Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Điều kiện duy nhất để cái ác ngự trị chính là khi những người tốt không làm gì cả. (The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing.)Edmund Burke
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Đồ »»

(八卦): là khái niệm triết học cơ bản của Trung Quốc cổ đại. Nguyên lai có hai khái niệm khác nhau:
(1) Khái niệm gọi là “Vô Cực sanh Hữu Cực, Hữu Cực thị Thái Cực, Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng diễn Bát Quái, bát bát lục thập tứ quái (無極生有極、有極是太極、太極生兩儀、兩儀生四象、四象演八卦、八八六十四卦, Vô Cực sanh ra Hữu Cực, Hữu Cực là Thái Cực, Thái Cực sanh ra Lưỡng Nghi [tức âm và dương], Lưỡng Nghi sanh ra Tứ Tượng [tức Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm], Tứ Tượng diễn thành Bát Quái, tám tám sáu mươi bốn quẻ).” Đây được gọi là Phục Hy Bát Quái (伏羲八卦) hay còn gọi là Tiên Thiên Bát Quái (先天八卦).
(2) Là học thuyết càn khôn của Chu Văn Vương (周文王). Ông cho rằng trước có trời đất, trời đất giao nhau sinh ra vạn vật; Thiên là Càn (乾), Địa là Khôn (坤); còn lại 6 quẻ kia là các con của nhà vua. Quẻ Chấn (震) là con trai đầu, Khảm (坎) là con trai giữa, Cấn (艮) là con trai út, Tốn (巽) là con gái đầu, Ly (離) là con gái giữa, Đoài (兌) là con gái út. Đây được gọi là Văn Vương Bát Quái (文王八卦) hay Hậu Thiên Bát Quái (後天八卦). Thông thường phù hiệu Bát Quái được kết hợp với Thái Cực Đồ (太極圖), đại diện cho chân lý chung cực mang tính tín ngưỡng truyền thống của Trung Quốc—Đạo (道). Bát Quái được hình thành do ba vạch, thể hiện ý tượng theo thứ tự: tên quẻ, tự nhiên, tánh tình, gia đình, thân thể, phương vị. Càn (乾, ☰, Trời, khỏe mạnh, cha, đầu, Tây Bắc); Đoài (兌, ☱, đầm nước, vui mừng, thiếu nữ, Tây); Ly (離, ☲, lửa, tươi đẹp, gái giữa, miệng, Nam); Chấn (震, ☳, sấm sét, cử động, trưởng nam, chân, Đông); Tốn (巽, ☴, gió, đi vào, trưởng nữ, bắp đùi, Đông Nam); Khảm (坎, ☵, nước, vùi lấp, trai giữa, lỗ tai, Bắc); Cấn (艮, ☶, núi, dừng lại, thiếu nam, tay, Đông Bắc); Khôn (坤, ☷, đất, thuận hòa, mẹ, bụng, Tây Nam). Từ hình tượng phù hiệu của các quẻ như trên, Chu Hy (朱熹, 1130-1200) nhà Nam Tống đã đặt ra bài ca cho các em nhỏ dễ nhớ: “Càn tam liên, Khôn lục đoạn, Chấn ngưỡng vu, Cấn phú oản, Ly trung hư, Khảm trung mãn, Đoài thượng khuyết, Tốn hạ đoạn (乾三連、坤六斷、震仰盂、艮覆碗、離中虛、坎中滿、兌上缺、巽下斷, quẻ Càn ba vạch nối liền, quẻ Khôn ba vạch đứt thành sáu đoạn, quẻ Chấn có hai vạch trên đứt đoạn, quẻ Cấn có hai vạch dưới đứt đoạn, quẻ Ly có vạch giữa đứt đoạn, quẻ Khảm có vạch giữa liền nhau, quẻ Đoài có vạch trên đứt đoạn, quẻ Tốn có vạch dưới đứt đoạn).”
Tại Trung Quốc, đồ hình Bát Quái thường được treo trước cửa nhà để trấn trừ tà ma, quỷ mị, bên trong có cái kính, gọi là “Chiếu Yêu Kính (照妖鏡).” Nó có ảnh hưởng đến các phương diện bói toán, phong thủy, y học, võ thuật, âm nhạc, v.v. Tại Việt Nam, tư tưởng Bát Quái cũng có ảnh hưởng và phổ cập trong dân gian. Trong tác phẩm Chu Dịch Dịch Chú (周易譯注) của Chu Chấn Phủ (周振甫) nhận định rằng Bát Quái có mối quan hệ giống như 4 nguyên tố hình thành vạn vật của Ấn Độ cũng như Hy Lạp cổ đại là đất, nước, gió và lửa. Ông cho rằng Bát Quái có thể phân thành 4 loại: đất hòa với núi tương thông, nước hòa với sông hồ tương thông, gió hòa với trời tương thông, lửa hòa với sấm sét tương thông. Hơn nữa, Bát Quái cũng có mối quan hệ rất mật thiết với Ngũ Hành (五行) của truyền thống Trung Quốc: Càn là trời, thuộc về Kim; Đoài là sông hồ, thuộc về Kim; Ly là lửa, thuộc về Hỏa; Chấn là sấm sét, thuộc về Mộc; Tốn là gió, thuộc về Mộc; Khảm là nước, thuộc về Thủy; Cấn là núi, thuộc về Thổ; Khôn là đất, thuộc về Thổ. Về mối quan hệ với Cửu Cung (九宮), Cửu Cung là 9 phương vị được quy định trong Lạc Thư (洛書). Nhìn chung, người ta thường lấy hậu thiên bát quái đặt vào phương vị trong Lạc Thư, hình thành nên cái gọi là Cửu Cung Bát Quái (九宮八卦). Tại Đài Loan rất thịnh hành thuyết Bái Quái này, như dưới thời nhà Thanh có xuất hiện Bát Quái Hội (八卦會), lãnh đạo nông dân khởi nghĩa và hiện tại vẫn còn địa danh Bát Quái Sơn (八卦山). Trong dân gian Việt Nam cũng rất thịnh hành một loại Bát Quái Đồ gọi là Bát Quái Đồ Trừ Tà, hay thường gọi là Bùa Bát Quái, người Tàu vẽ sẵn, bán ở các tiệm kiếng. Loại Bát Quái Đồ Trừ Tà này gồm các quẻ giống hệt Bát Quái Tiên Thiên, nhưng sắp thứ tự các quẻ theo chiều quay ngược lại. Trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 87 có đoạn liên quan đến Cửu Cung Bát Quái: “Tống Giang tùy tức điều khiển quân mã xuất thành, ly thành thập lí, địa danh Phương Sơn, địa thế bình thản, kháo sơn bàng thủy, bài hạ Cửu Cung Bái Quái trận thế, đẳng hầu gian, chỉ kiến Liêu binh phân cố tam đội nhi lai (宋江隨卽調遣軍馬出城、離城十裏、地名方山、地勢平坦、靠山傍水、排下九宮八卦陣勢、等候間、只見遼兵分做三隊而來, Tống Giang vâng lời liền điều khiển quân mã ra khỏi thành, rời thành được mười dặm, có vùng đất tên Phương Sơn, địa thế bằng phẳng, nương núi tựa sông, bèn bày trận thế Cửu Cung Bái Quái; chờ đợi một lúc, chỉ thấy quân Liêu chia thành ba đội tiến đến).”
(孤魂): chỉ những linh hồn cô đơn, không nơi nương tựa. Như trong tác phẩm Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄), phần Trung Nguyên Tiết (中元節), của Mạnh Nguyên Lão (孟元老, ?-?) nhà Tống, có đoạn: “Thiết đại hội, phần tiền sơn, tế quân trận vong một, thiết cô hồn chi đạo tràng (設大會、焚錢山、祭軍陣亡歿、設孤魂之道塲, thiết lập đại hội, đốt núi tiền, tế các vong linh chết trong quân trận, lập đạo tràng cô hồn).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu Trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 5 có câu: “Cô hồn diểu diểu dĩ vô y, trường dạ man man nhi vị đán (孤魂渺渺以無依、長夜漫漫而未旦, cô hồn mù mịt biết nương đâu, đêm tối mênh mang chưa tỏ sáng).” Hay trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) quyển 6, phần Ngục Không Sám Biểu (獄空懺表), cũng có đoạn: “Vô luận thử quốc độ, tha quốc độ, thử thế giới, tha thế giới, vô lượng quốc độ, vô tận thế giới, phàm trầm nịch Tam Đồ chi thảm thảm cô hồn, tất trượng Phật ân tận độ (無論此國土、他國土、此世界、他世界、無量國土、無盡世界、凡沉溺三塗之慘慘孤魂、悉仗佛恩盡度, không kể quốc độ này, quốc độ kia, thế giới này, thế giới kia, vô lượng các quốc độ, vô tận các thế giới, phàm chúng cô hồn thê thảm bị chìm đắm trong Ba Đường, đều nhờ ơn Phật được độ hết cả).” Trong Thiền môn có bài Tán Cô Hồn rằng: “Cô hồn phất tử, vô chủ vô y, giai nhân lụy thế bất tu trì, chánh pháp vĩnh văn tri, kim ngộ minh sư, thoát khổ sanh Đao Lị (孤魂甶子、無主無依、皆因累世不修持、正法永聞知、今遇明師、脫苦生忉利, cô hồn đầu quỷ, không chủ nương gì, đều do đời trước chẳng tu trì, chánh pháp mãi biết nghe, nay gặp minh sư, thoát khổ sanh Đao Lị).”
(九有): chỉ cho 9 xứ sở cư trú của chúng hữu tình, hay 9 loại sinh tồn của thế giới hữu tình, còn gọi là Cửu Cư (九居), Cửu Chúng Sanh Cư (九眾生居), Cửu Hữu Tình Cư (九有情居), Cửu Môn (九門), Cửu Địa (九地); có thể chia thành Dục Giới (欲界), Sắc Giới (色界) và Vô Sắc Giới (無色界). Tùy theo tam muội Thiền định sâu hay cạn mà Sắc Giới và Vô Sắc Giới lại chia thành Tứ Thiền Thiên (四禪天, bốn cõi Thiền) và Tứ Vô Sắc Thiên (四無色天, bốn cõi trời vô sắc); như vậy cọng với Dục Giới thành 9 cõi gồm:
(1) Dục Giới Ngũ Thú Địa (欲界五趣地, cõi dục có 5 đường): nơi sinh sống lẫn lộn của các hiện hữu Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, người và trời (kể cả cõi trời Sáu Dục), nên được gọi là Ngũ Thú Tạp Cư Địa (五趣雜居地, nơi 5 loài sống hỗn tạp lẫn nhau).
(2) Ly Sanh Hỷ Lạc Địa (離生喜樂地): cảnh địa sanh khởi niềm vui sướng nhờ xa lìa đường ác của Dục Giới; cõi Sơ Thiền của Sắc Giới thuộc về cảnh địa này.
(3) Định Sanh Hỷ Lạc Địa (定生喜樂地): cảnh địa sanh khởi niềm hỷ lạc nhờ có định; cõi Thiền thứ 2 của Sắc Giới thuộc cảnh địa này.
(4) Ly Hỷ Diệu Lạc Địa (離喜妙樂地): cảnh địa có sự an lạc thù thắng nhờ xa lìa niềm vui của cảnh địa trước; cõi Thiền thứ 3 của Sắc Giới thuộc cảnh địa này.
(5) Xả Niệm Thanh Tịnh Địa (捨念清淨地): cảnh địa có được nhờ xả ly tất cả hỷ lạc của các cảnh địa trước, cho nên tâm đạt được sự an tĩnh, bình đẳng, tự giác và thanh tịnh; cõi Thiền thứ 4 của Sắc Giới thuộc cảnh địa này.
(6) Không Vô Biên Xứ Địa (空無邊處地): cảnh địa có được nhờ xa lìa tánh vật chất của Sắc Giới và chứng đắc tánh tự tại của hư không không cùng tận; cõi trời thứ nhất của Vô Sắc Giới thuộc về cảnh địa này.
(7) Thức Vô Biên Xứ Địa (識無邊處地): cảnh địa đạt được thức là vô hạn, rộng rãi vô cùng; cõi trời thứ 2 của Vô Sắc Giới thuộc về cảnh địa này.
(8) Vô Sở Hữu Xứ Địa (無所有處地): cảnh địa xa lìa tính động của 2 địa trước, nhập vào tưởng vắng lặng gọi là “không có một vật”; cõi trời thứ 3 của Vô Sắc Giới thuộc về cảnh địa này.
(9) Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Địa (非想非非想處地): cảnh địa xa lìa cả có tưởng cũng như không có tưởng, không thiên về có và không, đạt đến trạng thái an tĩnh, bình đẳng; cõi trời thứ 4 của Vô Sắc Giới thuộc về cảnh địa này.
Trong Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經) có câu: “Tứ Sanh Cửu Hữu, đồng đăng Hoa Tạng huyền môn, Bát Nạn Tam Đồ, cọng nhập Tỳ Lô tánh hải (四生九有、同登華藏玄門、八難三途、共入毘盧性海, Bốn Loài Chín Cõi, cùng lên Hoa Tạng cửa huyền; Tám Nạn Ba Đường, đều vào Tỳ Lô biển tánh).” Hay như trong Tự Sa Môn Huyền Trang Thượng Biểu Ký (寺沙門玄奘上表記), phần Thỉnh Đắc Thiện Lạc Pháp Sư Đẳng Trùng Xuất Gia Biểu (請得善洛法師等重出家表) lại có đoạn: “Phục duy: Hoàng Đế Hoàng Hậu Bệ Hạ, uẩn linh diệu giác, ứng tích thiện quyền, cố năng giám cực chơn như, chuyển Pháp Luân ư Cửu Hữu, bi hoài thứ loại, chửng trầm nạn ư Tam Đồ (伏惟、皇帝皇后陛下、蘊靈妙覺、應跡善權、故能鑒極眞如、轉法輪於九有、悲懷庶類、拯沉難於三塗, Cúi mong: Hoàng Đế, Hoàng Hậu, Bệ Hạ, linh thiêng biết tỏ, ứng tích hiển bày, nên có thể chứng giám chơn như, chuyển Xe Pháp nơi Chín Cõi, xót thương muôn dân, cứu khổ nạn nơi Ba Đường).” Hoặc như trong A Tỳ Đạt Ma Tàng Hiển Tông Luận (阿毘達磨藏顯宗論, Taishō No. 1563) quyển 12 có câu: “Như thị giải thích Thất Thức Trú dĩ, nhân tư phục biện Cửu Hữu Tình Cư (如是解釋七識住已、因茲復辯九有情居, như vậy đã giải thích xong Bảy Thức Trú, nhân đây lại bàn rõ Chín Cõi Cư Trú Của Chúng Hữu Tình).”
(九玄七祖): Theo quan niệm của Trung Quốc, Cửu Huyền (九玄) là 9 đời, gồm tử (子, con), tôn (孫, cháu), tằng (曾, chắt), huyền (玄, chít), lai (來, chiu), côn (昆), nhưng (仍), vân (雲), nhĩ (耳); nghĩa là tính từ đời con trở xuống. Thất Tổ là phụ (父, cha), tổ (祖, ông), tằng (曾, cố), cao (高, cao), thái (太), huyền (玄), hiển (顯); tức là tính từ đời cha trở lên. Đặc biệt, từ thời nhà Nguyên trở đi, người cha đã qua đời được gọi là Hiển Khảo (顯考). Như vậy, trong hệ thống các đời của Cửu Huyền Thất Tổ không có sự trùng lập của đời nào cả. Trong Phước Đức Chánh Thần Kim Kinh (福德正神金經) của Đạo Giáo có câu rằng: “Tu hành vô biên phước, lập đức lập công dương, kết tiên duyên, độ từ hàng, Cửu Huyền Thất Tổ vĩnh lưu phương (修行無邊福、立德立功揚、結仙緣、渡慈航、九玄七祖永流芳, Tu hành vô biên phước, lập đức lập công nêu cao, kết duyên với tiên, qua thuyền từ, Cửu Huyền Thất Tổ mãi thơm lây).” Tuy nhiên, theo quan niệm của Việt Nam, Cửu Huyền Thất Tổ được định nghĩa khác. Cửu Huyền là 9 đời, gồm cao (高, ông cao), tằng (曾, ông sơ), tổ (祖, ông cố), khảo (考, ông nội), cha, bản thân mình, con, cháu, chắt và chít; được tính từ . Thất Tổ (七祖) là 7 đời, gồm cao, tằng, tổ, cao cao, tằng tằng, tổ tổ, cao tổ; tính từ đời ông cao trở lên. Thế thì, theo Việt Nam, hệ thống Cửu Huyền Thất Tổ có khác với Trung Quốc và có sự trùng lập ở đời ông cao. Trong tác phẩm Sự Lý Dung Thông (事理融通) của Thiền Sư Hương Hải (香海, 1728-1715) có hai câu thơ đề cập đến Cửu Huyền Thất Tổ như: “Thích độ nhân miễn tam đồ khổ, thoát Cửu Huyền Thất Tổ siêu phương (釋度人免三途苦、脫九玄七祖超方, Phật độ người miễn Ba Đường khổ, thoát Cửu Huyền Thất Tổ siêu thăng).”
(s: śirasā'bhivandate, 頂禮): tức hai đầu gối, hai cùi chỏ và đầu chạm đất, lấy đỉnh đầu lạy xuống, tiếp xúc với hai chân của đối tượng mình đảnh lễ. Khi hướng tượng Phật hành lễ thì nâng hai tay quá đầu, để khoảng trống, biểu hiện tiếp xúc với bàn chân đức Phật. Hình thức đảnh lễ này còn gọi là Đầu Đảnh Kính Lễ (頭頂禮敬, đỉnh đầu kính lạy), Đầu Diện Lễ Túc (頭面禮足, đầu mặt lạy dưới chân), Đầu Diện Lễ (頭面禮, đầu mặt lạy); đồng nghĩa với Ngũ Thể Đầu Địa (五體投地, năm vóc gieo xuống đất), Tiếp Túc Lễ (接足禮, lạy chạm chân). Hình thức này thể hiện sự sùng kính tối cao của Ấn Độ, lấy cái cao nhất của mình là đỉnh đầu, kính trọng cái thấp nhất của người khác là chân. Như trong Tán A Di Đà Phật Kệ (讚阿彌陀佛偈, Taishō Vol. 47, No. 1978) có đoạn: “Phật quang chiếu diệu tối đệ nhất, cố Phật hựu hiệu Quang Viêm Vương, Tam Đồ hắc ám mông quang khải, thị cố đảnh lễ Đại Ứng Cúng (佛光照耀最第一、故佛又號光炎王、三塗黑闇蒙光啟、是故頂禮大應供, hào quang Phật tỏa sáng bậc nhất, nên Phật có hiệu Quang Viêm Vương, Ba Đường tăm tối mong soi tỏ, cho nên kính lễ Đại Ứng Cúng).” Hay trong bài Thơ Thu Nhật Du Đông Sơn Tự Tầm Thù Đàm Nhị Pháp Sư (秋日游東山寺尋殊曇二法師) của Huệ Tuyên (慧宣, ?-?) nhà Đường lại có câu: “Tâm hoan tức đảnh lễ, đạo tồn nhưng mục kích (心歡卽頂禮、道存仍目擊, tâm vui tức kính lễ, đạo còn như mắt thấy).” Hoặc trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 42 có đoạn: “Tống Giang tại mã thượng dĩ thủ gia ngạch, vọng không đảnh lễ, xưng tạ thần minh tỉ hựu chi lực (宋江在馬上以手加額、望空頂禮、稱謝神明庇祐之力, Tống Giang ở trên ngựa lấy tay đưa lên trán, hướng giữa trời vái lạy, cảm tạ sức trợ giúp của thần minh).” Ngoài ra, đảnh lễ cũng thể hiện sự sùng bái, kính phục. Như trong bộ tiểu thuyết Khách Song Nhàn Thoại (客窗閒話) của Ngô Xí Xương (吳熾昌, ?-?) nhà Thanh có câu: “Sĩ đại phu thiên đảnh lễ bội phục, đại chúng vô bất thế khấp tán hoan (士大夫僉頂禮佩服、大眾無不涕泣贊歎, hàng sĩ đại phu đều sùng bái bội phục, đại chúng chẳng ai mà không rơi lệ khen ngợi vui mừng).”
(金蓮): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Hoa sen bằng vàng. Như trong bài thơ Nam Triều (南朝) của Lý Thương Ẩn (李商隱, khoảng 813-858) nhà Đường có câu: “Thùy ngôn quỳnh thọ triêu triêu kiến, bất cập kim liên bộ bộ lai (誰言瓊樹朝朝見、不及金蓮步步來, ai bảo cây quỳnh sáng sáng thấy, chẳng bằng sen vàng bước bước đi).” (2) Chỉ cho bàn chân bó nhỏ lại của người nữ theo tục lệ ngày xưa. Như trong bài Hòa Hàn Trí Quang Thị Lang Vô Đề (和韓致光侍郎無題) 2 của Ngô Dung (吳融, ?-?) nhà Đường có câu: “Ngọc trứ hòa trang ấp, kim liên trục bộ tân (玉箸和妝裛、金蓮逐步新, đũa ngọc cùng áo kép, gót vàng theo bước xinh).” (3) Chỉ cho tòa sen, tòa ngồi của Phật hình hoa sen. Như trong bài Thất Ngôn (七言) thứ 9 của Lữ Nham (呂岩, 798-?) nhà Đường có câu: “Thủy trung bạch tuyết vi vi kết, hỏa lí kim liên tạm tạm sanh (水中白雪微微結、火裏金蓮漸漸生, trong nước tuyết trắng nho nhỏ kết, lửa rực đài sen dần dần sinh).” (4) Chỉ hoa đăng. Như trong tác phẩm Tuyên Hòa Di Sự (宣和遺事) có câu: “Kim liên vạn trản, tản hướng thiên cù (金蓮萬盞、撒向天街, hoa đăng muôn ngọn, tung khắp không gian).” Trong Chỉ Nguyệt Lục (指月錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 83, No. 1578) quyển 31 có đoạn: “Kim liên tùng địa dũng, bảo cái tự thiên thùy, vi thị thần thông diệu dụng, vi thị pháp nhĩ như nhiên (金蓮從地湧、寶蓋自天垂、爲是神通妙用、爲是法爾如然, sen vàng từ đất vọt, lọng báu tự trời buông, đó là thần thông diệu dụng, đó là pháp vốn tự nhiên).” Hay trong Ảnh Hưởng Tập (影響集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1209), bài Tịnh Độ Thi (淨土詩), có đoạn: “Nhất cú Di Đà tận lực xưng, Tam Đồ Bát Nạn tổng siêu thăng, trì danh diệt tội kim liên hiện, bi nguyện toàn bằng Phật lực tăng (一句彌陀盡力稱、三塗八難總超升、持名滅罪金蓮現、悲願全憑佛力增, một câu Di Đà tận lực xưng, Ba Đường Tám Nạn thảy siêu thăng, trì danh diệt tội sen vàng hiện, bi nguyện toàn nhờ Phật lực tăng).”
(p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍): còn gọi là Kỳ Viên Tinh Xá (祇園精舍), tên gọi của tinh xá nằm ở Thành Xá Vệ (s: Śrāvastī, p: Sāvatthī, 舍衛城), kinh đô của nước Kiều Tát La (s: Kauśala, p: Kosala, 憍薩羅) vào thời Ấn Độ cổ đại. Lúc bấy giờ, trưởng giả Tu Đạt (p: Sudatta, 須達, còn có tên là Cấp Cô Độc [給孤獨]) của Thành Xá Vệ mua khu rừng của Thái Tử Kỳ Đà (s, p: Jeta, 祇陀) để xây dựng tu viện cho giáo đoàn đức Phật. Tên gọi Kỳ Viên vốn phát xuất từ truyền thuyết này. Trưởng giả Tu Đạt là người thường bố thí vật phẩm ăn uống cho những người cô độc, nghèo nàn, cho nên nơi đây còn được gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên (祇樹給孤獨園). Đức Phật đã trãi qua hơn 20 năm vào cuối đời ngài ở tại đây, và khoảng 7, 8 phần kinh điển hiện tại đều được ngài thuyết giảng tại nơi này. Tuy nhiên, ngay sau khi đức Phật diệt độ thì tinh xá này bị suy tàn. Về sau, khi Pháp Hiển (法顯, 340?-?) và Huyền Trang (玄奘, 602-664) sang du hành ở Ấn Độ, tinh xá này đã hoàn toàn hoang phế. Hiện tại nó chỉ còn là di tích rất rộng lớn ở phía Nam vùng Saheṭh-Maheth thuộc tiểu bang Uttar Pradesh. Trong Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn Kinh (佛說文殊師利般涅槃經, Taishō No. 463) do Cư Sĩ Nhiếp Đạo Chơn (聶道眞) nhà Tây Tấn dịch có đoạn: “Nhĩ thời, Thế Tôn tùng Tam Muội khởi, tức tiện vi tiếu, hữu ngũ sắc quang tùng Phật khẩu xuất, thử quang xuất thời, Kỳ Hoàn Tinh Xá biến thành Lưu Ly (爾時、世尊從三昧起、卽便微笑、有五色光從佛口出、此光出時、祇洹精舍變成琉璃, lúc bấy giờ đức thế tôn từ trong Tam Muội đứng dậy, bèn mĩm cười, có ánh sáng năm sắc từ trong miệng Phật phóng ra, khi ánh sáng này phóng ra, Kỳ Hoàn Tinh Xá biến thành ngọc Lưu Ly).” Hay như trong Trung Thiên Trúc Xá Vệ Quốc Kỳ Hoàn Tự Đồ Kinh (中天竺舍衛國祇洹寺圖經, Taishō No. 1899), phần Trung Thiên Trúc Xá Vệ Quốc Kỳ Hoàn Tự Đồ Kinh Tự (中天竺舍衛國祇洹寺圖經序) lại có đoạn đề cập đến Kỳ Viên Tinh Xá như sau: “Vãng giả Thích Tôn tại Đao Lợi Thiên, thử tượng tại điện vi chư Tỳ Kheo giáo giới thuyết pháp, nãi chí chư vương chi bất kiến Phật tư mộ Thích Ca, thử tượng vi vương tam độ thuyết pháp; Kỳ Viên sơ lập giới đàn, thành thời thử tượng lãnh tiền đồ chúng, chí giới đàn sở nhiễu tam tráp dĩ, bộ bộ giai sanh kim sắc thiên diệp Liên Hoa; mỗi thọ giới thời hoa tự nhiên khai, trung hữu thiên đồng tấu ư thiên nhạc (徃者釋尊在忉利天、此像在殿爲諸比丘敎戒說法、乃至諸王之不見佛思慕釋迦、此像爲王三度說法、祇園初立戒壇、成時此像領前徒眾、至戒壇所遶三匝已、步步皆生金色千葉蓮花、每受戒時花自然開、中有天童奏於天樂, xưa kia khi đức Thích Tôn tại Trời Đao Lợi, tượng này tại chánh điện vì các Tỳ Kheo mà dạy bảo, thuyết pháp, cho đến các vua không thấy được Phật, nhớ nghĩ đến Thích Ca, tượng này cũng vì vua thuyết pháp ba lần; lúc ban đầu, Kỳ Viên Tinh Xá mới lập giới đàn, khi hình thành, tượng này dẫn các đồ chúng trước đây, đến giới đàn đi nhiễu quanh ba vòng xong, từng bước đều sanh hoa sen ngàn cánh có màu vàng kim; mỗi khi thọ giới, hoa ấy tự nhiên nở ra, bên trong có thiên đồng tấu khúc nhạc trời).”
(冥途、冥塗): chỉ cho thế giới mê ám, tối tăm của người chết; còn gọi là Minh Thổ (冥土), Minh Phủ (冥府), Minh Giới (冥界), U Đồ (幽塗), Huỳnh Tuyền (黃泉), Minh Lộ (冥路). Theo Tịnh Độ Tam Muội Kinh (淨土三昧經), Thập Vương Kinh (十王經), v.v., nơi cõi Minh Đồ có vua Diêm Ma (閻魔), rất nhiều minh quan, Thập Vương như Tần Quảng Vương (秦廣王), v.v., chuyên trừng phạt tội lỗi của phạm nhân. Tại Trung Quốc, tín ngưỡng Minh Phủ của Thái Sơn Phủ Quân (太山府君) thời cổ đại cũng có cùng tư tưởng như vậy. Đối với Nhật Bản, từ thời Trung Đại trở về sau, rất thịnh hành tín ngưỡng cho rằng giữa đường đi qua Minh Phủ có Tam Đồ Xuyên (三途川, sanzugawa) và Tái Hà Nguyên (賽の河原, sai-no-kawara, nơi người con bất hiếu chịu những cực hình, hằng ngày chất đá làm tháp cúng dường song thân đã quá vãng). Về phía Phật Giáo, Minh Đồ chỉ cho chốn Địa Ngục, Ngạ Quỷ. Như trong Tú Nhu Ký (繡襦記), phần Dịch Mục Khuyến Học (剔目勸學) của Từ Lâm (徐霖, 1462-1538) nhà Minh có câu: “Ngã tại Minh Đồ hồi chuyển, thượng ngột tự tâm đầu hỏa nhiên (我在冥途回轉、尚兀自心頭火燃, tôi ở cõi Minh Đồ xoay quanh, lại ngớ ngẩn tự trong tâm bốc lửa).” Hay trong Quy Sơn Cảnh Sách Chú (溈山警策註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1294) lại có câu: “Tiền lộ vị Minh Đồ, Ngũ Thú mang mang, sở trú vô định (前路謂冥途、五趣茫茫、所往無定, đường phía trước là Minh Đồ, năm cõi mờ mịt, chỗ ở vô định).”
(冥路): đồng nghĩa với minh đồ (冥途), nghĩa là con đường tối tăm (thường ví cho Địa Ngục), hay còn có nghĩa ám chỉ lúc chết. Như trong Đôn Hoàng Biến Văn Tập (敦煌變文集), phần Đại Mục Càn Liên Minh Gian Cứu Mẫu Biến Văn (大目乾連冥間救母變文) có đoạn: “Hồn phách phiêu lưu minh lộ gian, nhược vấn Tam Đồ hà xứ khổ, hàm ngôn Ngũ Đạo quỷ môn quan (魂魄飄流冥路間、若問三塗何處苦、咸言五道鬼門關, hồn phách phiêu lưu u tối gian, nếu hỏi Ba Đường nơi nào khổ, đều cho Năm Nẻo quỷ môn quan).” Hay như trong bài từ Thu Nhụy Hương Dẫn (秋蕊香引) của Liễu Vĩnh (柳永, ?-1053) nhà Tống lại có câu: “Hướng tiên đảo, quy minh lộ, lưỡng vô tiêu tức (向仙島、歸冥路、兩無消息, người thì hướng đảo tiên, người thì trở về minh lộ, cả hai đều mất tin tức).” Trong Toàn Đường Thi (全唐詩) quyển 865, bài Tặng Đậu Thừa (贈竇丞) của Lưu Khái (劉溉, ?-?) nhà Đường có đoạn: “Minh lộ tra tra nhân bất tri, bất dụng khổ thuyết sử nhân bi, hỷ đắc phùng quân truyền gia tín, hậu hội mang mang hà xứ kỳ (冥路杳杳人不知、不用苦說使人悲、喜得逢君傳家信、後會茫茫何處期, lối mờ mù mịt người có hay, chẳng cần giải thuyết khiến buồn lo, may gặp được anh tin nhà nhắn, mai này mênh mang chốn nào đây ?).” Về nghĩa chỉ lúc gần chết, trong Liêu Trai Chí Dị (聊齋誌異), thiên Liên Hương (蓮香) của Bồ Tùng Linh (蒲松齡, 1640-1715) nhà Thanh có đoạn: “Liên nhập viết: 'Quân đãi hỉ, thị chơn quỷ vật, kỳ nật mỹ nhi bất tốc tuyệt, minh lộ cận hỉ' (蓮入曰:君殆矣、是眞鬼物、暱其美而不速絕、冥路近矣, Liên Hương đi vào nói: 'Ngươi nguy rồi ! Quả đúng là quỷ vật thứ thiệt, gần cái đẹp mà không dứt sớm, cái chết gần kề rồi đó !').”
(s: preta, p: peta, 餓鬼): quỷ đói, ma đói; âm dịch là Bế Lệ Đa (薜荔多、閉戾多), Tỉ Lễ Đa (俾禮多), Ti Lợi Đa (卑利多), Di Lệ Đa (彌荔多), Bế Đa (閉多); là một loại trong Tam Đồ (三途, Ba Đường), Ngũ Thú (五趣, Năm Cõi) hay Lục Thú (五趣, Sáu Cõi). Người nào đời trước tạo ác nghiệp, nhiều ham muốn, sau khi chết sẽ đọa làm thân quỷ đói, thường bị khổ sở vì đói khát. Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh (正法念處經, Taishō Vol. 17, No. 721) quyển 16, Phẩm Ngạ Quỷ (餓鬼品), cho biết rằng trú xứ của Ngạ Quỷ có hai nơi: một là trong cõi người, hai là tại thế giới Ngạ Quỷ cách 500 Do Tuần dưới lòng đất cõi Diêm Phù Đề (s: Jampudīpa, 閻浮提). Kinh điển này và Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 6, phần Liệt Số Bộ (列數部) thứ 4 cũng có nêu ra tên 36 loại Ngạ Quỷ. (1) Ca Bà Ly (迦婆離), Hoạch Thân Ngạ Quỷ (鑊身餓鬼, Ngạ Quỷ thân cái vạc nước sôi); (2) Tô Chi Mục Khư (甦支目佉), Châm Khẩu Ngạ Quỷ (針口餓鬼, Ngạ Quỷ miệng nhỏ như cây kim); (3) Bàn Đa Bà Xoa (槃多婆叉), Thực Thổ Ngạ Quỷ (食吐餓鬼, Ngạ Quỷ ăn vào nôn mữa ra); (4) Tỳ Sư Tha (毘師咃), Thực Phẩn Ngạ Quỷ (食糞餓鬼, Ngạ Quỷ ăn phân); (5) A Bà Xoa (阿婆叉), Vô Thực Ngạ Quỷ (無食餓鬼, Ngạ Quỷ không ăn được gì cả); (6) Kiền Đà (揵陀), Thực Khí Ngạ Quỷ (食氣餓鬼, Ngạ Quỷ ăn hơi); (7) Đạt Ma Bà Xoa (達摩婆叉), Thực Pháp Ngạ Quỷ (食法餓鬼, Ngạ Quỷ ăn pháp); (8) Bà Lợi Lam (婆利藍), Thực Thủy Ngạ Quỷ (食水餓鬼, Ngạ Quỷ ăn nước); (9) A Xa Ca (阿賒迦), Hy Vọng Ngạ Quỷ (悕望餓鬼, Ngạ Quỷ hy vọng); (10) Xí Tra (企吒), Thực Thùy Ngạ Quỷ (食唾餓鬼, Ngạ Quỷ ăn đồ khạc nhổ); (11) Ma La Bà Xoa (摩羅婆叉), Thực Man Ngạ Quỷ (食鬘餓鬼, Ngạ Quỷ ăn tràng hoa); (12) Ra Ngật Tra (囉訖吒), Thực Huyết Ngạ Quỷ (食血餓鬼, Ngạ Quỷ ăn máu); (13) Mông Ta Bà Xoa (瞢娑婆叉), Thực Nhục Ngạ Quỷ (食肉餓鬼, Ngạ Quỷ ăn thịt); (14) Tô Kiện Đà (蘇揵陀), Thực Hương Yên Ngạ Quỷ (食香煙餓鬼, Ngạ Quỷ ăn khói nhang); (15) A Tỳ Già La (阿毘遮羅), Tật Hành Ngạ Quỷ (疾行餓鬼, Ngạ Quỷ chạy nhanh); (16) Xi Đà La (蚩陀邏), Tứ Tiện Ngạ Quỷ (伺便餓鬼, Ngạ Quỷ dòm rình đại tiểu tiện); (17) Ba Đa La (波多羅), Địa Hạ Ngạ Quỷ (地下餓鬼, Ngạ Quỷ sống dưới lòng đất); (18) Hĩ Lợi Đề (矣利提), Thần Thông Ngạ Quỷ (神通餓鬼, Ngạ Quỷ có thần thông); (19) Xà Bà Lệ (闍婆隸), Xí Nhiên Ngạ Quỷ (熾燃餓鬼, Ngạ Quỷ bốc cháy); (20) Si Đà La (蚩陀羅), Tứ Anh Nhi Tiện Ngạ Quỷ (伺嬰兒便餓鬼, Ngạ Quỷ dòm rình con nít đại tiểu tiện); (21) Ca Ma (迦摩), Dục Sắc Ngạ Quỷ (欲色餓鬼, Ngạ Quỷ ham sắc dục); (22) Mâu Đà La Đề Ba (牟陀羅提波), Hải Chử Ngạ Quỷ (海渚餓鬼, Ngạ Quỷ sống ở cồn biển); (23) Diêm La Vương Sứ (閻羅王使), Chấp Trượng Ngạ Quỷ (執杖餓鬼, Ngạ Quỷ cầm gậy); (24) Bà La Bà Xoa (婆羅婆叉), Thực Tiểu Nhi Ngạ Quỷ (食小兒餓鬼, Ngạ Quỷ ăn thịt con nít); (25) Ô Thù Bà Xoa (烏殊婆叉), Thực Nhân Tinh Khí Ngạ Quỷ (食人精氣餓鬼, Ngạ Quỷ ăn tinh khí người); (26) Bà La Môn La Sát Ngạ Quỷ (婆羅門羅剎餓鬼, Ngạ Quỷ La Sát Bà La Môn), (27) Quân Trà Hỏa Lô (君茶火爐), Thiêu Thực Ngạ Quỷ (燒食餓鬼, Ngạ Quỷ ăn lửa cháy); (28) A Du Bà Ra Tha (阿輸婆囉他), Bất Tịnh Hạng Mạch Ngạ Quỷ (不淨巷陌餓鬼, Ngạ Quỷ ăn đồ bất tịnh nơi đường hẽm, bờ ruộng); (29) Bà Di Bà Xoa (婆移婆叉), Thực Phong Ngạ Quỷ (食風餓鬼, Ngạ Quỷ ăn gió); (30) Ương Già Ra Bà Xoa (鴦伽囉婆叉), Thực Hỏa Thán Ngạ Quỷ (食火炭餓鬼, Ngạ Quỷ ăn than); (31) Tỳ Sa Bà Xoa (毘沙婆叉), Thực Độc Ngạ Quỷ (食毒餓鬼, Ngạ Quỷ ăn chất độc); (32) A Tra Tỳ (阿吒毘), Khoáng Dã Ngạ Quỷ (曠野餓鬼, Ngạ Quỷ sống nơi đồng trống); (33) Xa Ma Xá La (賒摩舍羅), Trũng Gian Trú Thực Nhiệt Hôi Thổ Ngạ Quỷ (塚間住食熱灰土餓鬼, Ngạ Quỷ sống nơi gò mã ăn tro đất nóng); (34) Tỳ Lợi Sai Thọ Trung Trú Ngạ Quỷ (毘利差樹中住餓鬼, Ngạ Quỷ sống trong cây Tỳ Lợi Sai); (35) Già Đa Bà Tha (遮多波他), Tứ Giao Đạo Ngạ Quỷ (四交道餓鬼, Ngạ Quỷ sống nơi đường giao thông); và (36) Ma La Ca Da (魔羅迦耶), Sát Thân Ngạ Quỷ (殺身餓鬼, Ngạ Quỷ giết thân). Trong tác phẩm Pháp Tánh Tức Phật Tánh Luận (法性卽佛性論) của Củng Tự Trân (龔自珍, 1792-1841) nhà Thanh có đoạn: “Tự Phật tri kiến, nãi chí Địa Ngục tri kiến, giai biến nhất thiết xứ, nhữ khai Ngạ Quỷ tri kiến, quỷ pháp giới biến nhất thiết xứ (自佛知見、乃至地獄知見、皆遍一切處、汝開餓鬼知見、鬼法界遍一切處, từ tri kiến của Phật, cho đến tri kiến Địa Ngục, đều biến khắp tất cả nơi chốn, ngươi khai mở tri kiến Ngạ Quỷ, pháp giới quỷ biến khắp tất cả mọi nơi).” Trong Thiền môn có bài tán liên quan đến Ngạ Quỷ rằng: “Diện Nhiên Đại Sĩ, Quan Âm hóa hiện, cứu độ Ngạ Quỷ thị họa tiên, A Nan bạch Kim Tiên, diễn thuyết chơn thuyên, thanh lương trừ hỏa diệm (面然大士、觀音化現、救度餓鬼示禍先、阿難白金仙、演說眞詮、清涼除火燄, Diện Nhiên Đại Sĩ, Quan Âm hóa hiện, cứu độ Ngạ Quỷ hiện tai ương, A Nan thưa Kim Tiên, diễn thuyết chân lý, mát tươi trừ lửa nóng).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập