Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó. (There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Sơ dạ »»
(迦陵性音, Karyō Shōon, ?-1726): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Ca Lăng (迦陵), xuất thân Thẩm Dương (瀋), họ Lý (李). Năm 24 tuổi, ông đến tham bái Chơn Nhất (眞一) ở Cao Dương Tỳ Lư (高陽毘廬) và xuất gia. Sau khi thọ Cụ Túc giới, ông theo tham học với Mộng Am Siêu Cách (夢庵超格), đắc pháp với vị này và đã từng sống qua một số danh lam như Thiên Phật (千佛), Lý An (理安), Quy Tông (歸宗), Đại Giác (大覺). Vào ngày 29 tháng 7 năm thứ 4 (1726) niên hiệu Ung Chính (雍正), ông thị tịch. Ông được truy phong hiệu là Viên Thông Diệu Trí Thiền Sư (圓通妙智禪師). Trước tác của ông có Tông Giám Pháp Lâm (宗鑑法林) 72 quyển và 10 hội Ngữ Lục.
(大德): có 4 nghĩa chính:
(1) Công đức lớn, đại ân. Như trong Hệ Từ (繫辭) của Dịch Kinh (易經) có câu: “Thiên địa chi đại đức viết sinh (天地之大德曰生, đức lớn của trời đất là sinh).” Hay trong Thi Kinh, phần Tiểu Nhã (小雅), Cốc Phong (谷風) có câu: “Vong ngã đại đức, tư ngã tiểu oán (忘我大德、思我小怨, quên đức lớn của ta, nhớ oán hận nhỏ quả ta).”
(2) Phẩm đức cao thượng. Như trong chương Lập Chính (立政) của Quản Tử (管子) có câu: “Quân chi sở thận giả tứ, nhất viết đại đức bất chí nhân, bất khả dĩ thọ quốc bính (君之所愼者四、一曰大德不至仁、不可以授國柄, có bốn điều người quân tử phải thận trọng, một là phẩm đức cao thượng không bằng lòng nhân, không thể lấy vậy mà ban cho quyền lực quốc gia được).” Quan Đại Thần Duẫn Tri Chương (尹知章, 669-718) nhà Đường chú thích rằng: “Đức tuy đại nhi nhân bất chí, hoặc bao tàng họa tâm, cố bất khả thọ quốc bính (德雖大而仁不至、或包藏禍心、故不可授國柄, đức tuy lớn mà lòng nhân vẫn không thấu đáo, hoặc có thể ẩn tàng tâm gây hiểm họa, nên không thể ban cho quyền lực quốc gia được).”
(3) Chỉ cho người có đức hạnh cao thượng. Như trong Lễ Ký (禮記), chương Trung Dung (中庸) có câu: “Cố đại đức tất đắc kỳ vị (故大德必得其位, cho nên người có đức hạnh cao thượng tất đạt được vị trí ấy).” Hay trong chương Ly Lâu (離婁) của Mạnh Tử (孟子) có đoạn: “Thiên hạ hữu đạo, tiểu đức dịch đại đức, tiểu hiền dịch đại hiền (天下有道、小德役大德、小賢役大賢, thiên hạ có đạo rằng người đức ít thì phục dịch người đức lớn, người hiền nhỏ thì phục vụ người hiền lớn).”
(4) Đại Đức(s, p: bhadanta, 大德), âm dịch là Bà Đàn Đà (婆檀陀). Tại Ấn Độ, đây là tiếng kính xưng đối với Phật, Bồ Tát hay cao tăng; hoặc trong hàng ngũ chư vị Tỳ Kheo, bậc Trưởng Lão cũng được gọi là Đại Đức. Như trong Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi Tuần Hành Kinh (佛說文殊師利巡行經, Taishō Vol. 14, No. 470) quyển 57 có đoạn: “Nhĩ thời Văn Thù Sư Lợi đồng tử, ký kiến Trưởng Lão Xá Lợi Phất dĩ, nhi ngữ chi ngôn: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Nhữ nhập Thiền da ?' (爾時文殊師利童子、旣見長老舍利弗已、而語之言、大德舍利弗、汝入禪耶, lúc bấy giờ đồng tử Văn Thù Sư Lợi, đã thấy Trưởng Lão Xá Lợi Phất rồi, mà nói lời rằng: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Có phải người nhập vào Thiền định không ?').” Trong các bộ Luật, khi đối trước đại chúng hiện tiền, chỉ cho chúng Tỳ Kheo, người ta thường dùng từ “Đại Đức Tăng (大德僧)”; với chúng Tỳ Kheo Ni là “Đại Tỷ Tăng (大姊僧)”. Tỷ dụ như trong Luật Uyển Sự Quy (律苑事規, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1113) có đoạn: “Đại Đức nhất tâm niệm ngã [mỗ giáp] kim thỉnh Đại Đức vi lạc phát Hòa Thượng, nguyện Đại Đức vi ngã lạc phát Hòa Thượng, ngã y Đại Đức cố đắc thế phát xuất gia, từ mẫn cố [tam thỉnh] (大德一心念、我[某甲]今請大德爲落髮和尚、願大德爲我落髮和尚、我依大德故得剃髮出家、慈愍故[三請], Đại Đức một lòng nghĩ nhớ, con […] nay cung thỉnh Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc, ngưỡng mong Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc của con, vì con nương Đại Đức nên được xuống tóc xuất gia, xin thương xót cho [ba lần thưa như vậy]).” Tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, từ Đại Đức không dùng để tôn xưng chư Phật, Bồ Tát; mà chỉ dùng cho chư vị cao tăng mà thôi. Tuy nhiên, dưới thời Tùy Đường, những người tham gia dịch kinh đều được gọi là Đại Đức. Như trong Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện (大唐大慈恩寺三藏法師傳, Taishō Vol. 50, No. 2053) quyển 6 cho biết rằng vào tháng 6 năm Trinh Quán (貞觀) thứ 19 (645), khi Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch kinh tại Hoằng Phước (弘福), có 12 vị Chứng Nghĩa Đại Đức (證義大德), 9 vị Chuyết Văn Đại Đức (綴文大德), 1 vị Tự Học Đại Đức (字學大德), 1 vị Chứng Phạn Ngữ Phạn Văn Đại Đức (證梵語梵文大德), v.v. Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (貞元新定釋敎目錄, Taishō Vol. 55, No. 2157) quyển 16 cũng có nêu lên một số danh xưng khác như Lâm Đàn Đại Đức (臨壇大德), Bách Tòa Đại Đức (百座大德), Tam Học Đại Đức (三學大德), Giảng Luận Đại Đức (講論大德), Nghĩa Học Đại Đức (義學大德), Phiên Kinh Đại Đức (翻經大德), Dịch Ngữ Đại Đức (譯語大德), v.v. Ngoài ra, người thống lãnh Tăng Ni cũng gọi là Đại Đức. Như trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 11, Đường Kinh Sư Diên Hưng Tự Thích Cát Tạng Truyện (唐京師延興寺釋吉藏傳) có đề cập sự việc vào năm đầu (618) niên hiệu Võ Đức (武德) nhà Đường, vì số lượng tăng chúng quá đông, chức Thập Đại Đức (十大德) được thiết trí để quản lý tăng chúng. Ngoài những ý nghĩa nêu trên, hiện nay tại Việt Nam, danh xưng Đại Đức được dùng cho những vị mới thọ giới cũng như có Hạ lạp thấp, sau Thượng Tọa và Hòa Thượng.
(大德): (1) Công đức lớn, đại ân. Như trong Hệ Từ (繫辭) của Dịch Kinh (易經) có câu: “Thiên địa chi đại đức viết sinh (天地之大德曰生, đức lớn của trời đất là sinh).” Hay trong Thi Kinh, phần Tiểu Nhã (小雅), Cốc Phong (谷風) có câu: “Vong ngã đại đức, tư ngã tiểu oán (忘我大德、思我小怨, quên đức lớn của ta, nhớ oán hận nhỏ quả ta).” (2) Phẩm đức cao thượng. Như trong chương Lập Chính (立政) của Quản Tử (管子) có câu: “Quân chi sở thận giả tứ, nhất viết đại đức bất chí nhân, bất khả dĩ thọ quốc bính (君之所愼者四、一曰大德不至仁、不可以授國柄, có bốn điều người quân tử phải thận trọng, một là phẩm đức cao thượng không bằng lòng nhân, không thể lấy vậy mà ban cho quyền lực quốc gia được).” Quan Đại Thần Duẫn Tri Chương (尹知章, 669-718) nhà Đường chú thích rằng: “Đức tuy đại nhi nhân bất chí, hoặc bao tàng họa tâm, cố bất khả thọ quốc bính (德雖大而仁不至、或包藏禍心、故不可授國柄, đức tuy lớn mà lòng nhân vẫn không thấu đáo, hoặc có thể ẩn tàng tâm gây hiểm họa, nên không thể ban cho quyền lực quốc gia được).” (3) Chỉ cho người có đức hạnh cao thượng. Như trong Lễ Ký (禮記), chương Trung Dung (中庸) có câu: “Cố đại đức tất đắc kỳ vị (故大德必得其位, cho nên người có đức hạnh cao thượng tất đạt được vị trí ấy).” Hay trong chương Ly Lâu (離婁) của Mạnh Tử (孟子) có đoạn: “Thiên hạ hữu đạo, tiểu đức dịch đại đức, tiểu hiền dịch đại hiền (天下有道、小德役大德、小賢役大賢, thiên hạ có đạo rằng người đức ít thì phục dịch người đức lớn, người hiền nhỏ thì phục vụ người hiền lớn).” (4) Đại Đức (s, p: bhadanta, 大德), âm dịch là Bà Đàn Đà (婆檀陀). Tại Ấn Độ, đây là tiếng kính xưng đối với Phật, Bồ Tát hay cao tăng; hoặc trong hàng ngũ chư vị Tỳ Kheo, bậc Trưởng Lão cũng được gọi là Đại Đức. Như trong Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi Tuần Hành Kinh (佛說文殊師利巡行經, Taishō Vol. 14, No. 470) quyển 57 có đoạn: “Nhĩ thời Văn Thù Sư Lợi đồng tử, ký kiến Trưởng Lão Xá Lợi Phất dĩ, nhi ngữ chi ngôn: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Nhữ nhập Thiền da ?' (爾時文殊師利童子、既見長老舍利弗已、而語之言、大德舍利弗、汝入禪耶, lúc bấy giờ đồng tử Văn Thù Sư Lợi, đã thấy Trưởng Lão Xá Lợi Phất rồi, mà nói lời rằng: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Có phải người nhập vào Thiền định không ?').” Trong các bộ Luật, khi đối trước đại chúng hiện tiền, chỉ cho chúng Tỳ Kheo, người ta thường dùng từ “Đại Đức Tăng (大德僧)”; với chúng Tỳ Kheo Ni là “Đại Tỷ Tăng (大姊僧)”. Tỷ dụ như trong Luật Uyển Sự Quy (律苑事規, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1113) có đoạn: “Đại Đức nhất tâm niệm ngã [mỗ giáp] kim thỉnh Đại Đức vi lạc phát Hòa Thượng, nguyện Đại Đức vi ngã lạc phát Hòa Thượng, ngã y Đại Đức cố đắc thế phát xuất gia, từ mẫn cố [tam thỉnh] (大德一心念、我[某甲]今請大德爲落髮和尚、願大德爲我落髮和尚、我依大德故得剃髮出家、慈愍故[三請], Đại Đức một lòng nghĩ nhớ, con […] nay cung thỉnh Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc, ngưỡng mong Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc của con, vì con nương Đại Đức nên được xuống tóc xuất gia, xin thương xót cho [ba lần thưa như vậy]).” Tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, từ Đại Đức không dùng để tôn xưng chư Phật, Bồ Tát; mà chỉ dùng cho chư vị cao tăng mà thôi. Tuy nhiên, dưới thời Tùy Đường, những người tham gia dịch kinh đều được gọi là Đại Đức. Như trong Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện (大唐大慈恩寺三藏法師傳, Taishō Vol. 50, No. 2053) quyển 6 cho biết rằng vào tháng 6 năm Trinh Quán (貞觀) thứ 19 (645), khi Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch kinh tại Hoằng Phước (弘福), có 12 vị Chứng Nghĩa Đại Đức (證義大德), 9 vị Chuyết Văn Đại Đức (綴文大德), 1 vị Tự Học Đại Đức (字學大德), 1 vị Chứng Phạn Ngữ Phạn Văn Đại Đức (證梵語梵文大德), v.v. Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (貞元新定釋敎目錄, Taishō Vol. 55, No. 2157) quyển 16 cũng có nêu lên một số danh xưng khác như Lâm Đàn Đại Đức (臨壇大德), Bách Tòa Đại Đức (百座大德), Tam Học Đại Đức (三學大德), Giảng Luận Đại Đức (講論大德), Nghĩa Học Đại Đức (義學大德), Phiên Kinh Đại Đức (翻經大德), Dịch Ngữ Đại Đức (譯語大德), v.v. Ngoài ra, người thống lãnh Tăng Ni cũng gọi là Đại Đức. Như trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 11, Đường Kinh Sư Diên Hưng Tự Thích Cát Tạng Truyện (唐京師延興寺釋吉藏傳) có đề cập sự việc vào năm đầu (618) niên hiệu Võ Đức (武德) nhà Đường, vì số lượng tăng chúng quá đông, chức Thập Đại Đức (十大德) được thiết trí để quản lý tăng chúng. Ngoài những ý nghĩa nêu trên, hiện nay tại Việt Nam, danh xưng Đại Đức được dùng cho những vị mới thọ giới cũng như có Hạ lạp thấp, sau Thượng Tọa và Hòa Thượng.
(閻魔十殿): còn gọi là Diêm Vương Thập Điện (閻王十殿), Thập Điện Diêm Vương (十殿閻王), Thập Điện Minh Vương (十殿冥王), Thập Điện Từ Vương (十殿慈王). Nguyên lai chỉ có một vị Diêm Vương, nhưng sau khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, tín ngưỡng về Diêm Vương có ảnh hưởng to lớn đối với hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở đây, trải qua nhiều biến hóa, Hán hóa sắc thái và cuối cùng quan niệm này trở thành Thập Điện Diêm Vương. Kinh điển ban đầu của Phật Giáo không có đề cập đến Thập Điện Diêm Vương. Tỷ dụ như theo Cấm Độ Tam Muội Kinh (禁度三昧經), Diêm Vương chỉ quản hạ 5 vị quan, gồm: Tiên Quan (鮮官) chuyên ngăn cấm sát sanh, Thủy Quan (水官) chuyên ngăn cấm trộm cắp, Thiết Quan (鐵官) chuyên ngăn cấm tà dâm, Thổ Quan (土官) chuyên ngăn cấm nói lời hai lưỡi và Thiên Quan (天官) cấm việc uống rượu. Hơn nữa, trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 33, bộ sử truyện nổi tiếng của Phật Giáo Trung Quốc, có ghi rằng: “Trên đời truyền tụng rằng Hòa Thượng Đạo Minh (道明和尚) nhà Đường thần du xuống Địa Phủ, thấy có 15 hạng người thuộc hạ (của Diêm Vương), từ đó lưu truyền trên thế gian.” Như vậy, thuộc hạ của Diêm Vương đã biến thành 15 người. Danh hiệu của Thập Điện Diêm Vương xuất hiện đầu tiên trong Dự Tu Thập Ngũ Sanh Thất Kinh (預修十五生七經), Diêm Vương Kinh (閻王經), v.v. Căn cứ Ngọc Lịch Bảo Giám (玉曆寶鑑), 10 ngôi điện do Linh Bảo Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (靈寳十方救苦天尊) hóa thành, được 10 vị Diêm Ma (s: Yama, 閻魔) cai quản, gồm:
(1) Tần Quảng Vương (秦廣王, Qín-guàng, hay Tần Quảng Vương Tương [秦廣王蔣]), còn gọi là Thái Tố Diệu Quảng Chơn Quân (泰素妙廣眞君), cai quản ngôi điện thứ nhất, do Đông Phương Thiên Tôn (東方天尊) hóa thành, sống ở Huyền Minh Cung (玄冥宮), chịu trách nhiệm trông coi về sanh tử của của con người và quản lý toàn bộ việc cát hung của cõi u minh, ngày sinh của ông là mồng 2 tháng 2 âm lịch; quỷ Phán Quan của cõi này sống ngoài tảng đá Ốc Tiêu (沃焦[礁]) trong biển lớn; hướng chánh Tây của điện này là con đường tối om dẫn đến Huỳnh Tuyền (黃泉); nếu người làm ác thì sau khi chết sẽ bị nhập vào đài cao bên phải của điện này tên là Nghiệt Kính Đài (孽鏡台); đài cao 1 trượng, treo hướng về phía Đông, phía trên có 7 chữ lớn “Nghiệt Kính Đài tiền vô hảo nhân (孽鏡台前無好人, Trước Nghiệt Kính Đài không người tốt)”; sau khi được chiếu soi ở Nghiệt Kính Đài xong, tội nhân sẽ được phê giải xuống ngôi điện thứ hai để chịu ngục hình thọ khổ tùy theo tội nặng hay nhẹ.
(2) Sở Giang Vương (楚江王, Chŭ-jiāng, hay Sở Giang Vương Lệ [楚江王厲]), còn gọi là Âm Đức Định Hưu Chơn Quân (陰德定休眞君), cai quản ngôi điện thứ hai, do Nam Phương Thiên Tôn (南方天尊) hóa thành, sống tại Phổ Minh Cung (普明宮) dưới đáy biển sâu, chịu trách nhiệm trông coi Hoạt Đại Địa Ngục (活大地獄, địa ngục sống lâu), Hàn Băng Địa Ngục (寒冰地獄, địa ngục băng lạnh) và Bác Y Đình (剥衣亭, nhà cởi áo) và 16 địa ngục bên dưới như Hắc Vân Sa (黑雲沙), Phẩn Niệu Nê (糞尿泥), Ngũ Xoa (五叉), Cơ Ngạ (飢餓), Khát (渴), Nùng Huyết (膿血), Đồng Phủ (銅斧), Đa Đồng Phủ (多銅斧), Thiết Khải (鐵鎧), U Lượng (幽量), Kê (雞), Hôi Hà (灰河), Chước Tiệt (斫截), Kiếm Diệp (劍葉), Hồ Lang (狐狼), Hàn Băng (寒冰). Ngày sinh của ông là mồng 3 tháng 3 âm lịch.
(3) Tống Đế Vương (宋帝王, Sòng-dì, hay Tống Đế Vương [宋帝王餘]), còn gọi là Động Minh Phổ Tĩnh Chơn Quân (洞明普靜眞君), cai quản ngôi điện thứ ba, do Tây Phương Thiên Tôn (西方天尊) hóa thành, sống ở Trụ Tuyệt Cung (紂絕宮), chịu trách nhiệm trông coi Hắc Thằng Địa Ngục (s: Kālasūtra-naraka, 黒繩地獄, địa ngục có sợi dây thừng đen), những ai bị kiện tụng, không vâng lời các bậc trưởng thượng, không thương mạng dân, sĩ thứ thấy lợi mà quên nghĩa, chồng bất nghĩa, vợ không thuận, từng thọ ân huệ mà phụ bạc, nô bộc phản gia chủ, hay phạm tội vượt ngục, trốn quân dịch, v.v., sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục này. Ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 2 âm lịch;
(4) Ngũ Quan Vương (五官王, Wŭ-guān, hay Ngũ Quan Vương Lữ [五官王呂]), còn gọi là Huyền Đức Ngũ Linh Chơn Quân (玄德五靈眞君), cai quản ngôi điện thứ tư, do Bắc Phương Thiên Tôn (北方天尊) hóa thành, sống ở Thái Hòa Cung (太和宮), chịu trách nhiệm trông coi Hợp Đại Địa Ngục (s: Saṅgāta-naraka, 合大地獄, địa ngục hợp lại thành to lớn) và Huyết Trì Địa Ngục (血池地獄, địa ngục có hồ máu) cùng với 16 địa ngục nhỏ như Trì (池), Mâu Liên Trúc Thiêm (蝥鏈竹籤), Phí Thang Kiêu Thủ (沸湯澆手), Chưởng Bạn Lưu Dịch (掌畔流液), Đoạn Cân Dịch Cốt (斷筋剔骨), Yển Kiên Loát Bì (堰肩), Tỏa Phu (鎖膚), Tồn Phong (蹲峰), Thiết Y (鐵衣), Mộc Thạch Thổ Ngõa (木石土瓦), Kiếm Nhãn (劍眼), Phi Hôi Tắc Khẩu (飛灰塞口), Quán Dược (灌藥), Du Hoạt Điệt (油滑跌), Thích Chủy (剌嘴), Toái Thạch Mai Thân (碎石埋身). Những ai thường hay lừa dối sẽ bị đọa xuống địa ngục này; ngày sinh của ông là 18 tháng 2 âm lịch.
(5) Diêm Ma Vương (閻魔王, Yama-rāja, Yán-mó, còn gọi là Diêm La Vương [閻羅王], Diêm Ma Vương Thiên Tử Bao [閻魔王天子包]), còn gọi là Tối Thánh Diệu Linh Chơn Quân (最聖耀靈眞君), cai quản ngôi điện thứ năm, nguyên trước kia trông coi ngôi điện thứ nhất, nhưng vì đồng tình với tội nhân ở đây, nên bị chuyển xuống đây, do Đông Bắc Phương Thiên Tôn (東北方天尊) hóa thành, sống ở Củ Luân Cung (糾倫宮), chịu trách nhiệm trông coi Khiếu Hoán Địa Ngục (s: Raurava-naraka, 叫喚地獄, địa ngục la hét) và 16 địa ngục nhỏ khác; ngày sinh của ông là mồng 8 tháng giêng âm lịch.
(6) Biện Thành Vương (卞城王, Biàn-chéng, hay Biện Thành Vương Tất [卞城王畢]), còn gọi là Bảo Túc Chiêu Thành Chơn Quân (寶肅昭成眞君), cai quản ngôi điện thứ sáu, do Đông Nam Phương Thiên Tôn (東南方天尊) hóa thành, sống ở Minh Thần Cung (明晨宮), chịu trách nhiệm trông coi Đại Khiếu Hoán Địa Ngục (s: Mahāraurava-naraka, 大叫喚地獄, địa ngục la hét lớn) và Uổng Tử Thành (枉死城, thành chết oan uổng) cũng như 16 địa ngục nhỏ khác như Thường Quỵ Thiết Sa (常跪鐵砂), Thỉ Nê Tẩm Thân (屎泥浸身), Ma Tồi Lưu Huyết (磨摧流血), Kiềm Chủy (鉗嘴), Cát Thận Thử Giảo (割腎鼠咬), Cức Cương Hoàng Toản (棘綱蝗鑽), Đối Đảo Nhục Tương (碓搗肉漿), Liệt Bì Kỵ Lôi (裂皮曁擂), Hàm Hỏa Bế Hầu (銜火閉喉), Tang Hỏa Hồng (桑火烘), Phẩn Ô (糞污), Ngưu Điêu Mã Táo (牛雕馬躁), Phi Khiếu (緋竅), Đầu Thoát Xác (頭脫殼), Yêu Trảm (腰斬), Bác Bì Tuyên Thảo (剝皮揎草). Những ai đã từng chửi mắng trời và hướng về phương Bắc mà tiểu tiện sẽ bị đọa xuống nơi này; ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 3 âm lịch.
(7) Thái Sơn Vương (泰山王, Tài-shān, hay Thái Sơn Vương Đổng [泰山王董]), còn gọi là Thái Sơn Huyền Diệu Chơn Quân (泰山玄妙眞君), cai quản ngôi điện thứ bảy, do Tây Nam Phương Thiên Tôn (西南方天尊) hóa thành, sống ở Thần Hoa Cung (神華宮), chịu trách nhiệm trông coi Nhiệt Não Địa Ngục (s: Tapana-naraka, 熱惱地獄, địa ngục đau khổ vì nóng) và 16 địa ngục nhỏ khác như Tuất Tự Thôn (卹自吞), Liệt Hung (冽胸), Địch Thối Hỏa Bức (笛腿火逼), Quyền Kháng Phát (權抗發), Khuyển Giảo Hĩnh Cốt (犬咬脛骨), Úc Thống Khốc Cẩu (燠痛哭狗), Tắc Đảnh Khai Ngạch (則頂開額), Đảnh Thạch Tồn Thân (頂石蹲身), Đoan Bảo Thượng Hạ Trác Giảo (端鴇上下啄咬), Vụ Bì Trư Tha (務皮豬拖), Điếu Giáp Túc (吊甲足), Bạt Thiệt Xuyên Tai (拔舌穿腮), Trừu Tràng (抽膓), Loa Đạp Miêu Tước (騾踏貓嚼), Lạc Thủ Chỉ (烙手指), Du Phủ Cổn Phanh (油釜滾烹). Những ai chế thuốc từ xương người chết và xa lánh người thân sẽ bị đọa xuống nơi này; ngày sinh của ông là 27 tháng 3 âm lịch.
(8) Đô Thị Vương (都市王, Dōu-shì, hay Đô Chủ Vương Hoàng [都主王黃]), còn gọi là Phi Ma Diễn Hóa Chơn Quân (飛魔演化眞君), cai quản ngôi điện thứ tám, do Thượng Phương Thiên Tôn (上方天尊) hóa thành, sống ở Bích Chơn Cung (碧眞宮), chịu trách nhiệm trông coi Đại Nhiệt Não Địa Ngục (s: Mahātapana-naraka, 大熱惱地獄, địa ngục đau khổ vì nóng lớn) và 16 địa ngục nhỏ như Xa Băng (車崩), Muộn Oa (悶鍋), Toái Quả (碎剮), Khổng Tiểu (孔小), Tiễn Chu (翦朱), Thường Thanh (常圊), Đoạn Chi (斷肢), Chích Tủy (炙髓), Ba Tràng (爬膓), Phần (焚), Khai Sanh (開瞠), Quả Hung (剮胸), Phá Đảnh Khiêu Xỉ (破頂撬齒), Cát (割), Cương Xoa (鋼叉). Ngày sinh của ông là mồng 1 tháng 4 âm lịch.
(9) Bình Đẳng Vương (平等王, Píng-dĕng, hay Đối Đẳng Vương Lục [對等王陸]), còn gọi là Vô Thượng Chánh Độ Chơn Quân (無上正度眞君), cai quản ngôi điện thứ chín, do Tây Bắc Phương Thiên Tôn (西北方天尊) hóa thành, sống ở Thất Phi Cung (七非宮), chịu trách nhiệm trông coi A Tỳ Địa Ngục (s: Avīci-naraka, 阿鼻地獄, tức Địa Ngục Vô Gián) và 16 địa ngục nhỏ khác như Sao Cốt Chước Thân (敲骨灼身), Trừu Cân Lôi Cốt (抽筋擂骨), Nha Thực Tâm Can (鴉食心肝), Cẩu Thực Tràng Phế (狗食膓肺), Thân Tiễn Nhiệt Du (身濺熱油), Não Cô Bạt Thiệt Bạt Xỉ (腦箍拔舌拔齒), Thủ Não Điền (取腦填), Chưng Đầu Quát Não (蒸頭刮腦), Dương Súc Thành Diêm (羊搐成鹽), Mộc Giáp Đảnh (木夾頂), Ma Tâm (磨心), Phí Thang Lâm Thân (沸湯淋身), Hoàng Phong (黃蜂), Hiết Câu (蠍鉤), Nghĩ Chú Ngao Đam (蟻蛀熬眈), Tử Xích Độc Xà Toản (紫赤毒蛇鑽). Ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 4 âm lịch.
(10) Chuyển Luân Vương (轉輪王, Zhuàn-lún, hay Chuyển Luân Vương Tiết [轉輪王薛]), còn gọi là Ngũ Linh Uy Đức Chơn Quân (五靈威德眞君), cai quản ngôi điện thứ mười, do Hạ Phương Thiên Tôn (下方天尊) hóa thành, sống ở Túc Anh Cung (肅英宮); ngày sinh của ông là 17 tháng 4 âm lịch. Ông chuyên trông coi các hồn quỷ được áp giải đến từ các điện khác, phân biệt, quyết định tôi phước nặng nhẹ của tội nhân, phân phát đi khắc các bộ châu, tìm đất và loại để cho vong hồn đầu thai. Ông còn có nhiệm vụ xem xét việc thiện ác của tội nhân để thông tri cho cấp trên, thẩm định thọ mạng ngắn dài cũng như tội phước thay đổi của tội nhân. Quá trình khảo tra rất nghiêm mật, cuối cùng mới cho tội nhân cầu vàng, cầu ngọc, cầu đá, cầu gỗ hay Cầu Nại Hà (奈河橋, Nại Hà Kiều) và tống lên cho đầu thai vào 6 đường. Nếu như ở trên đời làm các việc thiện, khi sanh ra sẽ được trời người kính ngưỡng; sau khi chết đi cũng được quỷ thần cung kính; lúc ấy tự thân Chuyển Luân Vương cũng thân hành dẫn các sứ thần đến nghinh đón. Cho nên dân gian có câu rằng: “Tích thiện chi gia hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia hữu dư ương (積善之家有餘慶、積不善之家有餘殃, Nhà tích lũy việc thiện thì có nhiều điều tốt đẹp, nhà không tích lũy việc thiện thì có nhiều tai ương).”
Từ cuối thời nhà Đường trở đi, tín ngưỡng Thập Điện Diêm Vương trở nên thịnh hành. Thông thường, trong Miếu Thành Hoàng ở các địa phương có thiết lập Diêm Vương Điện (閻王殿) để thờ Thập Điện Diêm Vương. Tại các tự viện Phật Giáo, hai bên phải trái của bàn thờ Địa Tạng Bồ Tát cũng có thờ Thập Điện Diêm Vương. Tín ngưỡng Thập Điện Diêm Vương cũng được du nhập vào Việt Nam và vẫn còn lưu hành cho đến ngày hôm nay. Như trong các lòng văn sớ dâng cúng cầu siêu, thường có đề cập đến Minh Vương (冥王, tức Diêm Vương), Diêm Ma Thập Điện như: “Tư lâm Đại Tường chi trai tuần, chánh trị khôn phủ đệ thập điện, Chuyển Luân Minh Vương án tiền trình quá (茲臨大祥之齋旬、正値坤府第十殿、轉輪冥王案前呈過, Nay gặp lúc tuần chay dịp Đại Tường, đúng vào điện thứ mười, xin trình trước án Chuyển Luân Minh Vương)”, hay “Cung phụng: Diện Nhiên Đại Sĩ, uy quang khắc đáo ư kim tiêu; Địa Tạng từ tôn, thần lực đại chương ư thử dạ; Diêm Ma Thập Điện, chiếu khai Thập Bát Địa Ngục chi môn; Tả Hữu Phán Quan, thiêu tận ức kiếp luân hồi chi tịch; tỷ Lục Đạo Tứ Sanh chi vi mạng, khô mộc phùng xuân; sử cửu huyền thất tổ chi sảng linh, đồng đăng giác ngạn (恭奉、面燃大士、威光刻到於今霄。地藏慈尊、神力大彰於此夜。閻魔十殿、照開十八地獄之門。左右判官、燒盡億刼輪廻之籍。俾六道四生之微命、枯木逢春。使九玄七祖之爽靈、同登覺岸, Cúi xin: Diện Nhiên Đại Sĩ, ánh sáng oai lực đến đêm nay; Địa Tạng từ bi, thần lực hiển bày vào tối này. Diêm Ma Mười Điện, mở Mười Tám địa ngục cửa tung; Phán Quan phải trái, đốt sạch hồ sơ luân hồi muôn kiếp; cho mạng nhỏ của Bốn Loài Sáu Đường, cây khô gặp xuân; khiến hương linh của cửu huyền thất tổ, cùng lên bờ giác)”, v.v.
(丹霞子淳, Tanka Shijun, 1064-1117): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, họ là Cổ (賈), xuất thân Huyện Tử Đồng (梓潼), Kiếm Châu (劍州, Tỉnh Tứ Xuyên), còn gọi là Đức Thuần (德淳). Năm 27 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới, rồi đi tham vấn một số danh tăng như Chơn Như Cung Triết (眞如恭喆), Chơn Tịnh Khắc Văn (眞淨克文), Đại Hồng Báo Ân (大洪報恩), v.v., cuối cùng đến tham yết Đạo Giai (道楷) ở Đại Dương Sơn (大陽山) và kế thừa dòng pháp của vị này. Vào năm thứ 3 (1104) niên hiệu Sùng Ninh (崇寧), ông đến trú tại Đơn Hà Sơn (丹霞山) vùng Nam Dương (南陽), sau chuyển đến Đại Thừa Sơn (大乘山) ở Đường Châu (唐州) và Đại Hồng Sơn (大洪山) ở Tùy Châu (隨州). Tại những nơi này ông đều cổ xướng Thiền phong của mình. Vào ngày 11 tháng 3 năm thứ 7 (1117) niên hiệu Chính Hòa (政和), ông thị tịch. Môn nhân của ông có một số nhân vật tài danh như Chơn Hiết Thanh Liễu (眞歇清了), Thiên Đồng Chánh Giác (天童正覺), Đại Thừa Lợi Thăng (大乘利昇), Đại Hồng Khánh Dự (大洪慶預), v.v. Các trước tác của ông như Đơn Hà Thuần Thiền Sư Ngữ Lục (丹霞淳禪師語錄) 2 quyển, Hư Đường Tập (虛堂集) 3 quyển, vẫn còn hiện hành.
(融通念佛宗, Yūzūnembutsushū): một trong 13 tông phái lớn của Nhật Bản, còn gọi là Đại Niệm Phật Tông (大念佛宗). Vị Tông Tổ sáng lập ra tông phái này Thánh Ứng Đại Sư Lương Nhẫn (聖應大師良忍). Năm 1117, ông cảm đắc được câu kệ của A Di Đà Như Lai là “nhất nhân nhất thiết nhân, nhất thiết nhân nhất nhân, nhất hạnh nhất thiết hạnh, nhất thiết hạnh nhất hạnh, thị danh tha lực vãng sanh, Thập Giới nhất niệm, dung thông niệm Phật, ức bách vạn biến, công đức viên mãn (一人一切人、一切人一人、一行一切行、一切行一行、是名他力徃生、十界一念、融通念佛、億百萬遍、功德圓滿, một người hết thảy mọi người, hết thảy mọi người một người, một hạnh hết thảy mọi hạnh, hết thảy mọi hạnh một hạnh, ấy tên tha lực vãng sanh, mười cõi một niệm, dung thông niệm Phật. trăm vạn ức biến, công đức tròn đầy)”, rồi lấy câu kệ này làm tư tưởng căn bản; và nhân lúc đó làm năm khai sáng Tông này. Khi ấy, ông lấy bức tranh vẽ tượng Phật ở giữa và có 10 vị Thánh cung quanh làm tượng thờ chính, và ngôi chùa trung tâm của Tông này là Đại Niệm Phật Tự (大念佛寺, Dainembutsu-ji), hiện tọa lạc tại Hirano-ku (平野區), Ōsaka-shi (大阪市). Vị Tông Tổ Lương Nhẫn sinh ra ở vùng Phú Đa (富多), Quận Tri Đa (知多郡, Chita-gun), Vĩ Châu (尾州, Bishū, thuộc Aichi-ken [愛知縣]). Năm lên 12 tuổi, ông lên xuất gia trên Duệ Sơn, làm vị tăng Hành Đường ở Đông Tháp. Nơi đây ông thường tham gia tu pháp môn niệm Phật không gián đoạn, nên đã tạo cơ hội bồi dưỡng thêm cho thiên tài về âm nhạc của Lương Nhẫn. Về sau, ông đến ẩn cư ở vùng Đại Nguyên (大原, Ōhara), hoàn thành phần Thanh Minh do Viên Nhân (圓仁, Ennin) truyền lại, và khai xướng ra pháp môn Dung Thông Niệm Phật với khúc hợp xướng mang tính âm nhạc. Sau ông lại được cảm đắc về giáo lý Tự Tha Dung Thông (自他融通) từ đức Di Đà Như Lai, và khai sáng ra Dung Thông Niệm Phật Tông. Từ đó tiếng tăm ông vang khắp, chúng đạo tục khắp các nơi tập trung theo ông rất đông. Pháp môn Dung Thông Niệm Phật của Lương Nhẫn được tổ chức theo cách ghi tên vào sổ danh bạ, nên mọi người được gọi là Đồng Chí. Còn xướng niệm Phật thì chủ trương có công đức dung thông với nhau, cả đời này và đời sau đều được lợi ích to lớn. Sau khi Lương Nhẫn qua đời, có Nghiêm Hiền (嚴賢, tức Lương Huệ [良惠]), Minh Ứng (明應), Quán Tây (觀西), Tôn Vĩnh (尊永), Lương Trấn (良鎭) kế thừa ông; nhưng đến thời Pháp Minh (法明, tức Lương Tôn [良尊]) tiếp nối Lương Trấn, thì ngọn pháp đăng bị tuyệt diệt trong khoảng thời gian 140 năm trường. Tuy nhiên, chính trong khoảng thời gian này, Dung Thông Niệm Phật Tông lại được truyền bá đến các địa phương khác nhờ các vị Thánh Niệm Phật (念佛聖) và Thánh Khuyến Tấn (勸進聖). Trong số đó có Đạo Ngự (道御, tức Viên Giác Thập Vạn Thượng Nhân [圓覺十萬上人]) đã khởi xướng ra Dung Thông Đại Niệm Phật Cuồng Ngôn (融通大念佛狂言, ngày nay gọi là Nhâm Sanh Cuồng Ngôn [壬生狂言]) ở Địa Tạng Viện (地藏院) thuộc vùng Nhâm Sanh (壬生) vào năm 1257, rồi Dung Thông Đại Niệm Phật Hội (融通大念佛會) ở Pháp Kim Cang Viện (法金剛院) vào năm 1276, cũng như tại Thanh Lương Tự (清涼寺) vào năm 1279. Thêm vào đó, vị Tổ sư của Thời Tông (時宗, Jishū) là Nhất Biến (一遍, Ippen) cũng được gọi là “vị Thánh khuyên người Niệm Phật Dung Thông”. Nguyên lai, Dung Thông Niệm Phật của Lương Nhẫn là hình thức niệm Phật hợp xướng với số đông người, từ việc thể nghiệm sự cảm đắc mang tính huyễn mộng bằng cảm giác thông qua âm điệu phong phú, và cuối cùng trở thành Đại Niệm Phật. Hơn nữa, vì pháp môn này phù hợp với hoạt động quyên góp tiền để xây dựng chùa chiền, nên Tông này đã vượt qua các tông phái khác để lan truyền rộng rãi khắp toàn quốc nước Nhật; từ đó tập đoàn Dung Thông Niệm Phật cũng được hình thành ở các địa phương. Thư tịch hiện tồn nói lên sự hoạt động hưng thạnh rực rõ của tông phái này là Dung Thông Niệm Phật Duyên Khởi Hội Quyển (融通念佛緣起繪巻). Người có công lao to lớn trong việc lưu truyền di phẩm này là Lương Trấn. Kể từ năm 1382 cho đến 1423, trong vòng 42 năm trường, ở mỗi tiểu quốc trong nước Nhật đều được phân bố 1 hay 2 bản này. Những vị Thánh Khuyến Tấn tập trung theo Lương Trấn thì vẽ các bức tranh giải thích rõ về tác phẩm này, rồi khuyên mọi người tham gia vào Dung Thông Niệm Phật Tông; ghi tên những ai kết duyên với tông phái vào sổ danh bạ, và đem nạp vào Lưu Ly Đường (瑠璃堂) của Đương Ma Tự (當麻寺, Taima-ji) ở tiểu quốc Đại Hòa (大和, Yamato). Những hành sự đáng lưu ý nhất hiện tại vẫn còn được tiến hành trong Dung Thông Niệm Phật Tông là Ngự Hồi Tại (御回在), Truyền Pháp (傳法). Về lễ Ngự Hồi Tại, hằng năm người ta thường lấy tượng thời chính của Tông này đem đi vòng quanh các nhà tín đồ để cầu nguyện cũng như cúng dường cho tổ tiên. Còn lễ Truyền Pháp thì chỉ giới hạn trong 2 ngày mồng 5 và mồng 7 hằng tháng. Khi ấy, các tự viện trở thành đạo tràng nghiêm tịnh, các tín đồ đệ tử tập trung về tham bái, lễ sám, dội nước lên mình, nghe pháp tu hành, thọ giới Viên Đốn, và được truyền trao cho pháp an tâm của Tông môn. Hiện tại, tông này có khoảng 357 ngôi chùa khắp nơi trong nước như Ōsaka-fu (大阪府), Kyoto-fu (京都府), Nara-ken (奈良縣), Mie-ken (三重縣), Hyōgo-ken (兵庫縣).
(s, p: tathāgata, 如來): âm dịch là Đa Đà A Già Đà (多陀阿伽陀), Đa Tha A Già Độ (多他阿伽度), Đa Đà A Già Độ (多陀阿伽度), Đát Tát A Kiệt (怛薩阿竭), Đát Tha Nga Đa (怛他誐多), Đa A Kiệt (多阿竭); còn gọi là Như Khứ (如去), là một trong 10 danh hiệu của đức Phật, tôn xưng của vị Phật. Nếu phân tích Phạn ngữ tathāgata, có 2 loại: tathā-gata (如去, Như Khứ), tathā-āgata(如來, Như Lai). Như Khứ có nghĩa là cỡi đạo chơn như mà đạt đến quả Phật Niết Bàn. Theo cách giải thích sau có nghĩa là do chơn lý mà đến để thành chánh giác. Đức Phật cỡi chân lý mà đến, do chơn như mà hiện thân, nên được gọi là Như Lai. Một số kinh điển giải thích về thuật ngữ này như sau. Trong Thanh Tịnh Kinh (清淨經) của Trường A Hàm (長阿含) quyển 12 có đoạn: “Phật ư Sơ dạ thành tối chánh giác, cập mạt hậu dạ, ư kỳ trung gian hữu sở ngôn thuyết, tận giai như thật, cố danh Như Lai; phục thứ, Như Lai sở thuyết như sự, sự như sở thuyết, cố danh Như Lai (佛於初夜成最正覺、及末後夜、於其中間有所言說、盡皆如實、故名如來、復次、如來所說如事、事如所說、故名如來, đức Phật vào đầu đêm thành chánh giác tối thượng, cho đến cuối đêm, trong khoảng thời gian giữa ấy, những lời nói của ngài, hết thảy đều như thật, nên được gọi là Như Lai; lại nữa, các việc do Như Lai nói ra, việc đúng như lời nói, nên được gọi là Như Lai).” Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 24 thì định nghĩa là: “Như thật đạo lai, cố danh vi Như Lai (如實道來、故名爲如來, đến với đạo như thật, nên có tên là Như Lai)”; hoặc quyển 55 thì cho là: “Hành Lục Ba La Mật, đắc thành Phật đạo, … cố danh Như Lai (行六波羅蜜、證成佛道、… 故名如來, thực hành Sáu Ba La Mật, chứng thành Phật đạo, … nên có tên là Như Lai).” Hay như theo Thành Thật Luận (成實論) quyển 1 là: “Như Lai giả, thừa như thật đạo lai thành chánh giác, cố viết Như Lai (如來者、乘如實道來成正覺、故曰如來, Như Lai là mang đạo như thật đến đây và thành chánh giác, nên được gọi là Như Lai).” Chuyển Pháp Luân Luận (轉法輪論) giải thích rằng: “Như thật nhi lai, cố danh Như Lai; … Niết Bàn danh Như, tri giải danh Lai, Chánh Giác Niết Bàn cố danh Như Lai (如實而來、故名如來、… 涅槃名如、知解名來、正覺涅槃故名如來, như thật mà đến, nên có tên là Như Lai; Niết Bàn gọi là Như, hiểu biết gọi là Lai; vì vậy Chánh Giác Niết Bàn được gọi là Như Lai).” Đại Nhật Kinh Sớ (大日經疏) cũng có giải thích tương tợ như vậy: “Như chư Phật thừa như thật đạo lai thành chánh giác, kim Phật diệc như thị lai, cố danh Như Lai (如諸佛乘如實道來成正覺、今佛亦如是來、故名如來, như các đức Phật mang đạo như thật đến đây và thành chánh giác, nay Phật cũng đến như vậy, nên có tên là Như Lai).” Bí Tạng Ký Bổn (秘藏記本) của Mật Giáo thì cho rằng: “Thừa như nhi lai cố viết Như Lai (乘如而來故曰如來, cỡi đạo như thật mà đến nên có tên là Như Lai).” Trong tác phẩm Giáo Hành Tín Chứng (敎行信證) quyển 4 của Thân Loan (親鸞, Shinran, 1173-1262) Nhật Bản có định nghĩa về Như Lai rằng: “Chơn như tức thị nhất như, nhiên giả Di Đà Như Lai tùng Như Lai sanh thị hiện Báo Ứng Hóa chủng chủng thân giả (眞如卽是一如、然者彌陀如來從如來生示現報應化種種身也, chơn như tức là nhất như, tuy nhiên, Di Đà Như Lai từ Như Lai sanh ra, thị hiện các loại thân như Báo Thân, Ứng Thân, Hóa Thân).” Ngoài ra, bản chú giải trường bộ kinh bằng tiếng Pāli là Sumaṅgala-vilāsinī có nêu 9 nghĩa của Như Lai, hay Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (十住毘婆沙論) thì giải thích 11 nghĩa, v.v. Tại Chánh Điện của dũng tuyền tự (湧泉寺), thuộc Phúc Châu (福州), Tỉnh Phúc Kiến (福建), Trung Quốc có câu đối rằng: “Bảo tướng hiện Như Lai nhân chứng Bồ Đề không Ngũ Uẩn, kim thân Quán Tự Tại tu La Hán ngộ Tam Thừa (寶相現如來因證菩提空五蘊、金身觀自在果修羅漢悟三乘, tướng báu hiện Như Lai nhân chứng Bồ Đề không Năm Uẩn, thân vàng Quán Tự Tại tu La Hán ngộ Ba Thừa).” Hay như tại Huệ Tế Tự (慧濟寺) thuộc Phổ Đà Sơn (普陀山), Tỉnh Triết Giang (浙江省) cũng có câu đối: “Tự Tại tự quán Quán Tự Tại, Như Lai như kiến kiến Như Lai (自在自觀觀自在、如來如見見如來, Tự Tại tự quán Quán Tự Tại, Như Lai như thấy thấy Như Lai).”
(楚石梵琦, Soseki Bonki, 1296-1370): vị tăng của Phái Đại Huệ thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, tự là Đàm Diệu (曇曜), Sở Thạch (楚石), hiệu Tây Trai Lão Nhân (西齋老人), sinh tháng 6 năm thứ 2 niên hiệu Nguyên Trinh (元貞), xuất thân Tượng Sơn (象山), Minh Châu (明州, Tỉnh Triết Giang), họ Chu (朱). Năm 9 tuổi, ông đến tham yết và xuất gia với Nột Ông Mô (訥翁模) ở Thiên Ninh Tự (天寧寺), Hải Diêm (海塩, Tỉnh Triết Giang). Ngoài ra, ông còn tham vấn Tấn Ông Tuân (晉翁洵) ở Sùng Ân Tự (崇恩寺) vùng Hồ Châu (湖州, Tỉnh Triết Giang). Năm 16 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới ở Chiêu Khánh Tự (昭慶寺) vùng Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang). Từ đó, ông lại đến tham yết một số danh tăng khác như Hư Cốc Hy Lăng (虛谷希陵) ở Kính Sơn (徑山), Vân Ngoại Vân Tụ (雲外雲岫) ở Thiên Đồng Sơn (天童山), Hối Cơ Nguyên Hy (晦機元熙) ở Tịnh Từ Tự (淨慈寺), v.v. Cuối cùng ông đến tham vấn Nguyên Tẩu Hành Đoan (元叟行端) ở Kính Sơn và kế thừa dòng pháp của vị này. Vào mùa đông năm đầu (1324) niên hiệu Thái Định (泰定), thể theo lời thỉnh cầu ông đến trú trì Phước Trăn Tự (福臻寺) ở Hải Diêm, rồi đến ngày mồng 3 tháng 2 năm đầu (1328) niên hiệu Thiên Lịch (天曆) đến Thiên Ninh Vĩnh Tộ Tự (天寧永祚寺), ngày 25 tháng 7 năm đầu niên hiệu Chí Nguyên (至元) đến Đại Báo Quốc Tự (大報國寺) ở Lộ Phụng Sơn (路鳳山), Hàng Châu (杭州), và ngày mồng 8 tháng 8 năm thứ 4 (1344) niên hiệu Chí Chánh (至正) đến Bổn Giác Tự (本覺寺) ở Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Triết Giang). Sau đó, ông nhận sắc chỉ được ban tặng hiệu Phật Nhật Phổ Chiếu Huệ Biện Thiền Sư (佛日普照慧辯禪師). Ngoài ra, vào ngày mồng 1 tháng 8 năm thứ 17 cùng niên hiệu trên, ông đến sống ở Báo Ân Quang Hiếu Tự (報恩光孝寺), rồi trở về lại Thiên Ninh Vĩnh Tộ Tự. Đến năm thứ 19 (1359) niên hiệu Chí Chánh, ông xây dựng một ngôi chùa ở phía tây Thiên Ninh Tự, đặt tên là Tây Trai Tự (西齋寺) và lui về đó ẩn cư. Sau đó, ông phụng chiếu khai đường thuyết pháp ở Tương Sơn Tự (蔣山寺), Kim Lăng (金陵). Ông có mối thâm giao với Tống Cảnh Liêm (宋景濂). Vào ngày 26 tháng 7 năm thứ 3 niên hiệu Hồng Võ (洪武), ông thị tịch, hưởng thọ 75 tuổi đời và 63 hạ lạp. Ông có để lại một số trước tác như Tịnh Độ Thi (淨土詩), Từ Thị Thượng Sanh Kệ (慈氏上生偈), Bắc Du Tập (北遊集), Phụng Sơn Tập (鳳山集), Tây Trai Tập (西齋集), Hòa Thiên Thai Tam Thánh Thi (和天台三聖詩), Vĩnh Minh Thọ Thiền Sư Sơn Cư Thi (永明壽禪師山居詩), Đào Tiềm Thi (陶潛詩), Lâm Thông Thi (林通詩), v.v. Nhóm môn nhân Tổ Quang (祖光) của ông biên tập bộ Sở Thạch Phạm Kỳ Thiền Sư Ngữ Lục (楚石梵琦禪師語錄) 20 quyển, lại còn có Chí Nhân (至仁) soạn bản Sở Thạch Hòa Thượng Hành Trạng (楚石和尚行狀). Tống Cảnh Liêm soạn văn Phật Nhật Phổ Chiếu Huệ Biện Thiền Sư Tháp Minh (佛日普照慧辯禪師塔銘).
(三祇, Sangi): hay còn gọi là Tam A Tăng Kỳ Kiếp (三阿僧祇劫), Tam Đại A Tăng Kỳ Kiếp (三大阿僧祇劫), Tam Đại Tăng Kỳ (三大僧祇). A Tăng Kỳ Kiếp (s: asaṅkhyeya-kalpa, p: asaṅkheyya-kappa, 阿僧祇劫) có nghĩa là số lượng kiếp (thời gian vĩnh hằng) quá lớn đến nỗi không thể nào đếm được, và gấp lên ba lần như vậy được gọi là Tam A Tăng Kỳ Kiếp. Vị Bồ Tát từ khi bắt đầu phát tâm bồ đề cho đến khi thành Phật cần phải trải qua tu hành trong khoảng thời gian Tam A Tăng Kỳ Bách Đại Kiếp (三阿僧祇百大劫, tức ba kỳ và trăm kiếp lớn). Vị Bồ Tát đang tu hành 50 vị, trong A Tăng Kỳ Kiếp đầu tiên, cần phải tu tập 40 vị gồm Thập Tín (十信), Thập Hạnh (十行), Thập Trụ (十住), Thập Hồi Hướng (十回向); trong A Tăng Kỳ Kiếp thứ hai thì cần tu từ Sơ Địa cho đến Địa Thứ Bảy trong Thập Địa (十地); trong A Tăng Kỳ Kiếp thứ ba thì cần tu từ Địa Thứ Tám cho đến Địa Thứ Mười. Sau khi tu hạnh Ba La Mật trãi qua Ba A Tăng Kỳ Kiếp, trong thời gian trăm đại kiếp, vị Bồ Tát cần phải tu hành thêm nữa để đạt đến 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh (佛說阿彌陀經, Taishō No. 366) có giải thích về vị giáo chủ cõi Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂) như sau: “Hựu Xá Lợi Phất ! Bỉ Phật thọ mạng cập kỳ nhân dân, vô lượng vô biên A Tăng Kỳ Kiếp, cố danh A Di Đà (又舍利弗、彼佛壽命及其人民、無量無邊阿僧祇劫、故名阿彌陀, Lại nữa Xá Lợi Phất ! Thọ mạng và nhân dân của đức Phật kia vô lượng vô biên không thể tính đếm được, nên được gọi là A Di Đà).” Hay như trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) có đoạn: “A Tăng Kỳ Kiếp giả, tức Tam Độc tâm dã, cố ngôn A Tăng Kỳ; Hán danh bất khả số; thử Tam Độc tâm, ư trung hữu Hằng sa ác niệm, ư nhất nhất niệm trung, giai vi nhất thiết, như thị Hằng sa bất khả số dã; cố ngôn Tam Đại A Tăng Kỳ; chơn như chi tánh, ký bị Tam Độc chi sở phú cái; nhược bất siêu bỉ tam đại Hằng sa độc ác chi tâm, vân hà danh vi giải thoát (阿僧祇劫者、卽三毒心也、胡言阿僧祇、漢名不可數、此三毒心、於中有恆沙惡念、於一一念中、皆爲一劫、如是恆沙不可數也、故言三大阿僧祇、眞如之性、旣被三毒之所覆蓋、若不超彼三大恆沙毒惡之心、云何名爲解脫, A Tăng Kỳ Kiếp tức là tâm có Ba Độc; nên gọi là A Tăng Kỳ; Tàu gọi là không thể tính đếm được; tâm có Ba Độc này, trong đó có niệm ác nhiều như sông Hằng; trong mỗi một niệm đều có tất cả, như vậy cát sông Hằng không thể nào tính đếm được; nên có tên là Ba A Tăng Kỳ Kiếp Lớn; tánh của chơn như, đã bị Ba Độc che lấp, nếu không vượt qua tâm ác độc lớn như cát sông Hằng, thế nào gọi là giải thoát đây).”
(僧綱): tên gọi một chức tăng quan chuyên giám sát quy luật của tăng ni cũng như quản lý ngôi chùa lớn nổi tiếng. Ở Trung Quốc một số danh xưng khác được dùng như Sa Môn Thống (沙門統), Tăng Thống (僧統), Tăng Chánh (僧正), Tăng Chủ (僧主), v.v.; riêng ở Nhật Bản thì chia thành Tam Cang gồm Tăng Chánh (僧正), Tăng Đô (僧都) và Luật Sư (律師).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập