Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tâm Địa »»

(s: Prajñā, 般若, 734-?): tức Bát Nhã Tam Tạng (般若三藏), vị cao tăng dịch kinh dưới thời nhà Đường, còn gọi là Bát Lạt Nhã (般剌若); xuất thân người nước Ca Tất Thí (迦畢試, Kế Tân [罽賓]), họ là Kiều Đáp Ma (喬答摩). Năm lên 7 tuổi, ông xuất gia, đến 20 tuổi thì thọ Cụ Túc Giới. Năm 23 tuổi, ông đến Na Lan Đà Tự (娜爛陀寺) ở miền trung Ấn, nương theo ba vị đại luận sư Trí Hộ (智護), Tấn Hữu (進友), Trí Hữu (智友), chuyên nghiên cứu về Duy Thức, Du Già, Trung Quán, Kim Cang Kinh, Ngũ Minh, v.v. Sau đó, ông lên thuyền chu du khắp các nước vùng Nam Hải, vào năm 781 (Kiến Trung [建中] 2) đời vua Đức Tông (德宗, tại vị 779-805) nhà Đường, ông đến Quảng Châu, rồi vào kinh đô Trường An. Vào năm 788 (Trinh Nguyên 4), ông dịch được Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh (大乘理趣六波羅密多經) 10 quyển. Đến tháng 7 năm 790, ông phụng sắc chỉ theo sứ sang nước Ca Thấp Di La (s: Kaśmīra, p: Kasmīra, 迦濕彌羅). Không bao lâu sau, ông được ban cho hiệu Bát Nhã Tam Tạng và Tử Y. Về sau, ông còn dịch thêm một số kinh điển khác như Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), Tứ Thập Hoa Nghiêm (四十華嚴), Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經), Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà La Ni Kinh (守護國界主陀羅尼經), v.v.
(s: pattra, p: patta, 貝葉): Lá Bối, âm dịch là Bối Đa La (貝多羅), gọi tắt là Bối Diệp, Bối Đa (貝多), là lá của loại cây Đa La (多羅, Corypha umbraculifera). Lá của nó dài và rộng, khắc chữ lên lá bằng bút sắt thì rất thích hợp. Trước khi phát minh ra giấy, dưới thời cổ đại Ấn Độ, người ta dùng loại lá cây này thay thế giấy để viết các văn thư, kinh điển và bảo tồn có thể kéo dài đến cả trăm năm. Từ đó, Bối Diệp chỉ cho quyển kinh. Kinh điển được viết trên Lá Bối xuất hiện đầu tiên tại Ấn Độ, sau khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, các thư tịch này cũng được lưu truyền. Hiện tại, ở các tự viện thuộc tỉnh Vân Nam cũng như Tây Tạng vẫn còn bảo trì một số lượng rất lớn loại kinh văn Lá Bối này. Như trong bài Sơn Cư (山居) của Tử Bá Lão Nhân Tập (紫柏老人集, CBETA No. 1452) quyển 26 có đoạn: “Bạch nhật lai tham phục hổ Thiền, nạp y thùy cọng nhiễm hương yên, phong trần hữu lộ thông tâm địa, thủy nguyệt vô nhân vấn tánh thiên, không tưởng huyền am phiên bối diệp, diêu tri lôi vũ hộ kim điền, lãnh lãnh tùng hạ thính hàn lãng, vạn kiếp tình căn nhất sái nhiên (白日來參伏虎禪、衲衣誰共染香煙、風塵有路通心地、水月無人問性天、空想玄菴翻貝葉、遙知雷雨護金田、冷冷松下聽寒浪、萬劫情根一洒然, cọp quỳ ban ngày tham vấn Thiền, rách y ai nhuộm khói hương thêm, phong trần có nẻo thông tâm địa, trăng nước không người hỏi tánh thiên, không tưởng am huyền phiên kinh điển, xa hay mưa sấm giúp ruộng vàng, buốt giá cội tùng nghe sóng lạnh, muôn kiếp tình căn rửa sạch liền).” Hay như trong Tây Nham Liễu Huệ Thiền Sư Ngữ Lục (西巖了慧禪師語錄, CBETA No. 1391) cũng có câu: “Hồ tăng phiên bối diệp, Vương Lão tước sanh khương (胡僧翻貝葉、王老嚼生薑, Rợ tăng dịch kinh điển, Vương Lão nhấm gừng non).”
(古心如磬, Koshin Nyokei, 1541-1615): vị tăng Luật Tông Trung Quốc, sống dưới thời nhà Minh, tổ của Phái Cổ Lâm (古林派), xuất thân Lật Thủy (溧水), Giang Tô (江蘇), họ Dương (楊), tự là Cổ Tâm (古心). Lúc còn nhỏ tuổi, ông đã mất cha, được mẹ nuôi khôn lớn. Vào năm thứ 31 (1552) niên hiệu Gia Tĩnh (嘉靖), mẹ lại qua đời, ông cảm nhận được lý vô thường của cuộc đời, nên đến năm thứ 10 (1582, có thuyết cho là trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Tĩnh) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), ông theo xuất gia với Tố An (素安) ở Thê Hà Tự (棲霞寺), Nhiếp Sơn (攝山). Sau nhân đọc Phẩm Trú Xứ Bồ Tát trong Kinh Hoa Nghiêm, ông thệ nguyện thọ giới với Bồ Tát Văn Thù (文殊), bèn đến Ngũ Đài Sơn (五臺山), suốt đêm thành tâm cầu nguyện. Cho đến một hôm, trong khi hoảng hốt, ông được một lão bà ban cho y Tăng Già Lê (僧伽黎), nhìn thấy ra là Bồ Tát, liền đốn ngộ pháp môn tâm địa của 5 thiên, 3 tụ, cảm thấy luật của Đại Thừa và Tiểu Thừa đều từ trong ngực lưu xuất ra. Giữa đường khi trở về cố hương, ông đi qua Nam Kinh (南京), tình cờ gặp lúc ngôi tháp ở Trường Can Tự (長干寺, tức Báo Ân Tự [報恩寺]) đang được tu sửa, ông lưu trú tại đây và được gọi là Ưu Ba Ly (優波離) tái lai. Ông từng sống qua các chùa như Linh Cốc (靈谷), Thê Hà (棲霞), Cam Lồ (甘露), v.v.; khai đàn truyền giới hơn 30 nơi, và có khoảng hơn vạn người theo thọ giáo với ông. Vào năm thứ 41 (1613) niên hiệu Vạn Lịch, vua Thần Tông ban cho ông Tử Y, bình bát, tích trượng với hiệu là Huệ Vân Luật Sư (慧雲律師), và mời ông thiết lập Đại Hội Long Hoa (龍華大會) tại Thánh Quang Vĩnh Minh Tự (聖光永明寺) trên Ngũ Đài Sơn. Trước tác của ông có Kinh Luật Giới Tướng Bố Tát Quỹ Nghi (經律戒相布薩軌儀) 1 quyển. Ông thị tịch vào tháng 11 năm thứ 43 niên hiệu Vạn Lịch, hưởng thọ 75 tuổi. Pháp hệ của ông được gọi là Phái Cổ Lâm.
(s: maṇḍa, sarpir-maṇḍa, p: maṇḍa, sappi-maṇḍa, 醍醐):
(1) chỉ loại dầu tinh chất được chế thành từ ván sữa; màu vàng trắng, đem làm bánh, rất ngọt và béo;
(2) chỉ cho một loại rượu ngon;
(3) là một trong 5 vị, tức sữa, cạo sữa, ván sữa sống, ván sữa chín và đề hồ; nên có tên gọi là Đề Hồ Vị (醍醐味);
(4) vì Đề Hồ là vị ngon nhất trong các loại sữa, nên Phật Giáo dùng để chỉ Niết Bàn, Phật tánh, giáo lý chân thật. Trong kinh điển Hán dịch của Phật Giáo Trung Quốc thời kỳ đầu, Đề Hồ có nghĩa là “bản chất, tinh túy.”
Ngoài ra, Đề Hồ còn được dùng như là một phương thuốc chữa bệnh; như trong chương Tây Vức (西域) của Ngụy Thư (魏書) có đoạn: “Tục tiễn phát tề mi, dĩ Đề Hồ đồ chi, dục dục nhiên quang trạch, nhật tam tháo thấu, nhiên hậu ẩm thực (俗剪髮齊眉、以醍醐塗之、昱昱然光澤、日三澡漱、然後飲食, có tục lệ cắt tóc xén lông mày, lấy đề hồ thoa lên, hong nắng ánh sáng, một ngày tắm giặt ba lần, sau đó mới ăn uống).” Quyển 596 của Toàn Đường Văn (全唐文), bài Tống Thái Chiểu Hiếu Liêm Cập Đệ Hậu Quy Mân Cận Tỉnh Tự (送蔡沼孝廉及第後歸閩覲省序) của Âu Dương Chiêm (歐陽詹, 756-798) lại có đoạn rằng: “Phanh nhũ vi đề hồ, đoán kim vi càn tương, dự kỳ phanh đoán dĩ biến hóa (烹乳爲醍醐、鍛金爲乾將、予期烹鍛以變化, nấu sữa thành Đề Hồ, nung vàng làm kiếm tốt, chờ đợi lúc nấu và rèn biến hóa).” Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh (大乘理趣六波羅蜜多經) quyển 1 có giải thích rằng: “Khế Kinh như nhũ, điều phục như lạc, Đối Pháp Giáo giả như bỉ sanh tô, Đại Thừa Bát Nhã do như thục tô, Tổng Trì Môn giả thí như Đề Hồ. Đề Hồ chi vị, nhũ, lạc, tô trung vi diệu đệ nhất, năng trừ chư bệnh, linh chư hữu tình thân tâm an lạc. Tổng Trì Môn giả, Khế Kinh đẳng trung tối vi đệ nhất, năng trừ trọng tội, linh chư chúng sanh giải thoát sanh tử, tốc chứng Niết Bàn an lạc pháp thân (契經如乳、調伏如酪、對法敎者如彼生酥、大乘般若猶如熟酥、總持門者譬如醍醐。醍醐之味、乳、酪、酥中微妙第一、能除諸病、令諸有情身心安樂。總持門者、契經等中最爲第一、能除重罪、令諸眾生解脫生死、速證涅槃安樂法身, Khế Kinh như sữa, điều phục như cạo sữa, giáo lý Đối Pháp giống như ván sữa sống, Bát Nhã Đại Thừa như ván sữa chín, Tổng Trì Môn ví như Đề Hồ. Vị của Đề Hồ vi diệu số một trong các loại sữa, cạo sữa, ván sữa; có thể trừ các bệnh, khiến cho thân tâm chúng hữu tình được an lạc. Tổng Trì Môn là số một trong Khế Kinh, v.v., có thể trừ các tội nặng, khiến các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, pháp thân an lạc).” Do vì Đề Hồ được xem như là giáo lý tối thượng, Phật tánh, v.v.; cho nên xuất hiện thuật ngữ “Đề Hồ Quán Đảnh (醍醐灌頂)” để ví dụ cho việc lấy giáo pháp tối thượng giúp người hành trì để chuyển hóa vô minh, phiền não và đạt được mát mẻ, an lạc. Như trong bài thơ Hành Lộ Nan (行路難) của Cố Huống (顧況, 725-814) có câu: “Khởi tri quán đảnh hữu Đề Hồ, năng sử thanh lương đầu bất nhiệt (豈知灌頂有醍醐、能使清涼頭不熱, sao biết quán đảnh có Đề Hồ, thể khiến mát trong không nóng).” Hay trong bài Ta Lạc Phát (嗟落髮) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) cũng có câu: “Hữu như Đề Hồ quán, tọa thọ thanh lương lạc (有如醍醐灌、坐受清涼樂, lại như rưới Đề Hồ, ngồi thọ vui mát mẻ).” Lại như trong bài Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh Tự (大乘本生心地觀經序) của vua Hiến Tông (憲宗, tại vị 805-820) nhà Đường có đoạn: “Tỉ phi duyệt chi giả Cam Lồ sái ư tâm điền, hiểu ngộ chi giả Đề Hồ lưu ư tánh cảnh (俾披閱之者甘露灑於心田、曉悟之者醍醐流於性境, người đọc kỹ nó như Cam Lồ rưới nơi ruộng tâm, người hiểu ngộ được nó như Đề Hồ chảy vào cảnh giới tánh).” Bên cạnh đó, trong bài Thật Tế Tự Cố Tự Chủ Hoài Uẩn Phụng Sắc Tặng Long Xiển Đại Pháp Sư Bi Minh (實際寺故寺主懷惲奉敕贈隆闡大法師碑銘) của Đổng Hạo (董浩) nhà Thanh cũng có đoạn: “Tri dữ bất tri, ngưỡng Đề Hồ ư cú kệ, thức dữ bất thức, tuân pháp nhũ ư ba lan (知與不知、仰醍醐於句偈、識與不識、詢法乳於波瀾, biết và không biết, kính Đề Hồ từng câu kệ, hiểu và không hiểu, tin sữa pháp nơi sóng cả).” Ngay như trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 31 có câu: “Na Sa Tăng nhất văn Tôn Ngộ Không tam cá tự, tiện hảo tợ Đề Hồ quán đảnh, Cam Lồ tư tâm (那沙僧一聞孫悟空三個字、便好似醒醐灌頂、甘露滋心, Sa Tăng một khi nghe được ba chữ Tôn Ngộ Không, tức thì giống như nước Đề Hồ rưới đầu, Cam Lồ rửa tâm).” Trong bài tán Kinh Pháp Hoa cũng có đề cập đến Đề Hồ như: “Hầu trung Cam Lồ quyên quyên nhuận, khẩu nội đề hồ đích đích lương (喉中甘露涓涓潤、口內醍醐滴滴涼, dưới cổ Cam Lồ rả rích nhỏ, trong miệng Đề Hồ giọt giọt tươi).”
(頓悟): không trãi qua giai đoạn thứ tự, chứng ngộ nhanh chóng và khai mở tâm địa; đối nghĩa với tiệm ngộ (漸悟, chứng ngộ dần dần theo từng giai đoạn). Tác phẩm Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận (頓悟入道要門論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1223) định nghĩa rằng: “Vân hà vi đốn ngộ ? Đáp: 'Đốn giả, đốn trừ vọng niệm; ngộ giả, ngộ vô sở đắc' (云何爲頓悟、答、頓者、頓除妄念、悟者、悟無所得, Thế nào là đốn ngộ ? Đáp: 'Đốn tức là nhanh chóng dứt trừ vọng niệm, ngộ là ngộ cái không đạt được').” Trong Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh (大方廣圓覺修多羅了義經, Taishō Vol. 17, No. 842) cho biết rằng: “Thị kinh danh vi Đốn Giáo Đại Thừa, đốn cơ chúng sanh tùng thử khai ngộ (是經名爲頓教大乘、頓機眾生從此開悟, kinh này có tên gọi là Giáo Lý Đốn Ngộ Đại Thừa, chúng sanh có căn cơ đốn ngộ từ đây mà khai ngộ).” Như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Ngữ Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 19, phần Khai Thị Kệ (開示偈), bài Thị Tề Bảo Minh Cư Sĩ (示齊寶明居士), có câu: “Đốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng, tùng tha phiền não dữ bồ đề, tam xan trà phạn tùy thời quá, vô sự thâm sơn thính điểu đề (頓悟心源開寶藏、從他煩惱與菩提。三餐茶飯隨時過、無事深山聽鳥啼, đốn ngộ nguồn tâm bày kho báu, từ kia phiền não với bồ đề, ba bữa trà cơm tùy thời độ, vô sự núi sâu chim hót nghe).” Hay trong Bát Nhã Tâm Kinh Chú Giải (般若心經註解, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 26, No. 573) lại có đoạn rằng: “Thân kiến bản lai diện mục, đốn ngộ vô sanh, tiện đăng bỉ ngạn, nhất đắc vĩnh đắc, nhất ngộ vĩnh ngộ, cánh bất phục sanh, luân hồi vĩnh tức, sanh tử vĩnh đoạn (親見本來面目、頓悟無生、便登彼岸、一得永得、一悟永悟、更不復生、輪迴永息、生死永斷, thấy rõ mặt mũi xưa nay, đốn ngộ vô sanh, bèn lên bờ kia, đx chứng mãi chứng, đã ngộ mãi ngộ, lại không sanh nữa, luân hồi chấm dứt, sanh tử mãi đoạn).”
(覺華、覺花): hay Giác Ba, có mấy nghĩa khác nhau.
(1) Là danh xưng của một vị Phật. Theo Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 40, vào thời kiếp Hoa Tích (華積), các đức Phật đều có hiệu là Giác Hoa. Trong Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh (摩訶般若波羅蜜經, Taishō Vol. 8, No. 223) quyển 2 cũng có giải thích rằng: “Ư chư pháp trung đắc Vô Sanh Nhẫn, thị chư nhân ư vị lai thế, quá lục thập bát ức kiếp đương tác Phật, kiếp danh Hoa Tích, Phật giai hiệu Giác Hoa (於諸法中得無生忍、是諸人於未來世、過六十八億劫當作佛、劫名花積、佛皆號覺花, đối với trong các pháp chứng Vô Sanh Nhẫn, những người này vào đời tương lai, qua sáu mươi tám kiếp sẽ thành Phật, kiếp ấy tên là Hoa Tích, chư Phật đều có hiệu là Giác Hoa).”
(2) Hoa giác ngộ. Như trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 10, bài Sư Ni (師尼) có câu: “Sắc thân kiên cố, giới hạnh đoan nghiêm, trưởng phước quả ư thiện căn, khai giác hoa ư tâm địa (色身堅固、戒行端嚴、長福果於善根、開覺花於心地, sắc thân vững chắc, giới hạnh đoan nghiêm, nuôi phước quả nơi thiện căn, bày hoa giác nơi đất tâm).” Hay trong Phật Thuyết Pháp Thân Kinh (佛說法身經, Taishō Vol. 17, No. 766) cũng có câu: “Ly ư Ngũ Dục siêu Ngũ Thú khổ, cụ Lục Phần Pháp viên mãn Lục Ba La Mật, khai Thất Giác Hoa diễn Bát Chánh Đạo (離於五慾超五趣苦。具六分法圓滿六波羅蜜。開七覺花演八正道, lìa xa Năm Dục vượt khổ Năm Cõi, đủ Sáu Phần Pháp tròn đầy Sáu Ba La Mật, bày Bảy Hoa Giác diễn Tám Chánh Đạo).”
(3) Thể hiện cho tướng hảo của Bồ Tát Quán Tự Tại (觀自在). Như trong Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi (瑜伽集要焰口施食儀, Taishō Vol. 21, No. 1320) giải thích rõ rằng: “Thứ nhập Quan Âm định, tức nhập Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Ma Địa, bế mục trừng tâm quán tưởng tự thân, viên mãn khiết bạch do như tịnh nguyệt, tại tâm tịnh nguyệt thượng tưởng hrīḥ tự phóng đại quang minh; kỳ tự biến thành bát diệp Liên Hoa, ư hoa đài thượng hữu Quán Tự Tại Bồ Tát, tướng hảo phân minh; tả thủ trì Liên Hoa, hữu thủ tác khai phu diệp thế. Thị Bồ Tát tác thị tư duy: 'Nhất thiết hữu tình thân trung, các cụ hữu thử giác ngộ chi hoa, thanh tịnh pháp giới bất nhiễm phiền não.' Ư Liên Hoa bát diệp thượng, các hữu Như Lai nhập định già phu nhi tọa, diện hướng Quán Tự Tại Bồ Tát, hạng bội viên quang thân như kim sắc quang minh hoảng diệu. Tưởng thử bát diệp Liên Hoa, tiệm thư tiệm đại lượng đẳng hư không, tức tác như thị tư duy, dĩ thử giác hoa chiếu xúc Như Lai hải hội, nguyện thành quảng đại cúng dường. Nhược tâm bất di thử định, tắc ư vô biên hữu tình thâm khởi bi mẫn. Dĩ thử giác hoa mông chiếu xúc giả, ư chư khổ não tất đắc giải thoát đẳng đồng Quán Tự Tại Bồ Tát tướng hảo, tức tưởng Liên Hoa tiệm tiệm thu liễm lượng đẳng kỷ thân, tắc kết Quán Tự Tại Bồ Tát ấn gia trì tứ xứ (次入觀音定、卽入觀自在菩薩三摩地、閉目澄心觀想自身、圓滿潔白猶如淨月、在心淨月上想hrīḥ字放大光明、其字變成八葉蓮華、於華臺上有觀自在菩薩、相好分明、左手持蓮華、右手作開敷葉勢、是菩薩作是思惟、一切有情身中、各具有此覺悟之華、清淨法界不染煩惱、於蓮華八葉上、各有如來入定跏趺而坐、面向觀自在菩薩、項佩圓光身如金色光明晃耀、想此八葉蓮華、漸舒漸大量等虛空、卽作如是思惟、以此覺華照觸如來海會、願成廣大供養、若心不移此定、則於無邊有情深起悲愍、以此覺華蒙照觸者、於諸苦惱悉得解脫、等同觀自在菩薩相好、卽想蓮華漸漸收斂量等己身、則結觀自在菩薩印加持四處, kế đến nhập vào định Quan Âm, tức nhập vào định của Bồ Tát Quán Tự Tại, nhắm mắt lắng tâm quán tưởng tự thân, tròn đầy trong trắng giống như trăng thanh, ngay tại trung tâm phía trên mặt trăng thanh ấy quán tưởng chữ hrīḥ phóng ra ánh sáng lớn, chữ ấy biến thành hoa sen tám cánh; trên đài hoa ấy có Bồ Tát Quán Tự Tại, tướng tốt rõ ràng, tay trái cầm hoa sen, tay phải làm theo tư thế cánh hoa nở ra. Vị Bồ Tát ấy suy nghĩ như vậy: 'Trong thân của hết thảy chúng hữu tình, đều có đủ hoa giác ngộ này, trong sạch pháp giới, không nhiễm phiền não.' Trên hoa sen có tám cánh ấy, mỗi cánh có một đức Như Lai ngồi xếp bằng nhập định, mặt hướng về Bồ Tát Quán Tự Tại, nơi cổ trang sức tỏa sáng, thân như sắc vàng sáng tỏa chói lọi, quán tưởng hoa sen tám cánh này, dần dần mở ra, dần dần to lớn như hư không; rồi lại suy nghĩ rằng, lấy hoa giác ngộ này chiếu rọi chạm đến hải hội của chư Như Lai, nguyện hoa sen thành to lớn để cúng dường. Nếu như tâm không dời khỏi định này, thì sẽ khởi lòng thương xót đối với vô biên chúng hữu tình. Nhờ lấy hoa giác ngộ này chiếu chạm đến, các khổ não đều được giải thoát, ngang đồng với tướng tốt của Bồ Tát Quán Tự Tại. Rồi lại quán tưởng hoa sen dần dần thâu nhỏ lại bằng với thân mình, liền bắt ấn Bồ Tát Quán Tự Tại để gia trì bốn nơi).” Như vậy, bàn thờ Giác Hoa, còn gọi là Giác Ba, thường được thiết bày trong đàn tràng Chẩn Tế, có thể là bàn thờ đức Bồ Tát Quan Thế Âm (hay Quán Tự Tại).
(4) Cũng có thuyết cho rằng Giác Ba ở đây tức là đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai (覺華定自在王如來) như trong Phẩm Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông (忉利天宮神通品) thứ nhất của Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh (地藏菩薩本願經, Taishō Vol. 13, No. 412) có đề cập đến. Vì theo như lời nói của Quỷ Vương Vô Độc thưa với Thánh nữ Bà La Môn (tức tiền thân của Địa Tạng Bồ Tát) rằng: “Duyệt Đế Lợi tội nữ, sanh Thiên dĩ lai, kinh kim tam nhật, vân thừa hiếu thuận chi nữ, vị mẫu thiết cúng, tu phước, bố thí Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai tháp tự, phi duy Bồ Tát chi mẫu đắc thoát Địa Ngục, ưng thị Vô Gián tội nhân, thử nhật tất đắc thọ lạc (悅帝利罪女、生天以來、經今三日、云承孝順之子、爲母設供、修福、布施覺華定自在王如來塔寺、非唯菩薩之母得脫地獄、應是無間罪人、此日悉得受樂, nữ tội nhân Duyệt Đế Lợi sanh lên Trời đến nay, đã dược ba ngày, nương nhờ con gái hiếu thuận, vì mẹ thiết lễ dâng cúng, tu phước, bố thí chùa tháp của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai; không phải chỉ có mẹ của Bồ Tát được giải thoát, mà các tội nhân trong Địa Ngục Vô Gián, ngày ấy thảy được hưởng vui sướng)”; thiết lễ, cúng dường đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, nhờ công đức đó mà chư tội nhân trong các Địa Ngục, chư vị âm linh cô hồn được siêu thoát khỏi cảnh khổ của ba đường ác. Cho nên, cũng có thể bàn thờ Giác Ba trong đàn tràng Chẩn Tế là bàn thờ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai.
(一乘頓悟, Ichijōtongo): Đốn Ngộ (頓悟, Tongo) có nghĩa là đạt được sự chứng ngộ và khai mở tâm địa một cách nhanh chóng mà không trải qua từng giai đoạn theo thứ tự. Trái với Đốn Ngộ là Tiệm Ngộ (漸悟, chứng ngộ từ từ theo từng giai đoạn). Trong Lục Tổ Đàn Kinh (六祖壇經), Phẩm Bát Nhã (般若 品) có đoạn rằng: "Thiện tri thức ! Ngã ư Nhẫn Hòa Thượng xứ, nhất văn ngôn hạ tiện ngộ, đốn kiến chơn như bản tánh, thị dĩ tương thử giáo pháp lưu hành, linh học đạo giả đốn ngộ bồ đề. (善知識、我於忍和尚處、一聞言下便 悟、頓見眞如本性、是以將此敎法流行、令學道者頓悟菩提, Này thiện tri thức ! Ta nương náu nơi chỗ của Hòa Thượng Hoằng Nhẫn, một lần được nghe lời ngài dạy bèn giác ngộ, liền thấy bản tánh chơn như, nên lấy giáo pháp này mà lưu hành, khiến cho người học đạo nhanh chóng chứng ngộ bồ đề)". Nhất Thừa (s: Eka-yāna, p: Ekāyana, 一乘), hay còn gọi là Nhất Phật Thừa (一佛乘), từ dùng để đối với Tam Thừa (s: Tri-yāna, 三乘, gồm Thanh Văn [聲聞], Duyên Giác [緣覺] và Bồ Tát [菩薩]). Phát xuất từ trong lời dạy trong Phẩm Phương Tiện của Kinh Pháp Hoa (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經) rằng: "Thập phương Phật độ trung, duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị diệc vô tam. Chư Phật dĩ phương tiện lực, ư Nhất Phật Thừa phân biệt thuyết tam (十方佛土中、唯有一乘法、無二亦無三、 諸佛以方便力、於一佛乘分別說三, Trong quốc độ của mười phương các đức Phật, chỉ có một pháp Nhất Thừa, không có hai cũng chẳng có ba. Các đức Phật dùng sức phương tiện nơi Nhất Phật Thừa mà phân biệt nói thành ba)", Kinh Pháp Hoa lấy ba loại xe dê, nai và trâu để ví dụ cho Tam Thừa (ba cỗ xe), còn xe trâu trắng thì ví cho Nhất Thừa (một cỗ xe). Như vậy Nhất Thừa Đốn Ngộ có nghĩa là sự giác ngộ nhanh chóng của Nhất Thừa.
(t: Chos-kyi rgya-mo saṅs-rgyas rnam-par snaṅ-mdsad kyis byaṅ-chub-sems-pdaḥi sems kyi gnas bçad leḥu, c: Fan-wang-ching, j: Bongōkyō, 梵綱經): còn gọi là Phạm Võng Kinh Lô Xá Na Phật Thuyết Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm Đệ Thập (梵綱經盧舍那佛說菩薩心地戒品第十), Bồ Tát Giới Kinh (菩薩戒經), Phạm Võng Bồ Tát Giới Kinh (梵綱菩薩戒經), 2 quyển, hiện còn, Taishō 24, 997, No. 1484, Cưu Ma La Thập dịch từ năm 402-412 (niên hiệu Hoằng Thỉ [弘始] thứ 4-14) đời Hậu Tần.
(權寔): quyền nghĩa là quyền nghi, chỉ cho phương tiện cần thiết nhất thời; thật là chân thật không dối, sự chân thật tột cùng vĩnh viễn không thay đổi. Quyền thật còn gọi là chân giả. Như trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, CBETA No. 1295) quyển 25 có câu: “Đốn tiệm thiên viên, quyền thật không hữu, đinh tủy thiết thiệt, hà mục hải khẩu (頓漸偏圓、權寔空有、釘觜鐵舌、河目海口, đốn tiệm méo tròn, quyền thật không có, mỏ đinh lưỡi sắt, mắt sông miệng biển).” Hay như trong Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh Thiển Chú (大乘本生心地觀經淺註, CBETA No. 367) cũng có câu: “Dĩ thuyết pháp chi công, trang nghiêm tự tánh, quyền thật tự tại, cố tôn vi vương (以說法之功、莊嚴自性、權寔自在、故尊爲王, lấy công đức thuyết pháp, trang nghiêm tự tánh, quyền thật tự tại, nên tôn xưng là vua).”
(s, p: saṃgha, 僧伽): gọi tắt là tăng; ý dịch là hòa (和), chúng (眾), hòa hợp (和合); cho nên còn được gọi là hòa hợp chúng (和合眾), hòa hợp tăng (和合僧), hải chúng (海眾, nghĩa là chúng tăng hòa hợp như một vị nước biển). Hoặc lấy Phạn ngữ cùng Hán ngữ hợp chung lại gọi là tăng lữ (僧侶). Ngoài ra, còn cách gọi khác như tăng gia (僧家), tăng ngũ (僧伍), v.v. Tăng là một trong ba ngôi báu, là người tín thọ giáo pháp của đức Như Lai, vâng theo đạo ấy, tinh cần tu tập, nhập vào dòng Thánh và chứng quả vị. Từ này cũng chỉ cho hàng Thánh đệ tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, theo học đạo của đức Phật, đầy đủ Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, an trú trong Tứ Hướng Tứ Quả; hoặc chỉ cho đoàn thể tín thọ Phật pháp, tu hành Phật đạo. Sau khi thành đạo, trước hết đức Phật đến vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), độ cho 5 anh em Kiều Trần Như (s: Ājñātakauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 憍陳如) và đây được xem như khởi đầu hình thành Tăng Già. Luật sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường cho rằng muốn cấu thành Tăng Già phải có 2 điều kiện: (1) Lý hòa, tức tuân thủ giáo nghĩa Phật Giáo, lấy việc giải thoát Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃) làm mục đích tối thượng. (2) Sự hòa, có 6 loại, tức Lục Hòa, gồm Giới Hòa Đồng Tu (戒和同修), Kiến Hòa Đồng Giải (見和同解), Thân Hòa Đồng Trụ (身和同住), Lợi Hòa Đồng Quân (利和同均), Khẩu Hòa Vô Tránh (口和無諍), Ý Hòa Đồng Duyệt (意和同悅). Ngoài ra, nguyên lai Tăng là tên gọi thông thường của Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼). Trung Quốc, Việt Nam, v.v., gọi Tỳ Kheo là Tăng, Tỳ Kheo Ni là Ni. Đặc biệt, Nhật Bản gọi tu sĩ nam là Tăng Lữ (僧侶, sōryo), tu sĩ nữ là Ni Tăng (尼僧, nisō). Sau này, ngoài hai chúng trên còn có Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerī, 沙彌尼) cũng được gọi là Tăng hay Ni. Tăng Già Tỳ Kheo và Tăng Già Tỳ Kheo Ni được gọi là hai bộ chúng. Hết thảy các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni trong bốn phương có tên gọi là Bốn Phương Tăng Già. Chư Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni hiện hữu trước mặt được gọi là Hiện Tiền Tăng Già. Hiện Tiền Tăng Già tất phải có từ 4 người trở lên, tập trung, hòa hợp, mới có thể thực hành pháp Yết Ma (羯磨), Bỉnh Pháp (秉法), v.v. Nếu dưới số lượng ấy, được gọi là quần, nhóm. Hơn nữa, do vì hình thức Yết Ma không giống nhau, nên số lượng chúng Tỳ Kheo cũng bất đồng. Theo Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 44, phần Chiêm Ba Kiền Độ (瞻波揵度) có nêu Tăng 4 người, Tăng 5 người, Tăng 10 người, Tăng 20 người. Đối với Tăng 4 người, trừ Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣), thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 5 người, trừ thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 20 người thì có thể tác bất cứ pháp Yết Ma nào. Theo Thập Tụng Luật (十誦律, Taishō Vol. 23, No. 1435) quyển 30, phần Chiêm Ba Pháp (瞻波法), có nêu ra 5 loại tăng: (1) Vô tàm quy tăng (無慚愧僧), tức chỉ các Tỳ Kheo phá giới mà không biết xấu hổ; (2) Nhu dương tăng (羺羊僧), chỉ cho hạng Tỳ Kheo phàm phu căn tánh chậm lụt, không có trí tuệ, giống như đàn dê tụ tập mà chẳng biết gì cả; các Tỳ Kheo này cũng không biết Bố Tát, Yết Ma, thuyết giới, pháp hội, v.v.; (3) Biệt chúng tăng (別眾僧), tức là các Tỳ Kheo ở trong một phạm vi, mỗi nơi tác pháp Yết Ma riêng biệt, không đồng nhất; (4) Thanh tịnh tăng (清淨僧), tức chỉ cho các vị chuyên trì giới pháp thanh tịnh; (5) Chân thật tăng (眞實僧), chỉ cho các bậc Hữu Học và Vô Học. Riêng Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經, Taishō Vol. 3, No. 159) quyển 2 nêu ra 3 loại tăng của thế gian và xuất thế gian, gồm: (1) Bồ Tát Tăng (菩薩僧), như Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利), Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒), v.v.; (2) Thanh Văn Tăng (聲聞僧), như Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連), v.v.; (3) Phàm phu tăng (凡夫僧). Trong Tứ Phần Luật Danh Nghĩa Tiêu Thích (四分律名義標釋, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 744) quyển 25, phần (襯體), có đoạn: “Phàm thị Tăng Già ngọa cụ, thọ dụng chi thời, bất đắc tùy nghi tương khinh tiểu Tọa Cụ, cập cấu nhị sơ bạc ố vật, nhi vi sấn thế, đắc ác tác tội (凡是僧伽臥具、受用之時、不得隨宜將輕小坐具、及垢膩疏薄惡物、而爲儭替、得惡作罪, phàm là vật trãi nằm của tăng, khi thọ dụng, không được tùy tiện lấy Tọa Cụ nhỏ nhẹ, và vật nhơ nhớp mỏng manh, mà đem cúng thay thế, [như vậy] mắc tội ác tác).” Hay trong bài tựa của Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu (重治毗尼事義集要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 719) lại có đoạn: “Tỳ Ni Tạng giả, Phật pháp chi cương kỷ, Tăng Già chi mạng mạch, khổ hải chi tân lương, Niết Bàn chi yếu đạo dã (毗尼藏者、佛法之紀綱、僧伽之命脈、苦海之津梁、涅槃之要道也, Tạng Tỳ Ni là, cương kỷ của Phật pháp, mạng mạch của Tăng Già, cầu bắc qua biển khổ, đường chính của Niết Bàn vậy).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập