Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó. (There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Sơn Hải Kinh »»
(河伯): tên gọi của vị Thủy Thần ở Hoàng Hà (黃河) trong truyền thuyết thần thoại Trung Quốc. Về lịch sử, tên ban đầu của Hà Bá là Băng Di (冰夷), Bằng Di (馮夷), Hà Thần (河神), Vô Di (無夷). Tên gọi Hà Bá phát xuất từ thời Chiến Quốc (戰國, 403 hay 453-221 ttl.), truyền thuyết không thống nhất với nhau. Vì Hoàng Hà thường lũ lụt, gây tai họa khôn xiết, cho nên người ta cho rằng tính tình của Hà Bá cũng hung bạo. Thần thoại kể rằng Hậu Nghệ (后羿) đã từng dùng tên bắn vào mắt trái Hà Bá. Do vì ông có uy lực không thể lường, nên từ xưa đã có tập tục xấu “Hà Bá Thú Phụ (河伯娶婦, Hà Bá Cưới Vợ)”, lấy đó để cầu được bình an, không hoạn nạn. Về truyền thuyết “Hà Bá Thú Phụ (河伯娶婦, Hà Bá Cưới Vợ)”, dưới thời đại Chiến Quốc, Tây Môn Báo được phái đến Nghiệp Thành (鄴城, nay thuộc Huyện Lâm Chương [臨漳縣], Tỉnh Hà Bắc [河北省]) làm quan huyện. Khi đến nơi thì không bóng người qua lại, cả ngày hoang vắng, bèn hỏi xem thử nguyên do vì sao. Có một lão già tóc bạc phơ bảo rằng đó là do vì chuyện Hà Bá cưới vợ gây nên náo loạn như vậy. Hà Bá là thần của sông Chương, hằng năm đều phải cưới một cô nương xinh đẹp. Nếu như không đem cống nạp, tất sông Chương sẽ phát sinh lũ lớn, làm cho ruộng đất, nhà cửa đều ngập trong biển nước. Nghe vậy, Tây Môn Báo biết rằng đây là câu chuyện bịa đặt của tên tham quan nào đó để xách nhiễu lòng dân. Đợi đến ngày Hà Bá Cưới Vợ năm sau, ông đến ngay tại hiện trường quan sát. Ông phát hiện con quan lớn nhỏ cùng với mấy bà đồng bóng đội lốt thần quỷ cũng có mặt. Về sau, Tây Môn Báo (西門豹) nhà Ngụy không tin vào truyền thuyết đó, cấm tuyệt không cho thờ cúng, kêu gọi dân chúng làm cầu, ngăn đê, cuối cùng dứt được sự lo âu về thủy tai. Về truyền thuyết, Hà Bá có thân người đuôi cá, tóc trên đầu màu trắng bạc, tròng mắt có màu sắc rực rỡ như ngọc Lưu Ly. Tuy nhiên, ông là người nam, có vẻ đẹp dị thường, trên thân có mùi hương thơm ngát, mới nhìn thoáng qua khoảng không quá 20 tuổi. Trong Bão Phác Tử (抱朴子), Thiên Thích Quỷ (釋鬼篇), có giải thích rằng Băng Di đi qua sông, bị chết đuối, được Thiên Đế giao cho làm Hà Bá để quản lý sông hồ. Hay như trong Sưu Thần Ký (搜神記) quyển 4 có đoạn giải thích sự việc trên rằng: “Tống thời Hoằng Nông Bằng Di, Hoa Âm, Đồng Hương, Đê Thủ nhân dã, dĩ bát nguyệt thượng Canh nhật độ hà, nịch tử; Thiên Đế thự vi Hà Bá (宋時弘農馮夷、華陰潼鄉隄首人也、以八月上庚日渡河、溺死、天帝署爲河伯, vào niên hiệu Hoằng Nông nhà Tống, có Bằng Di, người Đê Thủ, Đồng Hương, vùng Hoa Âm, nhân qua sông vào ngày Canh đầu tháng 8, bị chết đuối; Thiên Đế phong cho làm Hà Bá).” Trong tác phẩm Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō No. 2122) quyển 75 của Phật Giáo cũng có cùng nội dung tương tự như vậy. Cũng có thuyết cho rằng Hà Bá dùng 8 thứ đá (xưa kia các Đạo gia dùng 8 loại nguyên liệu bằng đá để luyện đơn, gồm Chu Sa [硃砂], Hùng Hoàng [雄黃], Thử Hoàng [雌黃], Không Thanh [空青], Vân Mẫu [雲母], Lưu Huỳnh [硫黃], Nhung Diêm [戎鹽], và Tiêu Thạch [硝石]) và thành thần, như trong Sơn Hải Kinh Hải Kinh Tân Thích (山海經海經新釋) quyển 7 có giải thích: “Bằng Di, Hoa Âm, Đồng Hương, Đê Thủ nhân dã, phục bát thạch, đắc Thủy Tiên, thị vi Hà Bá (馮夷華陰潼鄉隄首人也、服八石、得水仙、是爲河伯, Bằng Di, người Đê Thủ, Đồng Hương, vùng Hoa Âm, dùng tám loại đá, thành Thủy Tiên, đó là Hà Bá).” Vị thần này còn có tên gọi khác là Hà Bá Sứ Giả (河伯使者), như trong Thần Dị Kinh (神异經), phần Tây Hoang Kinh (西荒經) có câu: “Tây hải thủy thượng hữu nhân, thừa bạch mã chu liệp, bạch y huyền quan, tùng thập nhị đồng tử, sử mã Tây hải thủy thượng, như phi như phong, danh viết Hà Bá Sứ Giả (西海水上有人、乘白馬朱鬣、白衣玄冠、從十二童子、駛馬西海水上、如飛如風、名曰河伯使者, trên mặt nước biển Tây có người cỡi con ngựa trắng, bờm đỏ, mặc áo trắng, đội mũ đen, cùng với mười hai đồng tử, cỡi ngựa trên mặt nước biển Tây, bay nhanh như gió, tên là Hà Bá Sứ Giả).” Tên gọi Kappa ở Nhật cũng xuất phát từ nguyên ngữ này. Nó đồng nghĩa với Hà Tông (河宗). Tín ngưỡng Hà Bá cũng rất thịnh hành ở Việt Nam; cho nên tục ngữ Việt Nam thường có câu: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá.” Truyền thuyết của Hà Đồng (河童) vốn phát xuất rất sớm từ vùng thượng du của lưu vực Hoàng Hà; xưa kia gọi là Thủy Hổ (水虎), hay Hà Bá. Về truyền thuyết của Hà Đồ, khi vua Đại Vũ (大禹) quản lý Hoàng Hà, có 3 báu vật là Hà Đồ (河圖, Bản Đồ Sông Nước), Khai Sơn Phủ (開山斧, Búa Mở Núi) và Tỵ Thủy Kiếm (避水劍, Kiếm Tránh Nước). Truyền thuyết cho rằng Hà Đồ do vị Thủy Thần là Hà Bá trao cho vua Đại Vũ. Vua phục nghi (伏羲) quan sát rất kỹ lưỡng đối với sự hưng suy của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, thời tiết, khí hầu, cây cỏ, v.v. Có hôm nọ, bỗng nhiên giữa Hoàng Hà xuất hiện một con Long Mã (龍馬), ông thấy chấn động tâm thần, tự thân cảm xúc được sự linh thiêng của trời đất, tự nhiên. Nhà vua phát hiện trên thân con ngựa có đồ hình, rất tâm đầu ý hợp với ý tưởng về quá trình quán sát vạn vật. Phục nghi đi qua thân con ngựa, quan sát thật kỹ, vẽ ra đồ hình Bát Quái (八卦). Từ đó, đò hình trên thân con ngựa kia được gọi là Hà Đồ. Trong Sơn Hải Kinh (山海經) có giải thích rằng: “Phục Nghi đắc Hà Đồ, Hạ nhân nhân chi, viết Liên Sơn (伏羲得河圖、夏人因之、曰連山, Phục Nghi có được Hà Đồ, người Hạ nhân đó gọi là Liên Sơn).” Ngay như Kinh Quái (經卦) của Phục Nghi cũng xuất phát từ nguồn gốc hiện tượng thiên văn, có căn nguyên từ Hà Đồ. Trong bài Cửu Ca (九歌) của Khuất Nguyên (屈原, 340-278 ttl.) cũng có thiên viết về Hà Bá.
(黃水) hay Hoàng Hà (黃河): là dòng sông dài, lớn thứ 2 của Trung Quốc, sau Trường Giang (長江), lớn thứ 5 của thế giới. Dòng sông này phát nguyên từ rặng núi Ba Nhan Khách Lạp (巴顏喀拉, Bayan Har) của Tỉnh Thanh Hải (青海省); chảy qua 9 tỉnh khu là Thanh Hải (青海), Tứ Xuyên (四川), Cam Túc (甘肅), Ninh Hạ (寧夏), Nội Mông Cổ (內蒙古), Thiểm Tây (陝西), Sơn Tây (山西), Hà Nam (河南) Sơn Đông (山東); cuối cùng đi qua cửa khẩu sông Đông Doanh (東營) của Tỉnh Sơn Đông (山東省) và đỗ vào Bột Hải (渤海, Bohai Sea), với chiều dài toàn bộ là 5464 km. Hoàng Hà có nghĩa là dòng sông màu vàng. Chữ Hoàng (黃) ở đây dùng để miêu tả hiện trang nước sông như thế nào. Trong Nhĩ Nhã (爾雅), phần Thích Thủy (釋水) có câu: “Hà xuất Côn Lôn, sắc bạch, sở lương tinh thiên thất bách nhất xuyên, sắc hoàng (河出崑崙、色白、所渠並千七百一川、色黃, Hoàng Hà xuất phát từ Côn Lôn, nước trong, chảy qua hơn một ngàn bảy trăm sông, sắc thành màu vàng).” Sơn Hải Kinh (山海經) cũng như Thủy Kinh Chú (水經注) đều cho rằng hoàng hà phát xuất từ Côn Lôn. Chi lưu của Hoàng Hà có Bạch Hà (白河), Hắc Hà (黑河), Hoàng Thủy (湟水), Tổ Lệ Hà (祖厲河), Thanh Thủy Hà (清水河), Đại Hắc Hà (大黑河), Quật Dã Hà (窟野河), Vô Định Hà (無定河), Phần Hà (汾河), Vị Hà (渭河), Lạc Hà (洛河), Thấm Hà (沁河), Đại Vấn Hà (大汶河). Hoàng Hà được xem như là người mẹ sản sinh văn minh Trung Quốc. Có một số nhân vật nổi tiếng có liên quan đến dòng sông vĩ đại này như Đại Vũ (大禹), vua nhà Hạ (夏, khoảng 2000-1600 ttl.), người từng chế ngự thành công nạn lũ lụt ở Hoàng Hà; Điền Phân (田蚡), Đại Thần dưới triều Hán Võ Đế; Cổ Nhượng (賈讓), nhà thủy lợi tài ba thời Tây Hán; Đỗ Sung (杜充, ?-1141), Thái Thú Khai Phong (開封) thời Bắc Tống (北宋, 960-1127); phan quý tuần (潘季馴, 1521-1595); nhà chuyên môn trị thủy nổi tiếng thời nhà Minh; Cận Phụ (靳輔, 1633-1692), danh thần trị thủy thời nhà Thanh; Lưu Ngạc (劉鶚, 1857-1909); nhà thủy lợi học cuối thời nhà Thanh, v.v. Chính vì sự vĩ đại của dòng sông, tầm quan trọng như là người mẹ sản sinh ra nền văn minh Trung Quốc, Hoàng Hà còn được xem như là tình thương yêu vô bờ bến của người mẹ đối với con, đối xứng với Thái Sơn là người cha.
(沃焦[礁]): tên gọi một tảng đá rất to lớn hút nước mà trong Cựu Hoa Nghiêm Kinh (舊華嚴經) quyển 59 có đề cập đến, do vì nó to lớn như núi nên được gọi là Ốc Tiêu Sơn (沃焦山). Dưới núi này có hỏa khí của A Tỳ Địa Ngục (s: Avīci-naraka, 阿鼻地獄) bốc lên ngùn ngụt cho nên nó thường nóng bức. Như trong Kim Cang Tam Muội Bản Tánh Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt Kinh (金剛三昧本性清淨不壞不滅經) có đoạn rằng: “Như A Nậu đại trì xuất tứ đại hà, thử tứ đại hà phân vi bát hà, cập Diêm Phù Đề nhất thiết chúng lưu giai quy đại hải; dĩ Ốc Tiêu Sơn cố, đại hải bất tăng, dĩ Kim Cang Luân cố, đại hải bất giảm (如阿耨大池出四大河、此四大河分爲八河、及閻浮提一切眾流皆歸大海、以沃焦山故、大海不增、以金剛輪故、大海不減, như hồ lớn A Nậu phân thành bốn con sông lớn, bốn sông lớn này lại chia thành tám sông, chúng cùng với tất cả các sông cõi Diêm Phù Đề đều đỗ về biển lớn; vì núi Ốc Tiêu này mà biển lớn không tăng; và nhờ có vòng Kim Cang mà biển lớn không giảm)”. Ngoài ra, còn có biển Ốc Tiêu, là nơi chúng sanh thọ khổ. Bên cạnh đó, trong kinh điển Phật Giáo thường dùng từ Ốc Tiêu để ví cho dục tình vô cùng vô tận của kẻ phàm phu ngu muội, cũng như sự nóng bức của viên đá này, khổ đau không có ngôn từ nào diễn đạt được. Đạo Giáo giải thích rõ về truyền thuyết, xuất xứ của núi Ốc Tiêu có phần hơi khác. Trong Cẩm Tú Vạn Hoa Cốc (錦繡萬花谷) có đoạn rằng: “Ốc Tiêu tại bích hải chi đông, hữu thạch khoát tứ vạn lí, hậu tứ vạn lý, cư bách xuyên chi hạ, cố hựu danh Vĩ Lư; Sơn Hải Kinh Nghiêu thời, thập nhật tinh xuất, Nghiêu sử Nghệ xạ cửu nhật, lạc vi Ốc Tiêu (沃焦在碧海之東、有石闊四萬里、厚四萬里、居百川之下、故又名尾閭、《山海經》堯時、十日並出、堯使羿射九日、落為沃焦, Núi Ốc Tiêu ở phía Đông biển xanh, có khối đá rộng bốn vạn dặm, dày bốn vạn dặm, nằm dưới trăm con sông, nên có tên là Vĩ Lư; Sơn Hải Kinh cho rằng dưới thời nhà Nghiêu, có mười mặt trời cùng xuất hiện, vua Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn chín mặt trời, rơi xuống thành núi Ốc Tiêu).” Bên cạnh đó, Hoài Nam Tử (淮南子) còn cho biết thêm rằng: “Nghiêu nãi mạng Nghệ xạ thập nhật, trung kỳ cửu nhật, nhật trúng ô tận tử (堯乃令羿射十日、中其九日、日中烏盡死, Vua Nghiêu bèn ra lệnh cho Hậu Nghệ bắn mười mặt trời, trong chín mặt trời đều bị trúng tên chết hết)”. Sau này mười mặt trời bị Hậu Nghệ (后羿) bắn được giải thích là Thang Quốc (湯國, xứ sở nước nóng); tương truyền 9 mặt trời bị bắn rơi trôi nỗi về phía Nhật Bản, cho nên tại Quận A Tô (阿蘇郡, Aso-gun), Huyện Hùng Bổn (熊本縣, Kumamoto-ken), Cửu Châu (九州, Kyūshū), Nhật Bản có thành lập “Thang Cốc Thiên Quốc (湯谷天國, Thiên Quốc Hang Nước Nóng)”. Người Trung Quốc thường gọi Nhật Bản là “Ốc Tiêu” hay “Vĩ Lư (尾閭)”. Tại ngôi điện phía nam của Cực Lạc Tự (極樂寺), vùng Cáp Nhĩ Tân (哈爾濱), Hắc Long Giang (黑龍江), Trung Quốc có thờ hai vị U Minh Giáo Chủ (幽明敎主) và Địa Tạng Vương Bồ Tát (地藏王菩薩); kinh văn có ghi rằng: “Tống Đế Vương cai quản đáy biển lớn, dưới núi Ốc Tiêu phía đông nam, Hắc Thằng Đại Địa Ngục; người sống trên dương thế, nếu người nào không biết ơn quốc gia, thê thiếp phụ tình ân ái của chồng, thọ nhận ân huệ cũng như tài sản của người khác, bản thân phạm tội mà không gắng sức cải tạo; sau khi chết rồi xuống cõi âm, đều do Tống Đế Vương quản lý.”
(西宮王母): có nhiều nghĩa khác nhau:
(1) Tức Tây Vương Mẫu (西王母), tục xưng là Vương Mẫu Nương Nương (王母娘娘), Tây Mụ (西姥), Vương Mẫu (王母), Kim Mẫu (金母), Kim Mẫu Nguyên Quân (金母元君), Diêu Trì Kim Mẫu (瑤池金母); gọi đủ là Bạch Ngọc Quy Đài Cửu Linh Thái Chơn Kim Mẫu Nguyên Quân (白玉龜台九靈太眞金母元君), Bạch Ngọc Quy Đài Cửu Phụng Thái Chơn Tây Vương Mẫu (白玉龜台九鳳太真西王母), Thái Linh Cửu Quang Quy Đài Kim Mẫu Nguyên Quân (太靈九光龜台金母元君). Tục tánh của Tây Vương Mẫu là Hầu (侯), hay Dương (楊); tên Hồi (回), tự là Uyển Linh (婉姈), hay Thái Hư (太虛); là vị nữ thần, tiên nữ trong truyền thuyết thần thoại Trung Quốc, xưa kia dùng làm tượng trưng cho trường sanh bất lão. Tên gọi Tây Vương Mẫu lần đầu tiên xuất hiện trong Sơn Hải Kinh (山海經), phần Tây Thứ Tam Kinh (西次三經): “Tây Vương Mẫu cư trú tại Ngọc Sơn chi sơn, kỳ trạng như nhân, báo vĩ hổ xỉ nhi thiện khiếu, bồng phát đái thắng (西王母居住在玉山之山、其狀如人、豹尾虎齒而善嘯、蓬髮戴勝, Tây Vương Mẫu cư trú tại núi Ngọc Sơn, hình trạng như người, đuôi báo, răng cọp mà khéo gầm thét, tóc bềnh bồng có cài hoa).” Chữ “Tây (西)” chỉ cho phương hướng, “Vương Mẫu (王母)” là thần danh. Tây Vương Mẫu được kết thành từ khí Tây Hoa Chí Diệu (西華至妙) trong nguyên khí hỗn độn của đất trời tự nhiên. Trong Hán Võ Đế Nội Truyện (漢武帝內傳) có diễn tả khi Tây Vương Mẫu đăng điện như sau: “Trước hoàng kim đáp thuộc, văn thái tiên minh, quang nghi thục mục, đái Linh Phi đại thụ, yêu bội Phân Cảnh chi kiếm, đầu thượng Thái Hoa kế, đái Thái Chơn Thần Anh chi quan, lý Huyền Quyết Phụng Văn chi tích; thị chi kahr niên tam thập hứa, tu đoản đắc trung, thiên tư yểm ái, dung nhan tuyệt thế (著黃金褡孎、文采鮮明、光儀淑穆、帶靈飛大綬、腰佩分景之劍、頭上太華髻、戴太眞晨嬰之冠、履玄鐍鳳文之舄、視之可年三十許、修短得中、天姿掩藹、容顏絕世, Bà mặc áo bào vàng ròng, văn hoa sáng ngời, dáng nghi hiền thục, mang dây đai lớn Linh Phi, lưng đeo cây kiếm Phân Cảnh, trên đầu búi tóc Thái Hoa, đầu đội mão Thái Chơn Thần Anh, chân mang hài Huyền Quyết Phụng Văn, mới nhìn khoảng chừng ba mươi tuổi, song có thể trẻ hơn, dáng trời thư thái, dung nhan tuyệt thế).” Hán Võ Đế (漢武帝, tại vị 141-87 ttl.) lạy nhận mệnh của Tây Vương Mẫu. Bà là tông tổ của các tiên nữ, cư trú tại núi Côn Lôn (崑崙), có thành quách cả vạn dặm, lầu ngọc 12 ngôi, cửa khuyết Quỳnh Hoa (瓊華), nhà bằng ngọc Quang Bích (光碧), phòng bằng hạt Tử Thúy (紫翠); bên trái giáp giới với Diêu Trì (瑤池), bên phải bao vòng cả Thúy Sơn (翠山). Trong Bác Vật Chí (博物志) cho rằng nơi Diêu Trì ấy có cây đào tên Bàn Đào (蟠桃), ba ngàn năm mới sanh trái một lần. Từ đó, Tây Vương Mẫu còn có tên gọi là Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Thánh Mẫu, chủ nhân của Hội Bàn Đào. Trên trời dưới đất, Ba Cõi Mười Phương, bất cứ người nữ nào đắc đạo thành tiên, đều phải lệ thuộc vào sự quản lý của Tây Vương Mẫu. Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) ban cho Tây Vương Mẫu hồ sơ Phương Thiên Nguyên Thống Quy Sơn Cửu Quang (方天元統龜山九光) để tổng quản vạn linh, chư thánh hiền. Tương truyền Chu Mục Vương (周穆王) đã từng xa giá đến vùng Tây Bào (西跑), cách kinh đô mấy vạn dặm, gặp Tây Vương Mẫu bên hồ Diêu Trì, cùng nhau uống rượu thù tạc, thậm chí quên đường về. Như trong Mục Thiên Tử Truyện (穆天子傳) quyển 3 có đoạn rằng: “Thiên tử thương Tây Vương Mẫu vu Diêu Trì chi thượng, Tây Vương Mẫu vi Thiên tử dao (天子觴西王母于瑤池之上,西王母爲天子謠, Thiên tử uống rượu với Tây Vương Mẫu trên hồ Diêu Trì, Tây Vương Mẫu ca hát cho Thiên tử nghe).” Sau này Hán Võ Đế đi tìm thuốc trường sanh bất tử, được Tây Vương Mẫu từ trên trời giáng xuống và ban cho bảy hạt Đào Tiên. Đến thời nhà Hán, hình tượng của Vương Mẫu được tiên nhân hóa, như trong Hoài Nam Tử Lãm Minh Huấn (淮南子覽冥訓) có đoạn: “Nghệ thỉnh bất tử chi dược ư Tây Vương Mẫu, Hằng Nga thiết dĩ bôn nguyệt (羿請不死之藥於西王母、姮娥竊以奔月, Hậu Nghệ xin thuốc bất tử nơi Tây Vương Mẫu, Hằng Nga trộm lấy thuốc ấy đùa với trăng).” Cho nên, Tây Vương Mẫu được xem như là kho báu bí mật của thuốc trường sanh bất tử, là người đào tạo ra các tiên nhân. Đạo Giáo và dân gian đều kính ngưỡng Vương Mẫu như là tượng trưng cho sự trường thọ, xem Bà như là vị chủ thần của Kim Lục Diên Thọ Đạo Tràng (籙延壽道塲), ban bố sự sống lâu. Về ngày đản sanh của Vương Mẫu, có thuyets cho là mồng 3 tháng 3, và có thuyết cho là 18 tháng 7. Vào ngày này, tín đồ Đạo Giáo, đặc biệt là người nữ, thường tập trung tại các Đạo Quán, để dâng hương, chúc mừng Thánh đản và cầu nguyện sức khỏe, sống lâu.
(2) Tây Vương Mẫu còn là tên gọi của một tiểu quốc ngày xưa. Như trong Nhĩ Nhã (爾雅), phần Thích Địa (釋地) cho biết rằng: “Cô Trúc, Bắc Hộ, Tây Vương Mẫu, Nhật Hạ, vị chi tứ hoang (觚竹、北戶、西王母、日下、謂之四荒, Cô Trúc, Bắc Hộ, Tây Vương Mẫu, Nhật Hạ là bốn vùng hoang sơ).” Quách Phác (郭璞, 276-324) nhà Đông Tấn chú thích rõ rằng: “Tây Vương Mẫu tại Tây, giai tứ phương hôn hoang chi quốc (西王母在西、皆四方昏荒之國, Tây Vương Mẫu ở phía Tây, là nước bốn phương đều hoang sơ).”
(3) Ngoài ra, Tây Vương Mẫu còn là tên gọi khác của con hươu; như trong Bão Phác Tử (抱樸子), phần Đăng Trắc (登陟) của Cát Hồng (葛洪, 284-364) nhà Tấn có câu: “Xưng Đông Vương Phụ giả, mi dã; Tây Vương Mẫu giả, lộc dã (稱東王父者、麋也、西王母者、鹿也, gọi Đông Vương Phụ là nai, Tây Vương Mẫu là hươu).” Lý Thương Ẩn (李商隱, 812/813-858), đại thi hào nhà Đường, có để lại bài thơ Diêu Trì (瑤池) như sau: “Diêu Trì A Mẫu ỷ song khai, hoàng trúc ca thanh động địa ai, bát tuấn nhật hành tam vạn lí, Mục Vương hà sự bất trùng lai (瑤池阿母綺窗開、黃竹歌聲動地哀、八駿日行三萬里、穆王何事不重來, Diêu Trì A Mẫu dõi trông ai, trúc vàng lời hát động ngân dài, tám ngựa một ngày ba vạn dặm, Mục Vương cơ sự chẳng về đây).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập