Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Sơn Khoa »»
(本願寺, Hongan-ji): ngôi chùa trung tâm chính của Tịnh Độ Chơn Tông Nhật Bản, tọa lạc tại vùng Đại Cốc (大谷, Ōtani), thuộc kinh đô Kyoto. Ban đầu nó là miếu đường, nơi cải táng di cốt của Thân Loan và an trí hình ảnh của ông, sau đó thì cháu Thân Loan là Giác Như (覺如, Kakunyo) đã cải thành chùa. Chính Giác Như gọi Thân Loan là Thánh Nhân của Bổn Nguyện Tự, tông tổ của Tịnh Độ Chơn Tông; Như Tín (如信, Nyoshin) là vị tổ thứ 2 và Giác Như là tổ thứ 3 của chùa, cho nên ông đã tận lực thành lập nên giáo đoàn Bổn Nguyện Tự. Sau đó, chùa này có lần bị suy vi và bị đồ chúng của Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji) phá hoại. Thế nhưng đến thế kỷ thứ 8 thì chùa lại được Liên Như (蓮如, Rennyo) xây dựng lại vào năm 1480 ở địa phương Sơn Khoa (山科, Yamashina), và hình thành nên quần thể Tự Nội Đình với trung tâm là Ngự Ảnh Đường và A Di Đà Đường; từ đó, vận chùa trở nên đột nhiên hưng thạnh. Đến thời Chứng Như (証如, Shōnyo) đời thứ 10, chùa này lại bị cháy tan tành, và sau đó thì được dời về gần Thành Osaka. Đến thời Hiển Như (顯如, Gennyo) đời thứ 11, ông gây chiến với Tướng Quân Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga), nên đã lui về ẩn cư ở vùng Lộ Sum (鷺森, Saginomori, thuộc Wakayama-ken [和歌山縣]). Sau khi Chức Điền Tín Trưởng qua đời, vào năm 1591, được sự giúp đỡ của Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), chùa được dời về vùng đất Tây Thất Điều (西七條) ở Kyōto. Sau khi Hiển Như qua đời, con trai đầu của ông là Giáo Như (敎如, Kyōnyo) nhường dòng kế pháp cho em mình là Chuẩn Như (準如, Junnyo). Đến năm 1602, nhờ Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) dâng cúng cho miếng đất ở vùng Đông Lục Điều (東六條), nên Giáo Như mới cung đón linh ảnh của Thân Loan từ Diệu An Tự (妙安寺, Myōan-ji) ở vùng Cứu Kiều (厩橋, Umayabashi), Thượng Dã (上野, Ueno, thuộc Gunma-ken [群馬縣]) về và lập riêng ngôi chùa nơi đây. Từ đó về sau, phái Chuẩn Như được gọi là Tây Bổn Nguyện Tự (西本願寺, Nishihongan-ji), còn phái Giáo Như là Đông Bổn Nguyện Tự (東本願寺, Higashihongan-ji), và cứ như vậy duy trì mãi cho đến ngày nay.
(証如, Shōnyo, 1516-1554): vị tăng của Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng thời đại Chiến Quốc, vị Tổ đời thứ 10 của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), húy là Quang Giáo (光敎), tên khi nhỏ là Quang Tiên Hoàn (光仙丸), Quang Dưỡng Hoàn (光養丸), hiệu Chứng Như (証如), thụy hiệu là Tín Thọ Viện (信受院), xuất thân vùng Kyoto (?), con của Viên Như (圓如). Sau khi Thật Như (實如, Jitsunyo) qua đời, ông kế thế làm trú trì Bổn Nguyện Tự đời thứ 10. Ông bổ tá cố ngoại mình là Liên Thuần (蓮淳) cùng với mẹ là Khánh Thọ Viện (慶壽院), chuyên lo xử lý các việc lớn nhỏ ở vùng Gia Hạ (加賀, Kaga). Năm 1532, nhân vụ loạn Thiên Văn Pháp Hoa, ngôi Bổn Nguyện Tự ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) bị cháy tan tành; sau đó ông dời đến vùng Thạch Sơn (石山), chỉnh đốn việc quản lý chùa và nỗ lực tăng cường thể chế giáo đoàn. Trước tác của ông có Thiên Văn Nhật Ký (天文日記) 20 quyển.
(醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930): vị Thiên Hoàng sống vào đầu thời kỳ Bình An, Hoàng Tử thứ nhất của Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uta Tennō), tên là Đôn Nhân (敦仁, Atsugimi), còn gọi là Hậu Sơn Khoa Đế (後山科帝), Tiểu Dã Đế (小野帝). Ông trị nước với sự phụ tá của nhóm Đằng Nguyên Thời Bình (藤原時平, Fujiwara-no-Tokihira) và Quản Nguyên Đạo Chơn (菅原道眞, Sugawara-no-Michizane), cho nên hậu thế gọi là thời trị thế Diên Hỷ (延喜). Ông là người ban sắc lệnh soạn bộ Cổ Kim Hòa Ca Tập (古今和歌集).
(醍醐寺, Daigo-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đề Hồ (醍醐派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiệu núi là Thâm Tuyết Sơn (深雪山), hiện tọa lạc tại Daigo (醍醐), Fushimi-ku (伏見區), Kyoto-shi (京都市). Theo truyền ký của chùa cho biết, Thánh Bảo (聖寶) là người khai sáng chùa vào năm 874 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 16). Ban đầu ông trú tại Tây Nam Viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), vùng đất chùa này là khoảng giữa của Thạch Sơn Tự (石山寺) và Đông Đại Tự. Ông điêu khắc hai bức tượng Chuẩn Đề và Quan Âm, rồi an trí trên núi. Người con gái của nhà hào tộc vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) là Dận Tử (胤子) theo làm cung phi của Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō, tại vị 887-897) và hạ sanh Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930). Hay đời sau Châu Tước Thiên Hoàng (朱雀天皇, Suzaku Tennō, tại vị 930-946) hạ sanh cũng nhờ cầu nguyện đức Chuẩn Đề. Với mối quan hệ dó, chùa được tầng lớp Hoàng Thất quy y theo. Vì thế, năm 904 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 4), Thích Ca Đường; rồi đến năm 907 thì Dược Sư Đường, Ngũ Đại Dường lần lượt được kiến lập, và đến năm 913 thì nơi đây trở thành chùa được cấp định ngạch của Hoàng triều. Vào năm 949 (niên hiệu Thiên Lịch [天曆] thứ 3), Pháp Hoa Tam Muội Đường được kiến lập dưới chân núi; đến năm 952, ngôi tháp 5 tầng hiện tồn được tạo dựng và coi như ngôi già lam được hoàn bị. Đối với các công trình kiến trúc này, hệ thống của Đề Hồ Thiên Hoàng đã có nỗ lực rất lớn; nhưng đến khi dòng họ Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara) nắm chính quyền thì sự ngoại hộ từ phía Hoàng Thất trở nên thưa thớt dần, song đến thời Viện Chính thì chùa lại được phục hưng nhờ vị Tọa Chủ xuất thân dòng họ Nguyên (源, Minamoto). Tức là các vị Tọa Chủ đời thứ 13 là Giác Nguyên (覺源, con thứ 4 của Hoa Sơn Thiên Hoàng [花山天皇, Kazan Tennō, tại vị 984-986]), đời thứ 14 là Định Hiền (定賢, con của Nguyên Long Quốc [源隆國]), đời thứ 15 là Thắng Giác (勝覺) cũng như đời thứ 18 là Thật Vận (實運, con của Nguyên Tuấn Phòng [源俊房]), đời thứ 16 là Định Hải (定海, con của Nguyên Hiển Phòng Tử [源顯房子]), đời thứ 17 là Nguyên Hải (元海, con của Nguyên Nhã Tuấn [源雅俊]), v.v. Thêm vào đó, nhờ có các danh tăng xuất hiện nên mọi người đều quy ngưỡng về chùa này. Vốn là con cháu đích truyền của Dòng Tiểu Dã (小野流), là trung tâm nghiên cứu dòng pháp, hiện tại Đề Hồ Tự vẫn bảo quản khá nhiều sách khẩu truyền, nghiên cứu, đặc biệt là các đồ hình, tượng, v.v. Vào năm 1115 (niên hiệu Vĩnh Cửu [永久] thứ 3), tiếp theo việc kiến lập Tam Bảo Viện của Thắng Giác, Kim Cang Vương Viện của Thánh Hiền (聖賢), Lý Tánh Viện của Hiền Giác (賢覺), Vô Lượng Thọ Viện của Nguyên Hải, Báo Ân Viện của Thành Hiền (成賢), Địa Tạng Viện của Đạo Giáo (道敎) lần lượt xuất hiện, hình thành nên 6 dòng phái Đề Hồ. Về mặt chính trị, dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) thì không có can hệ gì, chùa trở thành trung tâm nghiên cứu sự tướng, đồ tượng cho các tông phái. Về sau, chùa bị cháy hơn phân nữa trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁). Đến thời Nghĩa Diễn (義演) làm Tọa Chủ nơi đây, nhờ sự hỗ trợ của dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi), ông tiến hành phục hưng chùa. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), nhờ sự bảo hộ phái Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗), nên chùa không bị dao động gì cả. Chùa hiện tồn rất nhiều quần thể kiến trúc cũng như bảo vật có giá trị cấp quốc bảo như Dược Sư Đường, Khai Sơn Đường, Như Ý Luân Đường, Kim Đường, 5 bức Ngũ Đại Tôn Tượng, Diêm Ma Thiên Tượng, Đại Nhật Kim Luân, A Di Đà Tam Tôn, v.v.
(興正寺, Kōshō-ji): ngôi chùa bản sơn của Phái Hưng Chánh Tự (興正寺派) thuộc Chơn Tông, hiệu là Viên Đốn Sơn Hoa Viên Viện Hưng Long Đường (圓頓山花園院興隆堂), lãnh địa Lộc Uyển Viện (鹿苑院); hiện tọa lạc tại Shimogyō-ku (下京區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府). Tượng thờ chính là A Di Đà Như Lai. Chùa tách khỏi sự quản lý của Bổn Nguyện Tự và chính thức trực thuộc Phái Hưng Chánh Tự là vào năm 1876 (Minh Trị [明治] 9). Theo một số tư liệu như Cao Điền Khai Sơn Thân Loan Thánh Nhân Chánh Thống Truyện Đệ Tứ (高田親鸞聖人正統傳第四), v.v., vào tháng 9 năm 1212 (Kiến Lịch [建曆] 2), thể theo lời thỉnh cầu của Nguyên Hải (源海), Thân Loan kiến lập ngôi làng ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina); rồi đến năm 1218 (Kiến Bảo [建保] 6), Thuận Đức Thiên Hoàng (順德天皇, Juntoku Tennō, tại vị 1210-1221) đã ban sắc hiệu cho chùa hiệu là Hưng Long Chánh Pháp Tự (興隆). Vào năm 1602 (Khánh Trường [慶長] 7), khi Bổn Nguyện Tự phân lập thành Đông Tây, chùa tùng thuộc vào Tây Bổn Nguyện Tự.
(蓮敎, Renkyō, 1451-1492): vị tăng của Phái Hưng Chánh (興正派) thuộc Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng thời đại Thất Đinh, vị Tổ đời thứ 4 của Hưng Chánh Tự (興正寺), húy là Nghiêu Viên (堯圓), Kinh Hào (經豪), Liên Giáo (蓮敎), thụy hiệu là Nguyện Thừa Viện (願乘院); con trai đầu của Tánh Thiện (性善), vị tổ đời thứ 12 của Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji). Năm 1469, ông kế thừa chức trú trì Phật Quang Tự và năm sau thì được bổ nhiệm làm chức Quyền Đại Tăng Đô. Năm 1482, ông nương cậy vào Liên Như (蓮如, Rennyo) ở Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), rồi cùng với chúng môn đồ bỏ chùa, đi theo Phái Bổn Nguyện Tự (本願寺派). Từ đó, ông được Liên Như đặt cho tên là Liên Giáo, rồi kết hôn với trưởng nữ của Liên Giác (蓮覺, Renkaku) ở Thường Lạc Đài; kế tiếp ông kế thừa Phật Quang Tự ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) và phục hưng đổi tên chùa thành Hưng Chánh Tự. Ông sáng tác bản Niệm Phật Hòa Tán (念佛和讚) để thay thế cho nghi thức Lục Thời Hòa Tán (六時和讚). Trước tác của ông có Chánh Tín Kệ Văn Thư (正信偈文書) 2 quyển.
(蓮如, Rennyo, 1415-1499): con đầu của Tồn Như (存如, Zonnyo) đời thứ 7 của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), húy là Kiêm Thọ (兼壽), hiệu là Tín Chứng Viện (信証院). Sống trong khoảng thời kỳ Bổn Nguyện Tự đang bị suy vi và trưởng thành lên trong khổ nạn, ông đã theo cha tận lực giáo hóa ở các địa phương phía Nam vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Đến năm 1457, ông kế thừa cha mình và trở thành vị tổ đời thứ 8 của Bổn Nguyện Tự. Do vì đứng trên truyền thống của Tịnh Độ Chơn Tông mà tiến hành cải cách, nên vào năm 1471 ông bị đồ chúng của Tỷ Duệ Sơn phá tan Đại Cốc Bổn Nguyện Tự ở vùng Đại Cốc (大谷, Ōtani); khiến ông phải lánh nạn đến biệt sở phía Nam của Tam Tỉnh Tự (三井寺) vùng Đại Tân (大津), rồi xây dựng nhà riêng ở Cát Khi (吉崎, Yoshizaki) thuộc vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]) và chuyển đến đó ở. Ông đã tác thành rất nhiều văn bản, cho xuất bản các bài Hòa Tán cũng như Chánh Tín Kệ (正信偈) của Thân Loan, và tiến hành những hoạt động giáo hóa khắp nơi từ vùng Bắc Lục (北陸, Hokuriku) cho đến Đông Hải (東海, Tōkai), Đông Quốc (東國, Tōgoku) và Áo Châu (奥州, Ōshu). Tuy nhiên, do vì sự đối lập trong mối quan hệ lợi hại phát sanh giữa các môn đồ thọ nhận sự giáo hóa của ông với những lãnh chúa địa phương, nên ông lại phải rời khỏi địa phương Cát Khi và đến bố giáo ở các vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu), Hà Nội (河內, Kawauchi), Hòa Tuyền (和泉, Izumi) thuộc Osaka (大阪) ngày nay. Vào năm 1480, ông bắt đầu tái kiến Bổn Nguyện Tự ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina), mở rộng giáo hóa, cho nên người ta quy y theo phái ông nhiều hơn các phái khác. Vào độ tuổi 75, ông nhường lại mọi hậu sự cho người con trai thứ 5 là Thật Như (實如, Jitsunyo) và sống ẩn cư; nhưng sau đó ông vẫn tiếp tục bố giáo. Đến năm 1496, ông lại xây dựng nhà riêng ở vùng Thạch Sơn (石山, Ishiyama), Osaka và tiếp tục hoạt động truyền giáo cho đến 85 tuổi thì qua đời.
(了源, Ryōgen, 1295-1336): vị Tăng của Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương, vị Tổ đời thứ 7 của Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji), thuộc Phái Phật Quang Tự (佛光寺派), vị tổ đời thứ 7 của Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji) thuộc Phái Hưng Chánh (興正派), húy là Liễu Nguyên (了源), tục danh là Di Tam Lang (彌三郎), hiệu là Không Tánh (空性), húy là Quang Sơn Viện (光山院); con của Liễu Hải (了海), vị Tổ đời thứ 4 của Phật Quang Tự. Năm 1320, ông lên kinh đô, làm môn đệ của Giác Như (覺如, Kakunyo) ở Bổn Nguyên Tự (本願寺, Hongan-ji), nhưng lại trực tiếp theo hầu hạ Tồn Giác (存覺, Zonkaku). Vào năm 1324, ông kiến lập nên Hưng Chánh Tự (興正寺, ) ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) thuộc Sơn Thành (山城, Yamashiro), rồi sau đó chuyển ngôi chùa này đến vùng Sáp Cốc (澀谷, Shibuya) thuộc Đông Sơn, và đổi tên thành Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji). Ông đã nỗ lực giáo hóa khắp các địa phương như Cận Kỳ (近畿, Kinki), Tam Hà (三河, Mikawa), Vĩ Trương (尾張, Owari), v.v., và trở thành vị tổ thời Trung Hưng của Phái Phật Quang Tự. Tác phẩm của ông để lại có Nhất Lưu Tương Truyền Đồ (一流相傳圖) 1 bức, Sơn Khoa Sáng Tự Mộ Duyên Sớ (山科創寺募緣疏) 1 quyển, Toán Đầu Lục (算頭錄).
(元慶寺, Genkei-ji): ngôi chùa của Thiên Thai Tông, hiện tọa lạc tại Yamashina-ku (山科區), Kyoto-shi (京都市), tên núi là Hoa Đảnh Sơn (華頂山), tượng thờ chính là Dược Sư Như Lai. Người khai sáng chùa là Tăng Chánh Biến Chiếu (遍照), rất nổi danh về thi ca. Vào năm đầu (877) niên hiệu Nguyên Khánh (元慶), thể theo sắc chỉ của hai Thiên Hoàng Thanh Hòa (清和) và Dương Thành (陽成), chùa được xây dựng gần bên Hoa Sơn (華山), thuộc vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina). Mặc dầu hiện tại chùa rất nhỏ, những vẫn nổi tiếng với tư cách là một trong 33 ngôi cổ sát thường được chiêm bái ở vùng Tây Quốc (西國). Chính Hoa Sơn Pháp Hoàng (華山法皇) là người khởi đầu cho truyền thống chiêm bái này. Trong khuôn viên vườn chùa có mộ của Tăng Chánh Biến Chiếu. Tôn tượng Dược Sư Như Lai là kiệt tác của Biến Chiếu, còn tượng Hiếp Thị A Di Đà Phật là của Từ Giác Đại Sư (慈覺大師), tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương là tác phẩm của Vận Khánh (運慶). Ngoài ra còn có một số tượng tự tác của Biến Chiếu và Hoa Sơn Pháp Hoàng.
(佛光寺, Bukkō-ji): ngôi bản sơn chính của Phái Phật Quang Tự (佛光寺派) thuộc Tịnh Độ Chơn Tông; sơn hiệu là Sáp Cốc Sơn (澀谷山) hay Trấp Cốc Sơn (汁谷山); gọi cho đủ là Sáp Cốc Sơn A Di Đà Phật Quang Tự (澀谷山阿彌陀佛光寺); hiện tọa lạc tại số 397 Shingai-chō (新開町), Bukkōjishita (佛光寺下), Takakura-dōri (高倉通), Shimogyō-ku (下京區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府). Tượng thờ chính là A Di Đà Như Lai. Vào năm 1212 (Kiến Lịch [建曆] 2), sau khi Thân Loan được miễn xá tội lưu đày ở vùng Việt Hậu, ông trở về Kinh Đô, lập nên một thảo am ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) và lấy tên là Hưng Long Chánh Pháp Tự (興隆正法寺, gọi tắt là Hưng Chánh Tự [興正寺, Kōshō-ji]). Đến năm 1327 (Gia Lịch [嘉曆] 2), xảy ra vụ mất cắp pho tượng A Di Đà do hai vị Thánh Nhân Pháp Nhiên và Thân Loan truyền lại, người lấy cắp khi cầm đến pho tượng này thì tay chân trở nên đau nhứt khó chịu không tài nào chịu được, cuối cùng anh ta mới đem vất pho tượng vào trong đám cỏ. Bức tượng tự nhiên phóng ra hào quang sáng rực trong lùm cỏ, nên người ta mới phát hiện ra nó, và cũng do từ câu chuyện này mà chùa lại được đổi tên là thành Phật Quang Tự. Vào năm 1586 (Thiên Chánh [天正] 14), nhân việc tướng quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) muốn xây dựng một ngôi điện Đại Phật ở vùng Sáp Cốc (澀谷, Shibuya), nên mới yêu cầu chùa dời về vị trí hiện tại vậy. Vào thời ấy, phần lớn tín đồ đều quay về với Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), nên chùa này không được hưng thạnh bao nhiêu. Hiện tại những ngôi đường vũ của chùa phần lớn là kiến trúc dưới thời Minh Trị. Pho tượng đứng A Di Đà Như Lai được an trí tại ngôi điện chính, tương truyền là tác phẩm do tự tay Từ Giác Đại Sư (慈覺大師) tạc nên. Nơi Đại Sư Đường có bức tượng ngồi của Thân Loan Thượng Nhân do chính tay ông làm ra. Ngoài ra chùa còn lưu giữ nhiều bảo vật quý giá khác như tượng Thánh Đức Thái Tử bằng gỗ do Trạm Hạnh (湛幸) tạc năm 1320 (Nguyên Ứng [元應] 2); tượng A Di Đà Như Lai đứng, bằng gỗ, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập