Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tâm Giác »»
(大覺): sự giác ngộ lớn, chỉ sự giác ngộ của đức Thế Tôn (世尊). Đây là tên gọi khác của chư Phật. Người phàm phu thì không có sự giác ngộ, tỉnh thức; còn các vị Thanh Văn (聲聞), Duyên Giác (緣覺), Bồ Tát (菩薩) thì có giác ngộ, nhưng không lớn bằng Phật; chỉ có chư Phật mới giác ngộ triệt để chân lý của vũ trụ, nên được xưng tán là Đấng Đại Giác. Như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh Hậu Phần (大般涅槃經後分, Taishō No. 377) quyển Thượng có câu: “Nhĩ thời, tứ chúng nhất thiết chiêm ngưỡng Đại Giác Thế Tôn chơn kim sắc thân, mục bất tạm xả, tất giai khoái lạc (爾時、四眾一切瞻仰大覺世尊眞金色身、目不暫捨、悉皆快樂, lúc bấy giờ, bốn chúng tất cả đều chiêm ngưỡng thân sắc vàng của đấng Thế Tôn Đại Giác, mắt không hề rời, thảy đều vui mừng).” Hay như trong (肇論略註, CBETA No. 873) lại có câu: “Vị Như Lai tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tam giác dĩ viên, cố xưng Đại Giác; nhiên thử Đại Giác, nãi Báo Thân chi xưng (謂如來自覺、覺他、覺行圓滿、三覺已圓、故稱大覺、然此大覺、乃報身之稱, sự tự giác ngộ, giác ngộ cho người khác và thực hành sự giác ngộ tròn đầy của đức Như Lai, ba sự giác ngộ ấy đã viên mãn; nên gọi là sự giác ngộ lớn; do vậy sự giác ngộ lớn này là tên gọi của Báo Thân).”
(黃龍慧南, Ōryū Enan, 1002-1069): vị tổ sư khai sáng ra Phái Hoàng Long của Lâm Tế Tông Trung Quốc, người Huyện Ngọc Sơn (玉山), Tín Châu (信州, Tỉnh Giang Tây), họ là Chương (章). Năm lên 11 tuổi, ông theo xuất gia với Trí Loan (智鑾) ở Hoài Ngọc Định Thủy Viện (懷玉定水院), rồi năm 19 tuổi thì thọ giới Cụ Túc. Ban đầu ông đến tham vấn Tự Ngọc (自玉) ở Quy Tông Tự (歸宗寺) trên Lô Sơn (廬山), rồi Trừng Thị (澄諟) ở Thê Hiền Tự (棲賢寺), và Hoài Trừng (懷澄) ở Tam Giác Sơn (三角山, Tỉnh Hồ Bắc). Sau đó, ông theo học với Vân Phong Văn Duyệt (雲峰文悅), đã từng vào tham vấn trong thất của Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓), cuối cùng nhân nghe câu chuyện lão bà của Triệu Châu (趙州) mà đại ngộ. Lúc ấy ông 35 tuổi, từ đó trở đi ông đi tham học khắp chốn Thiền lâm. Sau khi trở về lại Quy Tông Tự, gặp phải lúc chùa bị hỏa tai, ông bị hạch tội và bị tống giam vào ngục thất. Sau khi được tha tội, ông lui về ẩn cư ở Hoàng Bá. Sau đó, ông chuyển đến Hoàng Long Sơn (黃龍山) ở Phủ Long Hưng (隆興府), và nỗ lực cử xướng tông phong của mình. Chính trong khoảng thời gian này, công án được sử dụng rất rộng rãi trong Thiền lâm như là phương tiện để tiếp độ môn đồ. Tông phong của ông mở rộng đến tận trung tâm Hồ Nam (湖南), Hồ Bắc (湖北), và Giang Tây (江西). Về sau phái này được gọi là Phái Hoàng Long. Vào ngày 17 tháng 3 năm thứ 2 (1069) niên hiệu Hy Ninh (熙寧), ông thị tịch, hưởng thọ 68 tuổi, và được ban cho thụy hiệu là Phổ Giác Thiền Sư (普覺禪師). Có một số tác phẩm của ông như Hoàng Long Nam Thiền Sư Ngữ Lục (黃龍南禪師語錄) 1 quyển, Hoàng Long Nam Thiền Sư Ngữ Yếu (黃龍南禪師語要) 1 quyển, Hoàng Long Nam Thiền Sư Thư Xích Tập (黃龍南禪師書尺集) 1 quyển. Đệ tử của ông có Hối Đường Tổ Tâm (晦堂祖心), Bảo Phong Khắc Văn (寳峰克文).
(khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên): âm dịch là Ca Chiên Diên (迦旃延), nhà văn pháp học Sanskrit, nhà toán học và là tu sĩ Phệ Đà (s, p: Veda, 吠陀), sống ở Ấn Độ ngày xưa, khoảng thời đại của vương quốc Greco-Bactrian. Ông nổi tiếng với 2 tác phẩm: Varttika và Sulba Sūtra. Varttika là bản giải thích tỉ mỉ về văn phạm của Pāṇini. Cùng với tác phẩm Mahābhāsya của Patañjali, Varttika trở thành một phần trung tâm của điển tịch vyākarana (văn phạm). Đây là một trong 6 bộ Vedanga, hình thành nền giáo dục bắt buộc đối với các học sinh Bà La Môn trong 12 thế kỷ qua. Bên cạnh đó, ông còn sáng tác một trong các bộ Sulba Sūtra, một loạt gồm 9 tác phẩm về hình học của cấu trúc bàn thờ, đề cập đến hình chữ nhật, hình tam giác, hình thoi, v.v. Quan điểm của Kātyāyana về sự liên quan nghĩa từ có xu hướng hướng về tính tự nhiên. Giống như Plato, Kātyāyana tin rằng mối quan hệ nghĩa từ không phải là kết quả của tập quán con người. Với ông, sự quan hệ nghĩa từ là siddha (vĩnh hằng). Mặc dầu đối tượng của từ đề cập đến không vĩnh hằng, nhưng giống như một thỏi vàng được dùng để làm các đồ trang sức khác nhau mà vẫn còn nguyên là vàng, bản chất ý nghĩa của từ ấy là thường hằng. Kātyāyana thuộc về trường phái các nhà văn pháp học Aindra và có thể sống ở phía Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ.
(s: sīmā-bandha, bandhaya-sīman, 結界): âm dịch là Bạn Đà Dã Tử Mạn (畔陀也死曼), tức nương vào tác pháp mà quy hoạch một khu vực nhất định nào đó; hay y cứ vào pháp gọi là Bạch Nhị Yết Ma (白二羯磨), tùy nơi chỗ mà hoạch định giới vức để giúp cho tăng chúng không vi phạm lỗi biệt chúng (別眾, tách khỏi chúng), ly túc (離宿, lìa xa 3 y và nghĩ lại qua đêm ở một nơi nào đó), túc chử (宿煮, ở lại qua đêm và nấu ăn), v.v. Về phạm vi kết giới, các bộ Luật đều thuyết khác nhau; nay theo Tứ Phần Luật (四分律) thì đại thể có 3 loại: Nhiếp Tăng Giới (攝僧界), Nhiếp Y Giới (攝衣界) và Nhiếp Thực Giới (攝食界). (1) Nhiếp Tăng Giới nghĩa là chư Tỳ Kheo tập trung tại một nơi để tiến hành Bố Tát (s: poṣadha, upavasatha, upoṣadha, upavāsa; p: uposatha, posatha, 布薩), v.v.; được phân thành Tự Nhiên Giới (自然界) và Tác Pháp Giới (作法界). Tự Nhiên Giới, còn gọi là Bất Tác Pháp Giới (不作法界), là khu vực không cần phải quy định đặc biệt nào, mà chỉ căn cứ vào địa hình để hoạch định. Trong Tự Nhiên Giới lại được chia thành 4 loại là: (a) Tụ Lạc Giới (聚落界, khu vực làng xóm, tụ lạc), tụ lạc (làng xóm) ở đây có hai loại là tụ lạc có thể phân biệt và tụ lạc không thể phân biệt. Theo thuyết của Thập Tụng Luật (十誦律), trường hợp tụ lạc có thể phân biệt thì lấy một tụ lạc làm giới vức. Trong khi đó, theo thuyết của Ma Ha Tăng Kỳ Luật (摩訶僧祇律), trường hợp tụ lạc không thể phân biệt thì lấy 63 bộ (một bộ là 6 thước) làm giới vức. (b) Lan Nhã Giới (蘭若界). Nếu không có người mắng pháp phản đối, thì đây là giới vức của nơi nhàn tĩnh, yên lắng; cách cự ly với tụ lạc là một Câu Lô Xá (s: krośa, p: kosa, 拘盧舍, có thuyết cho là tương đương với 600 bộ; Tạp Bảo Tạng Kinh [雜寶藏經] cho là 5 dặm). Trường hợp nếu có người mắng pháp phản đối, thì giới hạn trong vòng 58 bộ (Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa [善見律毘婆沙] cho là tương đương với 7 Bàn Đà [槃陀, đơn vị đo lường của Ấn Độ, một Bàn Đà tương đương 28 khuỷu tay]). Những người phản đối thì tự tác pháp Yết Ma ngoài phạm vi này. (c) Đạo Hành Giới (道行界), khi vị tỳ kheo đi du hành, có thể tùy theo nơi mình ở mà lấy ngang dọc một Câu Lô Xá làm giới vức. Trong phạm vi này thì không được ăn riêng, Bố Tát riêng. (d) Thủy Giới (水界), tức là kết giới trên tàu thuyền khi rời khỏi đất liền. Tác Pháp Giới thì được phân thành 3 loại: (a) Đại Giới (大界), có các trường hợp người và pháp cùng nhau, pháp và thức ăn cùng nhau, pháp giống mà thức ăn khác. Trong đó, trường hợp người và pháp cùng nhau làm chủ, còn hai loại kia tùy duyên mà khai mở riêng. Người cùng nhau nghĩa là cùng chung một trú xứ, cùng chung một khu vực thuyết giới. Pháp cùng nhau nghĩa là mỗi nữa tháng cùng nhau tập trung tại một trú xứ để tiến hành pháp Bố Tát, thuyết giới. Phạm vi của Đại Giới lấy ngoại giới của một ngôi già lam nào đó làm giới hạn nhỏ nhất, rộng đến 10 dặm cho đến 100 dặm. Kết Đại Giới này với mục đích vào lúc chư tăng thuyết giới, v.v., khiến cho tăng chúng trong một khu vực rộng lớn tập trung lại, không ai trái phạm. Phàm Đại Giới nên lấy những sự vật có thể thấy rõ ở địa phương đó như núi, sông, cây cối, v.v., làm ranh giới; đó gọi là giới tướng (界相). Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙, Taishō Vol. 24, No. 1462) quyển 17 có nêu ra 8 loại giới tướng là sơn tướng (山相, hình dạng núi), thạch tướng (石相, hình dạng tảng đá), lâm tướng (林相, hình dạng khu rừng), thọ tướng (樹相, hình dạng cây), lộ tướng (路相, hình dạng con đường), giang tướng (江相, hình dạng dòng sông), nghị phong tướng (蟻封相, hình dạng ranh giới đàn kiến), thủy tướng (水相, hình dạng dòng nước). Về hình trạng của Đại Giới, các bộ Luật thuyết bất đồng. Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa quyển 17 lấy 5 loại hình vuông, hình tròn, hình trống, hình bán nguyệt và hình tam giác làm 5 tướng kết giới. Ngoài ra, khi kết Đại Giới, sau khi chúng tăng tập trung trong phạm vi giới tướng, vị tăng sống lâu tại đó nên tuyên xướng giới tướng của bốn phương mà tuyên bố rằng: “Đồng nhất trú xứ, đồng nhất thuyết giới để làm kết giới.” Nghi thức này được gọi là xướng giới tướng. (b) Giới Trường (戒塲), trường hợp trong tăng chúng có người phạm giới, tiến hành pháp sám hối, hay thọ giới, v.v., cần phải hợp đủ chúng 4 người cho đến 20 người; để tránh làm cho tăng mệt mỏi, đặc biệt kết Giới Trường hình 4 phương, gọi là tứ phương giới tướng (四方界相, giới tướng bốn phương). Giới Trường này có thể chứa tối thiểu 20 người. Theo Giới Trường của Ấn Độ, nguyên là nơi vùng đất trống; trong phạm vi ấy không được lập phòng tăng, nhưng có thể dựng điện Phật cũng như cây Bồ Đề. Hơn nữa, vì Giới Trường là nơi truyền trao giới pháp, nên chủ yếu cần phải thô sơ, đơn giản. Ban đầu, Giới Trường được kết ở ngoài Đại Giới, về sau, do vì nạn cướp bóc, nên được phép kết trong phạm vi Đại Giới. Về thứ tự kết giới, trước kết Giới Trường, sau kết Đại Giới. Nếu như đã kết Đại Giới rồi, thì phải giải bỏ Đại Giới, kết lại Giới Trường, rồi mới kết Đại Giới. Nếu Đại Giới và Giới Trường cùng kết, khi giải giới thì phải trước giải Đại Giới rồi kế đến Giới Trường; không được đảo lộn thứ tự. (c) Tiểu Giới (小界), sợ các Tỳ Kheo ác ở trong gây trở ngại mà rút lui, phế bỏ pháp sự, nên đặc biệt giới hạn trong thời gian nào đó, kết một giới vức tạm thời. Loại này được chia thành 3 tùy theo trường hợp thọ giới, thuyết giới, Tự Tứ. Bên cạnh đó, Tiểu Giới còn được kết tạm thời khi gặp già nạn, không có giới hạn về phạm vi, hình trạng, v.v. Cho nên, không giống như tác pháp lâu dài của Đại Giới và Giới Trường, mà khi việc hoàn thành thì tiến hành giải giới ngay. Nói chung, trong phần Tự Nhiên Giới của Nhiếp Tăng Giới, tùy theo xứ sở mà nói, có 4 loại bất đồng; tùy theo phạm vi lớn nhỏ mà nói, có 6 loại khác nhau. Đại Giới, Tiểu Giới trong Tác Pháp Giới đều có 3 loại, lại cọng thêm Giới Trường, thành 7 giới. (2) Nhiếp Y Giới, còn gọi là Bất Thất Y Giới (不失衣界), Bất Ly Y Túc Giới (不離衣宿界); tức là hoạch định một phạm vi nào đó để tránh cho các Tỳ Kheo vi phạm sai lầm về việc ly túc (離宿). Ly túc ở đây có nghĩa là chỉ việc Tỳ Kheo xa lìa 3 y của mình mà trú qua đêm ở nơi khác. Nếu đã hoạch định một phạm vi nào đó, trong phạm vi ấy vị Tỳ Kheo có thể khôn cần phải mang theo 3 y thường xuyên. Điều thứ 2 trong 30 pháp Xả Đọa (s: naiḥsargika-prāyaścittika,p: nissaggiya pācittiya, 捨墮, âm dịch là Ni Tát Kì Ba Dạ Đề [尼薩耆波夜提]) của Ba La Đề Mộc Xoa (s: prātimokṣa, pratimokṣa,p: pātimokkha, pāṭimokkha, 波羅提木叉, ý dịch là Tùy Thuận Giải Thoát [隨順解脫], Xứ Xứ Giải Thoát [處處解脫], v.v.) có quy định về việc ly túc này. Loại Nhiếp Y Giới này cũng được phần thành 2 loại là Tự Nhiên Giới và Tác Pháp Giới. (3) Nhiếp Thực Giới, tức quy định kết giới nơi cất chứa thức ăn, là giới vức có thể nấu nướng thức ăn, giúp cho vị Tỳ Kheo không phạm phải lỗi gọi là túc chử. Vùng đất được quy định được gọi là tịnh địa (淨地), hay tịnh trù (淨廚). Nếu trong phạm vi này mà nấu nướng thì không phạm tội này. Thực tế tác pháp của Nhiếp Thực Giới được chia thành hai loại là Thông Kết (通結, kết giới chung) và Biệt Kết (別結, kết giới riêng). Như muốn giải trừ kết giới nói trên, thì khi kết giới, cũng phải nên trãi qua tác pháp gọi là Bạch Nhị Yết Ma (s: jñaptidvitiyā-karmavacanā, 白二羯磨, tức một lần thưa bạch và một lần Yết Ma) rồi mới có thể giải trừ. Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký (四分律行事鈔資持記, Taishō Vol. 40, No. 1805) quyển Thượng giải thích rằng: “Y Giới giả, nhiếp y dĩ thuộc nhân, linh vô ly túc tội; Thực Giới giả, nhiếp thực dĩ chướng tăng, linh vô túc chử tội; Tăng Giới giả, nhiếp nhân dĩ đồng xứ, linh vô biệt chúng tội (衣界者、攝衣以屬人、令無離宿罪、食界者、攝食以障僧、令無宿煮罪、僧界者、攝人以同處、令無別眾罪, Nhiếp Y Giới là giữ gìn y luôn đi theo bên người, khiến cho không phạm tội ly túc; Nhiếp Thực Giới là giữ gìn thức ăn để ngăn chận chư tăng [khỏi sai phạm], khiến cho không phạm tội túc chử; Nhiếp Tăng Giới là giữ gìn mọi người cùng một trú xứ, khiến cho không phạm tội biệt chúng).” Trong Luật Học Phát Nhận (律學發軔, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1125) quyển Trung, phần Kết Giới (結界), có đoạn: “Tỳ Kheo trú xứ, tiên đương kết giới, cái Yết Ma, thuyết giới, thọ giới, trị tội đẳng sự, tất y giới lập; nhược vô giới, tắc chư pháp giai bất năng thành tựu dã (比丘住處、先當結界、蓋羯磨、說戒、授戒、治罪等事、悉依界立、若無界、則諸法皆不能成就也, trú xứ của Tỳ Kheo, trước phải kết giới, phàm các việc như Yết Ma, thuyết giới, truyền trao giới, trị tội, v.v., đều nương vào giới vức mà lập; nếu không giới vức, thì các pháp đều không thể thành tựu vậy).” Bên cạnh đó, kết giới còn có nghĩa là nữ nhân kết giới (女人結界), tức cấm chỉ người nữ ra vào khu vực quy định. Kết giới cũng chỉ cho phạm vi nội trận (內陣, bộ phận chính giữa an trí tượng Phật) và ngoại trận (外陣, chỉ chu vi của nội trận, hay phần bên ngoài khu vực tham bái) trong Chánh Điện thờ Phật. Ngoài ra, đây cũng chỉ cho pháp kết giới của Mật Giáo. Đối với Mật Giáo, khi tu pháp, để phòng ngừa ma chướng xâm nhập, một địa khu được hoạch định để bảo vệ cho đạo tràng và hành giả; đó gọi là kết giới hay kết hộ (結護, ý là kết giới hộ thân). Pháp kết giới của Mật Giáo có nhiều loại khác nhau. Theo Bất Không Quyên Sách Thần Biến Chơn Ngôn Kinh (不空罥索神變眞言經, Taishō Vol. 20, No. 1092) quyển 2, Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 1, v.v., có thể lấy hạt cải trắng, rãi bốn phương trên dưới để kết giới. Tô Tất Địa Yết La Kinh (蘇悉地羯羅經, Taishō Vol. 18, No. 893b) quyển Hạ, Phẩm Cúng Dường (供養品), thì lấy giới vức địa phương, hư không, tường Kim Cang, thành Kim Cang, v.v., mà kết giới chơn ngôn. Thông thường, kết giới thường dùng của pháp tu Mật Giáo phần lớn y cứ chuẩn vào thuyết của Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 3, Cam Lộ Quân Trà Lợi Bồ Tát Cúng Dường Niệm Tụng Thành Tựu Nghi Quỹ (甘露軍荼利菩薩供養念誦成就儀軌, Taishō Vol. 21, No. 1211), v.v., được phân thành 5 loại như sau: (1) Địa Kết (地結), còn gọi là Kim Cang Quyết (金剛橛), tức là dựng một cây cọc nơi đại địa, gốc cọc đó hoặc bảo là đến tận cùng Kim Luân (s: kāñcana-maṇḍala, 金輪), hay đến tận cùng Thủy Luân (s: jala-maṇḍala, 水輪), v.v., là pháp thứ 6 trong 18 đạo Khế Ấn (契印). (2) Tứ Phương Kết (四方結), còn gọi là Kim Cang Tường (金剛牆), tức lấy bốn phương làm giới vức để kết giới, là pháp thứ 7 trong 18 đạo Khế Ấn. (3) Hư Thất Võng (虛室網), còn gọi là Kim Cang Võng (金剛網); tức lấy lưới Kim Cang giăng ra giữa hư không, mép lưới rũ lên đàn Kim Cang, là pháp thứ 14 trong 18 đạo Khế Ấn. (4) Hỏa Viện (火院), còn gọi là Kim Cang Viêm (金剛炎), lấy lửa cháy rực xoay nhiễu quanh bốn góc hư không, có thể giúp đuổi lui chướng nạn của ma Ba Tuần (s: Māra-pāpman, 波旬), là pháp thứ 15 trong 18 đạo Khế Ấn. (5) Đại Tam Muội Da (大三昧耶), là tổng kết giới ngoại trừ Hỏa Viện vừa nêu trên.
(仁和寺, Ninna-ji): ngôi chùa tọa lạc tại Sakyō-ku (左京區), Kyōto-shi (京都市), còn được gọi là Ngự Thất Ngự Sở (御室御所), Nhân Hòa Tự Môn Tích (仁和寺門蹟), là ngôi chùa trung tâm Tổng Bản Sơn của Phái Ngự Thất (御室派) thuộc Chơn Ngôn Tông. Vào năm 886 (niên hiệu Nhân Hòa [仁和] thứ 2), Quang Hiếu Thiên Hoàng (孝光天皇, Kōkō Tennō) cho thiết lập ngôi già lam ở phía nam Đại Nội Sơn (大內山), nhưng giữa chừng thì băng ngự; sau đó, kế thừa di chí của phụ thân, Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō) tiếp tục công trình xây dựng; đến năm 888 (niên hiệu Nhân Hòa thứ 4) thì hoàn thành, cho tôn trí tôn tượng A Di Đà Tam Tôn và lấy tên là Nhân Hòa Tự. Về sau, Vũ Đa Thiên Hoàng nhường ngôi lại cho Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō), rồi theo xuất gia với Ích Tín (益信, Yakushin) và cuối cùng băng ngự tại chùa này. Từ đó trở về sau, từ thời vị Pháp Thân Vương Tánh Tín (性信, Shōshin), cho đến đầu thời Minh Trị (明治, Meiji), chư vị Pháp Thân Vương vẫn tiếp tục hộ trì cho chùa. Các ngôi đường xá của chùa được tạo lập trong khoảng thời gian niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永, 1624-1644), bao gồm luôn cả các ngôi điện trong cung nội. Bức A Di Đà Tam Tôn là tượng thuộc loại quốc bảo có dạng thức kiến tạo đương thời. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ khá nhiều bảo vật khác như tượng vẽ Khổng Tước Minh Vương (孔雀明王) thuộc thời Nam Tống của Trung Quốc, cũng như các tranh tượng Mật Giáo. Bên cạnh đó, còn có các bản sao cổ như Biệt Tôn Tạp Ký (別尊雜記) 57 quyển—bộ sách thâu tập các tranh tượng do Tâm Giác (心覺, Shinkaku, 1117-1180) soạn, Y Tâm Phương (醫心方, bản chép tay dưới thời Bình An) 5 thiếp—sách y học tối cổ của Nhật Bản do Đơn Ba Khang Lại (丹波康賴, Tamba-no-Yasunori, 912-995) biên, v.v.
(十善): hay Thập Thiện Nghiệp (s: daśakuśala-karmāni, 十善業), Thập Thiện Nghiệp Đạo (十善業道), Thập Thiện Đạo (十善道), Thập Thiện Căn Bản Nghiệp Đạo (十善根本業道), Thập Bạch Nghiệp Đạo (十白善道), tức là 10 việc làm tốt lành của thân, miệng và ý; gồm 3 nghiệp của thân là:
(1) Không Sát Sanh,
(2) Không Trộm Cắp,
(3) Không Tà Dâm; 4 nghiệp của miệng là
(1) Không Nói Dối,
(2) Không Nói Lời Thêu Dệt,
(3) Không Nói Lời Thô Ác,
(4) Không Nói Hai Lưỡi; và 3 nghiệp của ý là
(1) Không Tham Dục,
(2) Không Sân Nhuế,
(4) Không Tà Kiến.
Mười điều trên được gọi là Thập Thiện Giới (十善戒). Những pháp hành này nhằm đối trị với 10 điều bất thiện, hay 10 nghiệp ác là
(1) Sát Sanh,
(2) Trộm Cắp,
(3) Tà Dâm,
(4) Nói Dối,
(5) Nói Lời Thêu Dệt,
(6) Nói Lời Thô Ác,
(7) Nói Hai Lưỡi,
(8) Tham Dục,
(9) Sân Nhuế,
(10) Tà Kiến.
Trong Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (十善業道經, Taishō No. 600, 1 quyển) do Thật Xoa Nan Đà (s: Śikṣānanda, 實叉難陀, 652-710) nhà Đường dịch, giải thích rất rõ và chi tiết về công đức hành trì từng nghiệp một của Thập Thiện; tỷ dụ như xa lìa việc sát sanh thì sẽ được thành tựu 10 pháp xa lìa phiền não: “Long Vương, nhược ly sát sanh, tức đắc thành tựu Thập Ly Não Pháp. Hà đẳng vi thập ? Nhất ư chư chúng sanh phổ thí vô úy, nhị thường ư chúng sanh khởi đại bi tâm, tam vĩnh đoạn nhất thiết sân nhuế tập khí, tứ thân thường vô bệnh, ngũ thọ mạng trường viễn, lục hằng vi phi nhân chi sở thủ hộ, thất thường vô ác mộng tẩm giac khoái lạc, bát diệt trừ oán kết tự giải, cửu vô ác đạo bố, thập mạng chung sanh thiên (龍王、若離殺生、卽得成就十離惱法、何等爲十、一於諸眾生普施無畏、二常於眾生起大慈心、三永斷一切瞋恚習氣、四身常無病、五壽命長遠、六恆爲非人之所守護、七常無惡夢寢覺快樂、八滅除怨結眾怨自解、九無惡道怖、十命終生天, Long Vương, nếu xa lìa sát sanh, tức đạt được Mười Pháp Lìa Phiền Não. Thế nào là mười ? Một là ban khắp sự không sợ hãi cho các chúng sanh; hai là thường khởi tâm từ bi lớn đối với chúng sanh; ba là mãi đoạn tất cả tập khí sân nhuế; bốn là thân thường không bệnh; năm là thọ mạng dài lâu; sáu là thường được hàng phi nhân bảo hộ; bảy là ngũ thường không có ác mộng, tỉnh thức khoái lạc; tám là diệt trừ mọi oan kết, các oan khiên tự giải mở; chín là không sợ hãi trong đường ác, mười là khi mạng hết được sanh lên Trời).” Hay như trong Phật Thuyết Tín Giải Trí Lực Kinh (佛說信解智力經, Taishō No. 802) có đoạn: “Hựu phục chúng sanh, dĩ thân khẩu ý hành Thập Thiện Nghiệp, bất báng hiền thánh, khởi ư Chánh Kiến, tác chư thiện nghiệp, hành chư thiện pháp, giai thị chánh nhân sở khởi, do thử Chánh Kiến nhân duyên cố, mạng chung chi hậu, sanh ư thiên giới (又復眾生、以身口意行十善業、不謗賢聖、起於正見、作諸善業、行諸善法、皆是正因所起、由此正見因緣故、命終之後、生於天界, lại có chúng sanh, lấy thân miệng ý hành Mười Nghiệp Thiện, không phỉ báng hiền thánh, khởi lên Chánh Kiến, làm các nghiệp thiện, hành các pháp thiện, đều là do khởi lên nhân đúng, do nhân duyên Chánh Kiến này, sau khi mạng hết, sanh lên cõi Trời).”
(竺典): kinh điển Phật Giáo. Trong bài Tống Giáp Sơn Mẫu Cữu Chi Nhiệm Thái Nguyên Tự (送夾山母舅之任太原序) của Viên Tông Đạo (袁宗道, 1560-1600) nhà Minh có đoạn: “Đạo Đức, Nam Hoa dĩ cập trúc điển diệc đa thiệp liệp, huy trần viện hào, vãng vãng hữu hiệu (道德、南華以及竺典亦多涉獵、揮麈援毫、往往有效, Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh cho đến kinh điển Phật Giáo có nhiều liên quan với nhau, chấp bút đàm luận, thường có hiệu quả).” Hay trong bài thơ Tiểu Trừ Dạ Thị Học Nhân (小除夜示學人) của Tịch Đăng (寂燈, ?-?) nhà Minh lại có câu: “Trúc điển đương tôn trọng, phàm tình mạc lãng phàn (竺典當尊重、凡情莫浪攀, kinh Phật nên tôn trọng, phàm phu chớ buông lung).” Trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 82, No. 1571) quyển 81, phần Kì Châu Tam Giác Thiên Phong Tánh Thiền Sư (蘄州三角天峰性禪師), cũng có câu rằng: “Mỗi độc trúc điển, triệt nhật vong quyện (每讀竺典、徹日忘倦, [Thiền Sư] mỗi khi đọc kinh Phật, suốt ngày quên mệt mỏi).” Hoặc trong Tiếu Ẩn Đại Hân Thiền Sư Ngữ Lục (笑隱大訢禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1367) quyển 2 lại có đoạn rằng: “Viên tác liên cung, khai bát hoang chi thọ vức; tải dương trúc điển, tráng vạn thế chi phi đồ (爰作蓮宮、開八荒之壽域、載揚竺典、壯萬世之丕圖, bèn dựng chùa chiền, mở tám phương ấy cõi thọ; xiển dương kinh Phật, sáng muôn thưở ấy cơ đồ).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập