Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Hàn »»

(s: padma, kōren, 紅蓮): hoa sen hồng, âm dịch là Bát Đầu Ma (鉢頭摩), nguyên sản ở vùng Đông Ấn Độ, Ba Tư (波斯). Trong 40 tay của Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音, Quan Âm Ngày Tay), có 1 tay bên phải cầm hoa này, gọi là Hồng Liên Hoa Thủ (紅蓮華手, tay hoa sen hồng). Trong Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni (千手千眼觀世音菩薩大悲心陀羅尼, Taishō 20, 118) có đoạn rằng: “Nhược vi cầu sanh chư Thiên cung giả, đương ư Hồng Liên Hoa Thủ; chơn ngôn: 'án thương yết lệ tát phạ hạ' (若爲求生諸天宮者、當於紅蓮華手、眞言:唵商掲隷薩嚩賀, nếu có người vì cầu sanh lên cung điện của chư Thiên thì nên ở nơi cánh tay cầm hoa sen hồng; chơn ngôn là 'án thương yết lệ tát phạ hạ').” Trong bài kệ xưng tán Kinh Pháp Hoa có câu: “Lục vạn dư ngôn thất trục trang, vô biên diệu nghĩa quảng hàm tàng, Bạch Ngọc xỉ biên lưu Xá Lợi, Hồng Liên thiệt thượng phóng hào quang, hầu trung Cam Lồ quyên quyên nhuận, khẩu nội Đề Hồ trích trích lương, giả nhiêu tạo tội quá sơn nhạc, bất tu diệu pháp lưỡng Tam Hàng (六萬餘言七軸裝、無邊妙義廣含藏、白玉齒邊流舍利、紅蓮舌上放毫光、喉中甘露涓涓潤、口內醍醐滴滴涼、假饒造罪過山嶽、不須妙法兩三行, hơn sáu vạn lời bảy cuốn thành, vô biên nghĩa mầu rộng ẩn tàng, bên răng Ngọc Trắng tuôn Xá Lợi, trên lưỡi sen hồng phóng hào quang, trong cổ Cam Lồ rả rích nhỏ, trên miệng Đề Hồ giọt giọt tan, giả như tạo tội hơn núi cả, chẳng bằng diệu pháp vài ba hàng).”
(三際): tức Tam Thế (三世), ba đời; gồm (1) Tiền Tế (s: pūrvānta, 前際), chỉ cho quá khứ; (2) Hậu Tế (s: aparānta, 後際), chỉ tương lai; (3) Trung Tế (s: madhyānta, 中際), chỉ hiện tại. Như trong Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh (仁王護國般若波羅蜜多經, Taishō Vol. 8, No. 246) quyển Thượng, Phẩm Quán Như Lai (觀如來品) thứ 2 có đoạn: “Quán thân thật tướng, quán Phật diệc nhiên, vô tiền tế, vô hậu tế, vô trung tế, bất trú Tam Tế, bất ly Tam Tế (觀身實相、觀佛亦然、無前際、無後際、無中際、不住三際、不離三際, quán thật tướng của thân, quán Phật cũng như vậy, không quá khứ, không tương lai, không hiện tại, chẳng trú ba đời, chẳng lìa ba đời).” Hay trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 5 lại có đoạn: “Tam Tế cầu tâm tâm bất kiến, lưỡng nhãn y nhiên đối lưỡng nhãn, bất tu di kiếm khắc chu tầm, tuyết nguyệt phong hoa thường kiến diện (三際求心心不見、兩眼依然對兩眼、不須遺劍刻舟尋、雪月風華常見面, ba đời tìm tâm tâm chẳng thấy, hai mắt như xưa đối hai mắt, chẳng nên mất kiếm khắc thuyền tìm, trăng tuyết gió hoa thường thấy mặt).” Ngoài ra, tại Ấn Độ một năm chia ra ba kỳ, lấy tam tế phối với nhật nguyệt thì có các thuyết khác nhau, như thuyết của Thần Thái (神泰), Chơn Đế (眞諦), Phổ Quang (普光), Huyền Trang (玄奘), v.v.; trong đó, thuyết của Chơn Đế và Huyền Trang thì tương đồng. Tam Tế ở đây là (1) Nhiệt Tế (s: grīṣma-ṛtu, 熱際), từ ngày 16 tháng Giêng đến 15 tháng 5; (2) Vũ Tế (s: varṣa-ṛtu, 雨際), từ ngày 16 tháng 5 đến 15 tháng 9; (3) Hàn Tế (s: hemanta-ṛtu, 寒際), từ ngày 16 tháng 9 đến 15 tháng Giêng. Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 2 lại lấy Tam Tế chia thành 6 thời, gồm: (1) Từ ngày 16 tháng Giêng đến 15 tháng 3, gọi là tạm nhiệt (漸熱, tạm nóng, nóng sơ); (2) Từ ngày 16 tháng 3 đến 15 tháng 5, gọi là thạnh nhiệt (盛熱, nóng gắt); (3) Từ ngày 16 tháng 5 đến 15 tháng 7, gọi là vũ thời (雨時, mùa mưa); (4) Từ ngày 16 tháng 7 đến 15 tháng 9, gọi là mậu thời (茂時, mùa tươi tốt); (5) Từ ngày 16 tháng 9 đến 15 tháng 11, gọi là tạm hàn (漸寒, hơi lạnh); (6) Từ ngày 16 tháng 11 đến 15 tháng Giêng, gọi là thạnh hàn (盛寒, lạnh gắt).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập