế mới vui, rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám, tựa nhau trông xuống thế gian cười.” Hay trong bài hát Rước Đèn Tháng Tám có câu như: “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường, lòng vui sướng với đèn trong tay, em múa ca trong ánh trăng rằm, đèn ông sao với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn bướm bướm, em rước đèn này đến cung trăng, đèn xanh lơ với đèn tím tím, đèn xanh lam với đèn trắng trắng, trong ánh đèn rực rỡ muôn màu.” Tết Trung Thu là một đề tài vô cùng phong phú cho các thi hào, văn sĩ. Như trong bài Thu Tiêu Nguyệt Hạ Hữu Hoài (秋宵月下有懷) của Mạnh Hạo Nhiên (孟浩然, 689-740) nhà Đường có câu: “Thu không minh nguyệt huyền, quang thái lộ triêm thấp, kinh thước thê vị định, phi oanh quyển liêm nhập (秋空明月懸、光彩露沾濕、驚鵲棲未定、飛螢捲簾入, trời Thu trăng sáng tỏ, rực rỡ sương thấm ướt, chim khách không bến đậu, đóm bay cuộn rèm thưa).” Thi nhân Trương Cửu Linh (張九齡, 678-740) nhà Đường lại diển tả một sắc thái khác qua bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn (望月懷遠): “Hải thượng sanh minh nguyệt, thiên nhai cọng thử thời, tình nhân oán dao dạ, cánh tịch khởi tương tư (海上生明月、天涯共此時、情人怨遙夜、竟夕起相思, trên biển vừng trăng sáng, bờ trời cùng lúc này, tình nhân đêm não nuột, trọn buổi ôm tương tư).” Trong bài Bát Nguyệt Thập Ngũ Nhật Dạ Bồn Đình Vọng Nguyệt (八月十五日夜湓亭望月), thi hào Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường đã gởi gắm cả nỗi niềm hoài vọng của ông rằng: “Tích niên bát nguyệt thập ngũ dạ, Khúc Giang trì bạn hạnh viên biên, kim niên bát nguyệt thập ngũ dạ, Bồn phố sa đầu thủy quán tiền, Tây Bắc vọng hương hà xứ thị, Đông Nam kiến nguyệt kỷ hồi viên, tạc phong nhất xuy vô nhân hội, kim dạ thanh quang tợ vãng niên (昔年八月十五夜、曲江池畔杏園邊、今年八月十五夜、湓浦沙頭水館前、西北望鄉何處是、東南見月幾回圓、昨風一吹無人會、今夜清光似往年, năm xưa đêm Rằm tháng Tám ấy, cạnh hồ Khúc Giang vườn mơ thơm, năm nay đêm Rằm tháng Tám đến, sông Bồn bãi cát quán nước còn, Tây Bắc trông quê nào chốn nhỉ, Đông Nam trăng ngắm mấy lần tròn, gió thổi hôm qua đâu ai gặp, đêm nay sáng tỏ tợ năm nào).” Vương Kiến (王建, ?-?), thi nhân nhà Đường, cũng chia xẻ cùng nỗi niềm qua bài Thập Ngũ Dạ Vọng Nguyệt (十五夜望月): “Trung đình địa bạch thọ thê nha, lãnh lộ vô thanh thấp quế hoa, kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng, bất tri Thu tư lạc thùy gia (中庭地白樹棲鴉、冷露無聲濕桂花、今夜月明人盡望、不知秋思落誰家, giữa sân nền sáng quạ trên xa, sương lạnh im lìm ướt quế hoa, đêm nay trăng tỏ người ngắm trọn, nào hay Thu niệm rụng ai nhà).” Trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 30 có đoạn rằng: “Phỉ tấn phỉ tu siêu Thập Địa, vô văn vô đắc việt Tam Kỳ, Trung Thu ngọc thố đoàn đoàn thạnh, bán dạ khuê đồng toàn toàn khuy, nhập hải ba tư tham bất dĩ, nghĩ tương từ khí hoán Ma Ni (匪進匪修超十地、無聞無得越三祇、中秋玉兔團團盛、半夜圭桐旋旋虧、入海波斯貪不已、擬將瓷器換摩尼, chẳng tiến chẳng tu qua Mười Địa, không nghe không chứng vượt Ba Kỳ, Trung Thu trăng sáng tròn vành vạnh, đêm nửa ngô đồng gió vút vi, vào biển sóng cồn tham chẳng dứt, nghĩ đem đồ sứ đổi Ma Ni).” Hay trong Hoàn Khê Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (環溪惟一禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1388) quyển Thượng lại có câu: “Kiểu khiết Trung Thu nguyệt, thanh quang xứ xứ đồng (皎潔中秋月、清光處處同, sáng rực Trung Thu nguyệt, trong vắt chốn chốn cùng).”
(神煞): hay Thần Sát Tinh (神煞星), là tên gọi những ngôi sao chiếu mạng quyết định việc tốt xấu của con người. Một số sao Thần Sát thường dùng như:
(1) Thiên Ất Quý Nhân (天乙貴人), người gặp sao này thì có duyên với mọi người, với người lớn hơn mình, với người khác phái, thích xã giao.
(2) Thiên Y (天醫), người gặp sao này thì có năng lực rất mạnh như học tập, lý giải, quán sát, mô phỏng, tâm hiếu kỳ, tâm nghiên cứu, trực giác, v.v.
(3) Thiên Đức (天德), người gặp sao này thì có tài trí mưu lược xuất sắc, tâm vinh dự cao, năng lực lớn, phàm mọi việc gặp hung dữ hóa thành tốt, được quý nhân giúp đỡ.
(4) Nguyệt Đức (月德), người gặp sao này thì có duyên với mọi người, xã giao, tâm cung kính, tâm trách nhiệm, năng lực thích ứng cao.
(5) Nguyệt Đức Hợp (月德合), người gặp sao này thì có năng lực quán sát, đối ứng, bàn chuyện kinh doanh rất mạnh.
(6) Phước Tinh (福星), người gặp sao này thì trong đời này có tiền tài dư dật, kinh tế không bao giờ gặp nguy cơ, có quý nhân giúp đỡ, thường có phước, có năng lực làm thân, kết duyên lành với mọi người.
(7) Văn Xương (文昌), người gặp sao này thì có năng lực viết lách, văn nghệ, học tập.
(8) Tam Kỳ Quý (三奇貴), người gặp sao này thì có năng lực học tập tinh chuyên, sức tập trung mạnh, đầu óc làm việc linh mẫn, cơ trí nhạy bén, dễ thành nhân tài có kỹ năng chuyên nghiệp, như công trình sư, nhà tư vấn, v.v.
(9) Lục Tú (六秀), là ngôi sao có năng lực viết văn trác việt, người gặp sao này thì có năng lực học tập, tư duy rất mạnh, thuộc nhà nghệ thuật ở trạng thái tĩnh như họa sĩ, nhà thư pháp, sáng tác khúc từ, v.v.
(10) Thập Linh Nhật (十靈日), là ngôi sao thuộc về tôn giáo, người gặp sao này thì có trực giác linh nhuệ, khéo quán sát lời nói, nhìn sắc mặt người, năng lực lãnh ngộ, khéo hiểu ý người, v.v.
(11) Khôi Cương (魁罡), người gặp sao này thì về ăn uống nên thận trọng, chớ ăn thịt bò, chó; duyên hôn nhân rắc rối, tai tiếng, có đủ tinh thần độc lập tự chủ, năng lực tổ chức mạnh.
(12) Học Đường (學堂), người gặp sao này thì có năng lực bắt chước, sáng tác, tưởng tượng, lý giải.
(13) Học Sĩ (學士), người gặp sao này thì có tâm nghiên cứu, lòng hiếu kỳ, muốn tìm hiểu, có năng lực học thuộc lòng, nhớ dai.
(14) Kim Quỹ (金匱), người gặp sao này thì có đầy đủ năng lực sáng tác, lãnh ngộ, cầm quyền, quyết đoán, quy hoạch.
(15) Tấn Thần (進神), người gặp sao này thì có ý thức chủ quan rất mạnh, kiêu ngạo, tự phụ, không chịu phục tùng bất cứ ai, nóng nảy.
(16) Lộc Thần (祿神), người gặp sao này thì có thân thể tráng kiện, tinh thần vững mạnh, sức chiến đấu bền bỉ, cả hai vợ chồng đều tạo nên sự nghiệp vẻ vang.
(17) Bối Lộc (背祿), đại diện cho những người xem thường tổ tiên, ly hương biệt xứ, không được hưởng phúc ấm của tổ tông.
(18) Kiến Lộc (建祿:代表建功立業白手自足,不得雙視庇蔭,不宜合夥生意), đại diện cho những người tạo công lập nghiệp tay trắng một mình, không được phúc ấm của song thân.
(19) Chuyên Lộc (專祿), đại diện cho những người thân thể tráng kiện, tinh thần vững mạnh, sức chiến đấu bền bỉ, cả hai vợ chồng đều tạo nên sự nghiệp vẻ vang.
(20) Quy Lộc (歸祿), đại diện cho những người giao tế rộng rãi, tài lộc đầy đủ, tránh chuyện vay mượn, có thể tránh kiện tụng.
(21) Hoa Cái (華蓋), người gặp sao này thì có tâm cầu học, tự động tìm tòi, tự ngộ để đạt đến kết quả cao, có thiên tánh về mỹ thuật, thiết kế, trang hoàng, âm nhạc; về phương diện văn học thì rất hứng thú và có thiên tài; đây là ngôi sao chỉ chuyên về nghệ thuật, tôn giáo, nên có tánh nghiên cứu, muốn tìm cầu, năng lực học tập, tính chất mẫn cảm.
(22) Cô Thần (孤辰), người gặp sao này thì có tánh cách cô đơn, trầm mặc, không nói nhiều, tâm trong sạch, ít ham muốn, thường an phận, không có tâm cầu tiến.
(23) Quả Tú (寡宿), người gặp sao này thì có duyên với người khác phái rất ít, duyên hôn nhân cũng mong manh, chủ nghĩa độc thân.
(24) Nguyên Thần (元辰), là sao hao tổn, miệng tiếng.
(25) Kim Dư (金輿), là sao về tài của cùng với quan hệ phối ngẫu, được hỗ trợ về chuyện phối ngẫu, kỹ thuật.
(26) Kim Tinh (金星), người gặp sao này thì anh minh, trí tuệ, dũng cảm, quả quyết, kiên nhẫn, cương nhu đều có đủ, chú trọng vinh dự, quyền uy.
(27) Thiên Xá (天赦), người gặp sao này thì một đời bị kiện tụng cửa quan, lao ngục, tai hại ngoài ý muốn, một đời thường đều có thể gặp xấu hóa tốt, có kinh động nhưng không nguy hiểm.
(28) Phước Tinh (福星), người gặp sao này thì có quý nhân tương trợ, kinh tế phát triển, một đời tài lộc, ăn uống sung túc, có duyên xã giao, năng lực kết duyên lành.
(29) Tướng Tinh (將星), người gặp sao này thì hiển đạt về quan quyền, có thể nắm quyền bính trong tay, có năng lực quản lý, quyết đoán, cơ trí.
(30) Dịch Mã (驛馬), là sao đổi dời, đi xa, biến động.
(31) Âm Dương Sát (陰陽煞), người gặp sao này thì nên tiến hành duyên hôn nhân chậm, không nên sớm, mới có thể trừ được lo âu thay đổi chuyện hôn nhân, nên thận trọng trong việc giao tế với người khác phái, mới có thể tránh được chuyện thị phi, tranh giành.
(32) Kiếp Sát (劫煞), người gặp sao này thì có cơ trí linh mẫn, phản ứng nhạy bén, tâm háo thắng.
(33) Quải Kiếm Sát (掛劍煞), người gặp sao này thì dễ mắc phải các bệnh tật về gân cốt, đường ruột, cơ quan vận động, v.v., hằng ngày nên đề phòng các vật kim loại bén nhọn, vật nguy hiểm gây thương tích; dễ bị thương tích đánh đập, ngã quỵ, té xuống đất.
(34) Câu Giao (勾絞), là sao phiền phức về chuyện cảm tình, hôn nhân.
(35) Đào Hoa (桃花), đại diện cho sức hấp dẫn, thu hút, năng lực thưởng thức, trang sức, có duyên xã giao.
(36) Thiên Hỷ (天喜), là sao vui sướng, như ý, có cảm giác thâm sâu, năng lực hòa đồng, tình người.
(37) Hồng Diễm (紅艷), là sao nghệ thuật lãng mạn, có đủ năng lực thưởng thức, thiết kế trang phục, trang hoàng, có duyên với người khác phái.
(38) Hồng Loan (紅鸞), người gặp sao này thì có duyên với người khác phái, tư tưởng lãng mạn, có năng lực phối hợp sắc màu nghệ thuật tranh tĩnh vật.
(39) Lưu Hà (流霞), người gặp sao này thì trong quá trình sinh sản dễ gặp nguy hiểm, lưu sản, dễ mắc bệnh tuần hoàn huyết dịch về tim mạch.
(40) Vong Thần (亡神), là sao ẩn tàng, không lộ hiện tung tích, người gặp sao này thì giỏi về mưu lược, vui, buồn, tức giận đều không thể hiện ra ngoài sắc mặt.
(41) Dương Nhận (羊刃), là sao về chức võ, chủ yếu người gặp sao này thì có tâm háo thắng, không chịu khuất phục, dõng mãnh, đảm đương, lanh lẹ.
(42) Huyết Nhận (血刃), là sao thương tích ngoài ý muốn, bất ngờ, người gặp sao này thì hằng ngày nên thận trọng về bỏng lửa, thương tích đánh đập, các vật kim loại, bén nhọn, chú ý về giao thông.
(43) Phi Nhận (飛刃), là sao gặp công kích bất ngờ, tranh tụng, thị phi.
(44) Cách Giác (隔角), là sao chủ về việc kiện tụng cửa quan, miệng tiếng, thị phi; nếu gặp Hình Xung (刑沖) thì ắt sẽ có tai họa về kiện tụng, lao ngục.
(45) Không Vong (空亡), kim loại rỗng thì kêu to, lửa trống thì sẽ phát lớn, cây rỗng thì mục, đất rỗng thì lỡ sụt; người gặp sao này thì vô duyên với thân thích, nên tinh tấn tu hành.
Ngoài ra, còn có 12 ngôi sao Thần Sát, được gọi là Lưu Niên Tuế Số Thập Nhị Thần Sát (流年歲數十二神煞), lưu hành trong 12 tháng, gồm:
(1) Thái Tuế (太歲), có câu kệ rằng: “Thái Tuế đương đầu tọa, chư thần bất cảm đương, tự thân vô khắc hại, tu dụng khốc đa dương (太歲當頭坐、諸神不敢當、自身無剋害、須用哭爹娘, Thái Tuế ngay đầu tọa, các thần chẳng dám chường, tự thân không nguy hại, nên thương khóc mẹ cha).” Sao này có công năng đè ép các sao Thần Sát, người gặp sao này nếu gặp vận thì xấu nhiều tốt ít, chủ yếu gặp tai nạn bất trắc, nên làm việc phước thiện.
(2) Thái Dương (太陽), có câu kệ rằng: “Thái Dương cát tinh chiếu, cầu tài ngộ trân bảo, âm dương hữu hòa hợp, định cảm phước lai bảo (太陽吉星照、求財遇珍寶、陰陽有和合、定感福來保, Thái Dương sao tốt chiếu, cầu tài gặp của báu, âm dương có hòa hợp, tất có phước đến nhà).” Người gặp sao này chủ yếu chiếu sáng hóa tốt, lấy lễ đãi người, thông minh cần mẫn, có chuyện vui giáng lâm.
(3) Tang Môn (喪門), câu kệ là: “Tang Môn tối vi hung, hiếu phục trùng trùng phùng, phá tài tinh ngoại hiếu, nùng huyết kiến tai nghinh (喪門最爲凶、孝服重重逢、破財幷外孝、濃血見災迎, Tang Môn thật rất hung, tang phục lại trùng phùng, phá tài thêm bất hiếu, máu chảy thấy tai ương).” Người gặp sao này chủ yếu có đám tang, khóc lóc, hiếu sự hay hung tai, bị trộm cướp, con nhỏ sợ bị mất mạng vì xe cộ.
(4) Thái Âm (太陰), câu kệ là: “Thái Âm nhập mạng lai, thiêm hỷ hựu tấn tài, quý nhân tương tiếp dẫn, canh tác ngộ tài phong (太陰入命來、添喜又進財、貴人相接引、耕作遇財豐, Thái Âm gặp mạng này, thêm vui lại có tài, quý nhân thường giúp đỡ, canh tác gặp của hay).” Sao này chủ yếu tích tụ tài của hoặc thuộc loại ngũ quỷ đem tài của đến, người gặp sao này kinh doanh rất tốt, mỗi ngày càng phát tài, rất hợp với người nữ.
(5) Quan Phù (官符), có câu kệ là: “Quan Phù nhập mạng hung, khẩu thiệt quan ty trùng, phá tài kiêm ngoại hiếu, tác phước đảo thương cùng (官符入命凶、口舌官司重、破財兼外孝、作福禱蒼窮, Quan Phù gặp mạng hung, miệng tiếng chốn quan trường, phá tài thêm bất hiếu, làm phước cầu khắp cùng).” Người gặp sao này thường gặp kẻ tiểu nhân, tất gây ồn ào nơi cửa quan, chọn bạn nên cẩn thận, nên khuyên kẻ tiểu nhân làm phước.
(6) Tử Phù (死符), bài kệ rằng: “Tử Phù nhập mạng lai, hiếu phục trùng trùng phùng, phụ mẫu thê nhi khắc, tác phước miễn tai ương (死符入命來、孝服重重逢、父母妻兒剋、作福免災殃, Tử Phù gặp mạng đây, tang phục lại chất chồng, mẹ cha vợ con khắc, làm phước miễn tai ương).” Sao này chủ yếu có tai họa đột xuất như hình phạt của quan ty, bệnh tật, tranh đấu, phá tài, v.v. Người gặp sao này nên thận trọng khi đi băng qua khe nước, nên tìn đường vòng mà đi.
(7) Tuế Phá (歲破), bài kệ rằng: “Tuế Phá nhập mạng lai, nhật nguyệt phá tiền tài, lục súc hữu tổn thất, hợp gia vĩnh vô tai (歲破入命來、日月破錢財、六畜有損失、合家永無災, Tuế Phá gặp mạng đây, trời trăng phá tiền tài, gia súc có tổn thất, cả nhà hết ương tai).” Tuế Phá có nghĩa là xung phá Thái Tuế, chủ yếu làm hao phá tài vật cũng như trong nhà nhiều tai họa kéo dài trong nữa năm.
(8) Nguyệt Đức (月德), bài kệ rằng: “Nguyệt Đức nhập mạng lai, tứ quý tấn hoành tài, tại gia dã vô sự, xuất lộ dã vô tai (月德入命來、四季進橫財、在家也無事、出路也無災, Nguyệt Đức gặp mạng đây, bốn mùa thêm tiền tài, trong nhà cũng vô sự, ra đường chẳng hung tai).” Sao này chủ yếu là đức của người lớn, được gọi là Long Đức (龍德), nhờ bố thí, làm việc thiện tạo lợi lạc, trăm việc gặp xấu hóa thành tốt.
(9) Bạch Hổ (白虎), bài kệ rằng: “Bạch Hổ khiếu nhai nhai, nhân đinh tổn huyết tài, ngưu sự tài quá khứ, mã sự hựu tấn lai (白虎叫涯涯、人丁損血財、牛事才過去、馬事又進來, Bạch Hổ kêu hoài hoài, người thêm tổn tiền tài, chuyện trâu về quá khứ, chuyện ngựa lại về đây).” Sao này chủ yếu có tai họa về tang lễ, phá tài, họa về xe cộ, thương tật; nếu có hóa giải thì sẽ nhẹ bớt; nếu không hóa giải thì quá xấu.
(10) Phước Đức (福德), bài kệ rằng: “Phước Đức nhập mạng du, niên nguyệt tấn tứ ngưu, thiêm hộ tinh tấn khẩu, tài hỷ lưỡng toàn chu (福德入命遊、年月進四牛、添戶並進口、財喜兩全週, Phước Đức đến mạng chơi, năm tháng tăng bò trâu, thêm nhà lại thêm người, tài vui cả hai tròn).” Sao này chủ yếu tốt đẹp, hanh thông, vui vẻ, có thiên tướng, được trời phù hộ, đến đâu gặp xấu hóa tốt, đại thành công.
(11) Điếu Khách (吊客), bài kệ rằng: “Điếu Khách nhập mạng hung, nội ngoại hiếu phục phùng, quan tai tinh nùng huyết, tiểu khẩu đa tao độn (吊客入命凶、內外孝服逢、官災並濃血、小口多遭迍, Điếu Khách đến mạng hung, trong ngoài tang phục chung, tai vạ máu loang chảy, thận trọng miệng tiếng tăm).” Sao này chủ yếu về tang phục, chuyện hung tai, bệnh tật, lo buồn khóc than, trộm cắp, tai nạn về cốt nhục.
(12) Bệnh Phù (病符), bài kệ rằng: “Bệnh Phù nhập mạng hung, hiếu phục trùng trùng phùng, phụ phục hữu hình khắc, tác phước miễn tai ương (病符入命凶、孝服重重逢、父服有刑剋、作福免災殃, Bệnh Phù đến mạng hung, tang phục lại trùng phùng, thân phụ mang hình phạt, làm phước miễn tai ương).” Sao này chủ yếu bệnh kéo dài lâu, trong một năm hay vài tháng, kỵ thấy xe tang hoặc ăn các đồ tang lễ, nên cúng tế thì có thể giải được.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập