Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng cố trở nên một người thành đạt, tốt hơn nên cố gắng trở thành một người có phẩm giá. (Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Phật Giám Huệ Cần »»
(五祖寺): còn gọi là Đông Sơn Tự (東山寺), Đông Sơn Thiền Tự (東山禪寺), Đông Thiền Tự (東禪寺); hiện tọa lạc tại Ngũ Tổ Trấn (五祖鎭), Huyện Hoàng Mai (黃梅縣), Tỉnh Hồ Bắc (湖北省); là đạo tràng hoằng pháp của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, là một trong những ngôi danh lam quan trọng của Phật Giáo thuộc địa khu Hán tộc. Chùa được kiến lập vào năm 654 (Vĩnh Huy [永徽] 5) nhà Đường. Sau khi Hoằng Nhẫn khai sáng đạo tràng tại Đông Sơn (東山), gây chấn động toàn quốc, môn đồ thường trú đương thời có khi lên đến cả ngàn người. Từ khi Võ Tắc Thiên (武則天, tại vị 684-705) tức vị, phật giáo được xem trọng hơn. Vào năm 700 (Cửu Thị [久視] nguyên niên), bà cung thỉnh các đệ tử của Hoằng Nhẫn là Thần Tú (神秀), Huyền Ước (玄約), Huệ An (慧安), v.v., đến Nội Đạo Tràng (內道塲) để cúng dường, rồi ban tặng danh hiệu Quốc Sư; cho nên thanh danh của Ngũ Tổ Tự theo đó lại tăng thêm. Đến năm 848 (Đại Trung [大中] 2), kiến lập ngôi tự viện của Tổ Sư Ngũ Tổ, rồi đổi tên chùa thành Đại Trung Đông Sơn Tự (大中東山寺), cũng gọi là Ngũ Tổ Tự. Trong khoảng thời gian niên hiệu Cảnh Đức (景德, 1004-1007) nhà Bắc Tống, vua Chơn Tông (眞宗, tại vị 997-1022) nhà Tống lại ban cho tên là Chơn Tuệ Thiền Tự (眞慧禪寺). Vua Anh Tông (英宗, tại vị 1063-1067) nhà Tống thì ban cho bức ngạch với dòng chữ “Thiên Hạ Tổ Đình (天下祖庭).” Vào năm 1102 (Sùng Ninh [崇寧] nguyên niên), vua Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1125) nhà Tống, đề mấy chữ “Thiên Hạ Thiền Lâm (天下禪林)”. Trong khoảng thời gian này, các Pháp Sư như Sư Giới (師戒), Pháp Diễn (法演), Biểu Tự (表自), Tông Bạt (宗拔), v.v., đảm nhiệm chức Phương Trượng (Trú Trì) của chùa; đặc biệt dưới thời kỳ Pháp Diễn trú trì, ông đã xiển dương tông phong đến thời cực thịnh. Từ đó trở về sau, Phật Quả Khắc Cần (佛果克勤), Phật Giám Huệ Cần (佛鑑慧懃), Phật Nhãn Thanh Viễn (佛眼清遠), ba nhân vật được người đương thời tôn xưng là Tam Kiệt (三傑), đã tuyên dương Phật pháp và làm cho Thiền phong hưng thịnh. Đến cuối thời nhà Tống, Đông Sơn gặp nạn chiến hỏa, nhất thời chùa phải chịu cảnh tiêu điều. Vào năm 1282 (Chí Nguyên 19 [至元] nhà Nguyên), Thiền Sư Liễu Hành (了行) đến chùa, tiến hành trùng kiến tổ đình. Năm 1322 (Chí Trị [至治] 2), Thiền Sư Pháp Thức (法式) khôi phục lại mọi Phật sự ở đây và trở thành vị Tổ thời Trung Hưng của chùa. Năm 1331 (Chí Thuận [至順] 2), vua Văn Tông (文宗, tại vị 1328-1329) nhà Nguyên đổi tên chùa thành Đông Sơn Ngũ Tổ Tự (東山五祖寺) và chùa tồn tại cho đến ngày nay. Chính tại chùa này đã diễn ra truyền kỳ nổi tiếng của Thiền Tông về việc trình kệ kiến giải giữa Thần Tú và Huệ Năng (慧能). Sau đó, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã gọi Huệ Năng vào thất, giảng cho nghe Kinh Kim Cang, rồi truyền trao y bát. Lúc bấy giờ, Lục Tổ vâng mệnh đi về phương Nam; và từ đó Thiền Tông phân thành Nam Đốn Bắc Tiệm. Chùa vốn mang phong cách kiến trúc điển hình của Phật Giáo Hán truyền; chủ yếu nằm ở trục trung tâm, phân thành Sơn Môn (山門), Thiên Vương Điện (天王殿), Đại Hùng Bảo Điện (大雄寶殿), Ma Thành Điện (麻城殿), Ngũ Tổ Chơn Thân Điện (五祖眞身殿), Thánh Mẫu Điện (聖母殿) v.v.. Tại Sơn Môn có khắc hai bài kệ của Thần Tú và Huệ Năng. Thiên Vương Điện là kiến trúc được tạo lập trong khoảng thời gian niên hiệu Đại Trung (大中, 847-860) nhà Đường, trước cổng có con sư tử đá thời nhà Đường và trên cửa chính của điện có bức ngạch “Chơn Tuệ Thiền Tự” của vua Chơn Tông nhà Tống. Đại Hùng Bảo Điện cũng được kiến lập trong khoảng thời gian niên hiệu Đại Trung, có bức hoành “Đại Hùng Bảo Điện” do thủ bút của nhà Thư Pháp, thi nhân và là cư sĩ Phật tử nổi danh Triệu Phác Sơ (趙朴初, 1907-2000). Còn Ma Thành Điện, tức Tỳ Lô Điện (毘盧殿), tương truyền sau khi tín đồ vùng Ma Thành (麻城) đến chiêm bái Ngũ Tổ hiển linh, nên cùng nhau vác gạch ngói lên xây dựng ngôi điện này. Chơn Thân Điện là ngôi điện tôn trí chơn thân nhục tượng của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, kiến trúc rất độc đáo, tạo hình tráng lệ; phía trước hai bên có Lầu Chuông và Lầu Trống, ở giữa là Chánh Điện, bên trên có bức hoành với dòng chữ “Chơn Thân Điện”. Ngay chính giữa là Pháp Vũ Tháp (法雨塔), nơi tàng trí chơn thân Ngũ Tổ. Thánh Mẫu Điện là nơi tôn thờ bà họ Châu, mẫu thân của Ngũ Tổ. Ngoài ra, còn có một số kiến trúc khác như Quan Âm Điện, Tổ Đường, Địa Tạng Điện, Thiền Đường, Khách Đường, Phương Trượng Thất, Trai Đường, v.v. Âu Dương Tu (歐陽修[脩], 1007-1072), nhà Nho học thời nhà Tống có làm bài thơ Sơ Tình Độc Du Đông Sơn Tự Ngũ Ngôn Lục Vận (初晴獨游東山寺五言六韻) rằng: “Nhật noãn Đông Sơn khứ, tùng môn sổ lí tà, sơn lâm ẩn giả thú, chung cổ Phạm vương gia, địa tích trì xuân tiết, phong tình biến vật hoa, vân quang tiệm dung dữ, điểu lộng dĩ giao gia, băng hạ tuyền sơ động, yên trung minh vị nha, tự lân đa bệnh khách, lai thám dục khai hoa (日暖東山去、松門數里斜、山林隱者趣、鐘鼓梵王家、地僻遲春節、風晴變物華、雲光漸容與、鳥哢已交加、冰下泉初動、煙中茗未芽、自憐多病客、來探欲開花, rời Đông Sơn trời ấm, cửa tùng bóng chiều tà, núi rừng thú ẩn dật, chuông trống thoát tục gia, chốn hoang xuân về chậm, gió tạnh biến vật hoa, mây sáng bóng dần tỏ, chim ca buổi giao hòa, dưới băng suối vừa động, mầm non chè nhú ra, tự thương thân lắm bệnh, về đây chợt đơm hoa).”
(佛眼清遠, Butsugen Seion, 1067-1120): vị tăng của Phái Dương Kì thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, người Huyện Lâm Cung (臨卬), họ là Lý (李). Ông xuất gia rồi năm lên 14 tuổi thì thọ Cụ Túc giới. Ông chuyên học về Luật và Kinh Pháp Hoa, bên cạnh đó cũng có tham Thiền biện đạo. Ông đã từng tham học với Giang Hoài (江淮), rồi đến tham bái Ngũ Tổ Pháp Diễn (法演) ở Thái Bình Tự (太平寺) vùng Thư Châu (舒州, Tỉnh An Huy), và kế thừa dòng pháp của vị này. Đầu tiên ông khai đường ở Thiên Ninh Vạn Thọ Tự (天寧萬壽寺) vùng Thư Châu, sau chuyển đến sống tại Long Môn Tự (龍門寺), rồi Bảo Sơn Tự (褒山寺) ở Hòa Châu (和州, Tỉnh An Huy). Nhờ Đặng Tuân Võ (鄧洵武) tấu trình lên vua, ông được ban cho Tử Y và hiệu là Phật Nhãn Thiền Sư (佛眼禪師). Ông cùng với Phật Giám Huệ Cần (佛鑑慧懃), Phật Quả Khắc Cần (佛果克勤) được xưng tụng như là Tam Phật, hay Nhị Cần Nhất Viễn của Đông Sơn. Ông thị tịch vào năm thứ 2 niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), hưởng thọ 54 tuổi đời và 40 hạ lạp. Thiện Ngộ (善悟) biên tập nên bộ Phật Nhãn Thiền Sư Ngữ Lục (佛眼禪師語錄) 6 quyển.
(慈受懷深, Jiju Eshin, 1077-1131): vị tăng của Vân Môn Tông Trung Quốc, được gọi là Từ Thọ Thiền Sư (慈受禪師), xuất thân vùng Lục An (六安), Phủ Thọ Xuân (壽春府, Tỉnh An Huy), họ là Hạ (夏). Năm lên 14 tuổi, ông xuống tóc xuất gia, rồi vào năm đầu niên hiệu Sùng Ninh (崇寧, 1102-1106), ông đến Gia Hòa (嘉禾, Tỉnh Triết Giang), kế thừa dòng pháp của Trường Lô Sùng Tín (長蘆崇信) ở Tư Phước Tự (資福寺). Khi Sùng Tín chuyển đến Trường Lô, ông đi theo thầy và tại đây gặp được Phật Giám Huệ Cần (佛鑑慧懃). Vào ngày mồng 10 tháng 8 năm thứ 3 (1113) niên hiệu Chính Hòa (政和), ông bắt đầu khai mở đạo tràng thuyết pháp tại Tư Phước Tự vùng Thành Nam (城南), Nghi Chơn (儀眞, Tỉnh Giang Tô). Sau do vì Thần Tiêu Cung (神霄宮) được sửa sang lại, nên ông chuyển đến Tương Sơn (蔣山) và sống tại Tây Am (西庵). Vào ngày mồng 6 tháng 9 năm thứ 7 cùng niên hiệu trên, thể theo lời thỉnh cầu ông đến trú trì Tiêu Sơn (焦山, Tỉnh Giang Tô). Rồi theo sắc chiếu vào năm thứ 3 (1121) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), ông đến trú trì Huệ Lâm Thiền Viện (慧林禪院) ở Đại Tướng Quốc Tự (大相國寺) trên Đông Kinh (東京, Tỉnh Hà Nam). Vào ngày 22 tháng 5, ông khai đường thuyết pháp tại đây, đến năm thứ 2 (1127) niên hiệu Tĩnh Khang (靖康), ông xin phép rời khỏi Huệ Lâm Thiền Viện nhưng nhà vua không chấp thuận, lần thứ hai ông xin tiếp và bỏ đi. Ông đi qua Thiên Thai, đến Linh Nham (靈巖), sau đó lại trở về Tương Sơn, trãi qua mấy tháng tại đây, và cuối cùng lui về ẩn cư tại Bao Sơn (包山) ở Động Đình (洞庭). Vào ngày 20 tháng 4 năm thứ 2 niên hiệu Thiệu Hưng (紹興), ông thị tịch, hưởng thọ 56 tuổi đời và 36 hạ lạp. Hiện còn lưu hành bản Từ Thọ Thâm Hòa Thượng Quảng Lục (慈受深和尚廣錄) 4 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập