Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Sát Na »»
(s: ālaya-vijñāna, p: ālaya-viññāṇa, j: arayashiki, 阿賴耶識): từ hợp thành bởi âm tả ālaya và âm dịch vijñāna, còn gọi là A Lê Da Thức (阿黎耶識), được dịch là Tạng Thức (藏識). Theo giáo nghĩa độc đáo của Duy Thức Pháp Tướng Tông, nó được xếp vào hàng thứ tám trong 8 thức (Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, Mạt Na và A Lại Da Thức), là thức có căn bản của tồn tại cá nhân. Từ ālaya có nghĩa là nơi chốn, chổ ở, vì nó là nơi chứa đựng chủng tử của tất cả các pháp, nên được gọi là Tạng Thức. Từ điểm này, nó còn được gọi là Nhất Thiết Chủng Tử Thức (一切種子識, thức chứa đựng hết thảy chủng tử). Từ chủng tử ấy, A Lại Da Thức sanh khởi các pháp của thế giới hiện tượng (hiện hành pháp [現行法]), rồi các pháp này lại tạo ấn tượng (huân tập) cho A Lại Da Thức để hình thành nên chủng tử và tương tục sanh diệt trong từng Sát Na. Với tư cách là trung tâm của tồn tại cá nhân, thức này có đẩy đủ các cơ năng đa dạng và tùy theo cơ năng của nó mà có nhiều tên gọi khác. Từ điểm sanh khởi làm quả báo của nghiệp quá khứ (dị thục [異熟]), nó được gọi là Dị Thục Thức (異熟識); từ điểm là cơ sở sanh ra các thức khác, nó có tên là Căn Bản Thức (根本識); hay từ điểm duy trì cơ quan của thân tâm, nó là A Đà Na Thức (s: ādāna-vijñāna, 阿陀那識, tức Duy Trì Thức [維持識]). Duy Thức Pháp Tướng Tông thuyết về triết học duy tâm cho rằng vạn hữu vốn duyên khởi từ A Lại Da Thức. Thức này là chủ tể của thế giới mê muội, nhưng các pháp giác ngộ cũng hình thành nhờ nó. Chính vì vậy, đã nảy sinh luận tranh cho rằng đời sau bản chất của A Lại Da Thức sẽ là chơn thức trong sạch hay vọng thức nhơ nhớp.
(s: Kāśyapīya, 飲光部): âm dịch là Ca Diếp Di Bộ (迦葉遺部), Ca Diếp Duy Bộ (迦葉維部), còn gọi là Ẩm Quang Đệ Tử Bộ (飲光弟子部), Thiện Tuế Bộ (善歳部), là một trong 20 bộ phái của Phật Giáo Tiểu Thừa. Khoảng 300 năm sau khi đức Phật nhập diệt, bộ phái này tách riêng ra từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, 說一切有部) và tổ sáng lập là Ca Diếp Ba (s: Kāśyapa, 迦葉波). Theo truyện cho biết, ngày xưa có một vị tiên nhân, thân có ánh sáng chói lọi, có thể uống các thứ ánh sáng, làm cho không hiện hình, cho nên có tên là Ẩm Quang Tiên Nhân (飲光仙人, Tiên Nhân Uống Ánh Sáng). Bộ phái này chủ trương rằng tất cảc các hành đều diệt trong khoảnh khắc của Sát Na; cho rằng phiền não chưa đoạn, nghiệp quả chưa chín muồi, tức quá khứ có hình thể; cho nên nếu đã chặt đứt hết phiền não, nghiệp quả đã thật sự chín muồi thì hình thể quá khứ không còn nữa. Luật truyền thừa của họ là Giải Thoát Giới Kinh (解脫戒經).
(倶舍宗, Gusha-shū): tên gọi của một tông phái lớn trong 8 tông phái ở Trung Quốc và trong 6 tông lớn của Phật Giáo vùng Nam Đô, Nhật Bản. Tại Ấn Độ, người ta chia thành 18 bộ phái của Phật Giáo Thượng Tọa Bộ (xưa gọi là Tiểu Thừa). Lần đầu tiên sau khi đức Phật diệt độ được 400 năm, thể theo lời thỉnh cầu của vua Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦王) của vương quốc Kiện Đà La (s, p: Gandhāra, 健駄羅), 500 vị A La Hán đã tiến hành kết tập bộ Đại Tỳ Bà Sa Luận (s: Abhidharma-mahāvibhāṣa-śāstra, 大毘婆沙論), 200 quyển; cho nên trong số 18 bộ phái ấy, tông nghĩa của Tát Bà Đa Bộ (薩婆多部, tức Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ [s: Sarvāstivādin, p: Sabbatthivādin, 說一切有部]) được thành lập. Bộ luận này theo nghĩa của Lục Túc Luận (s: Śaḍpadaśāstra, 六足論) để giải thích về Phát Trí Luận (s: Abhidharma-jñāna-prasthāna, 發智論), vì vậy giáo nghĩa của Tát Bà Đa Bộ đều tập trung vào bộ luận này. Trải qua 500 năm sau, Bồ Tát Thế Thân (s, p: Vasubandhu, 世親) xuất hiện, đầu tiên xuất gia tu tập theo Tát Bà Đa Bộ (薩婆多部), học tông nghĩa của bộ phái này, rồi sau đó học giáo lý của Kinh Lượng Bộ (s: Sautrāntika, 經量部), nhưng có điều không hài lòng về tông này, nên ông đã y cứ vào bộ Đại Tỳ Bà Sa Luận mà trước tác ra bộ Câu Xá Luận (s: Abhidharmakośa-bhāṣya, 倶舍論). Trong mỗi phần ông đều lấy ý của Kinh Lượng Bộ để đả phá giáo thuyết của Tát Bà Đa Bộ. Vì vậy, từ đó ông đã tách riêng ra khỏi 18 bộ phái trên. Tại Ấn Độ, bộ luận này được gọi là Thông Minh Luận (聰明論), tất cả mọi người trong và ngoài tông phái đều học cả. Kể từ khi Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) nhà Tùy bên Trung Quốc dịch bộ này sang Hán ngữ vào năm thứ 4 (563) niên hiệu Thiên Gia (天嘉), người ta bắt đầu nghiên cứu về nó. Kế đến, Huyền Trang (玄奘, 602-664) nhà Đường lại dịch Câu Xá Luận lần thứ hai vào năm thứ 5 (654) niên hiệu Vĩnh Huy, rồi các môn nhân của ông như Thần Thái (神泰), Phổ Quang (普光), Pháp Bảo (法寳) đã chú sớ cho bộ này. Từ đó Câu Xá Tông bắt đầu hưng thạnh ở Trung Quốc. Tại Nhật Bản, tông này được Đạo Chiêu (道昭, Dōshō, 629-700) truyền vào cùng với Pháp Tướng Tông. Vị này sang nhà Đường cầu pháp vào năm thứ 4 (653) niên hiệu Bạch Trỉ (白雉), theo hầu Huyền Trang và trở về nước vào năm thứ 7 (661) đời Tề Minh Thiên Hoàng (齊明天皇, Saimei Tennō, tại vị 655-661). Ông được xem như là người đầu tiên truyền bá Câu Xá Tông vào Nhật. Tiếp theo, có Trí Thông (智通, Chitsū, ?-?), Trí Đạt (智達, Chitatsu, ?-?), hai người sang nhà Đường vào năm thứ 4 (658) đời Tề Minh Thiên Hoàng, cũng như Huyền Phưởng (玄昉, Gembō, ?-746), vị tăng sang cầu pháp vào năm đầu (717) niên hiệu Dưỡng Lão (養老), đều có truyền tông này vào Nhật. Trong bản Tả Kinh Sở Khải (冩經所啓) ghi ngày mồng 8 tháng 7 năm thứ 12 (740) niên hiệu Thiên Bình (天平) còn lưu lại trong Chánh Thương Viện Văn Khố (正倉院文庫), ta thấy có ghi “Câu Xá Tông 30 quyển”; như vậy sách mà Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch ra đã được bắt đầu nghiên cứu từ khoảng thời gian này. Tên gọi Câu Xá Tông cũng được tìm thấy lần đầu tiên trong bản Tăng Trí Cảnh Chương Sớ Phụng Thỉnh Khải (僧智憬章疏奉請啓). Vì Câu Xá Tông được xem giống như Tát Bà Đa Tông vốn được tìm thấy trong bản Lục Tông Trù Tử Trương (六宗厨子張) ghi ngày 18 tháng 3 nhuận năm thứ 3 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寳), có thể sự thành lập của học phái này là trong khoảng thời gian năm thứ 3 hay 4 của niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo. Kế đến, trong phần quy định về số người được xuất gia và tu học mỗi năm của các tông phái như trong bức công văn của quan Thái Chính ghi ngày 26 tháng giêng năm thứ 25 (806) niên hiệu Diên Lịch (延曆), ta thấy có quy định Pháp Tướng Tông là 3 người, 2 người đọc Duy Thức Luận (s: Vijñānamātrasiddhi-śāstra, 唯識論) và 1 người đọc về Câu Xá Luận (s: Abhidharmakośa-bhāṣya, 倶舍論); như vậy ta biết được rằng lúc bấy giờ Câu Xá Tông vẫn là tông phái phụ thuộc vào Pháp Tướng Tông. Giáo nghĩa của tông này phân tích các pháp thành 5 vị và 75 pháp, công nhận tính thực tại của các pháp ấy, chủ trương rằng thế giới được thành lập dựa trên các pháp đó và con người tồn tại trong vòng luân hồi đau khổ, vì vậy cần phải đoạn diệt phiền não căn bản và chứng đạt Vô Dư Y Niết Bàn. Cũng giống như Pháp Tướng Tông, tông này cũng chia thành 2 phái là Bắc Tự Truyền (北寺傳) và Nam Tự Truyền (南寺傳). Phái Nam Tự Truyền thì chủ trương thuyết Dụng Diệt (用滅), nghĩa là các pháp hoại diệt nhưng thật thể của chúng vẫn tồn tại và cái tiêu diệt chính là tác dụng. Phái Bắc Tự Truyền đứng trên lập trường của thuyết Thể Diệt (体滅), tức là các pháp sanh khởi nhờ duyên và thật thể của chúng tiêu diệt theo từng Sát Na.
(大圓境智): hay Đại Viên Kính Trí (s: ādarśa-jñāna, 大圓鏡智), một trong 4 Trí (Đại Viên Kính Trí [大圓鏡智], Bình Đẳng Tánh Trí [平等性智], Diệu Quan Sát Trí [妙觀察智] và Thành Sở Tác Trí [成所作智]) của đức Phật, chỉ trí tuệ của đức Phật có thể ánh hiện một cách như thật tất cả các pháp. Giống như cái gương tròn, lớn, loại trí tuệ này trong sạch, tròn đầy, có thể phản chiếu tất cả hình tượng; Mật Giáo gọi nó là Kim Cang Trí (金剛智). Theo Duy Thức Tông, sau khi thành Phật, phiền não chuyển biến thành trí tuệ. Trí tuệ Phật này được chia thành 4 loại, trong đó, loại thứ tư (tức A Lại Da Thức [s: ālaya-vijñāna, p: ālaya-viññāṇa, 阿賴耶識]) sẽ chuyển biến thành Thanh Tịnh Trí, tức Đại Viên Kính Trí này. Trong Bát Thức Quy Cũ Tụng (八識規矩頌) có giải thích rằng: “Nhất Sát Na gian, vĩnh đoạn thế gian nhị chướng chủng tử, chuyển Đệ Bát Thức thành Đại Viên Kính Trí, thử thời xả khứ Dị Thục chi danh, nhi xưng vi A Đà Na Thức (一剎那間、永斷世間二障種子、轉第八識成大圓鏡智、此時捨去異熟之名、而稱爲阿陀那識, trong khoảng Sát Na, mãi đoạn các hạt giống của hai chướng ngại trên đời, chuyển Thức Thứ Tám thành Đại Viên Kính Trí; lúc bấy giờ bỏ đi tên gọi Dị Thục, mà gọi là A Đà Na Thức).” Hay như trong Nhân Thiên Nhãn Mục (人天眼目) quyển 5 cũng có đoạn: “Phật chuyển Bát Thức nhi thành Tứ Trí giả, dụng bát vi Đại Viên Kính Trí, thất vi Bình Đẳng Tánh Trí, lục vi Diệu Quan Sát Trí, tiền ngũ vi Thành Sở Tác Trí (佛轉八識而成四智者、用八爲大圓鏡智、七爲平等性智、六爲妙觀察智、前五爲成所作智, Phật chuyển Tám Thức thành Bốn Trí; dùng Thức Thứ Tám làm Đại Viên Kính Trí, Thức Thứ Bảy làm Bình Đẳng Tánh Trí, Thức Thứ Sáu làm Diệu Quan Sát Trí, và năm thức trước làm Thành Sở Tác Trí).”
(銀閣寺, Ginkaku-ji): ngôi chùa của Phái Tướng Quốc Tự (相國寺派) thuộc Lâm Tế Tông, hiện tọa lạc tại Ginkakuji-chō (銀閣寺町), Sakyō-ku (左京區), Kyōto-shi (京都市); hiệu là Đông Sơn Từ Chiếu Tự (東山慈照寺), tên thường gọi là Ngân Các Tự. Tượng thờ chính là Thích Ca Như Lai. Vị Tướng Quân đời thứ 8 của dòng họ Túc Lợi là Nghĩa Chính (義政, Yoshimasa) đã bỏ công trong vòng 10 năm trường từ năm 1482 (Văn Minh [文明] 14) để xây dựng nên chùa này. Từ đó, chùa được lấy tên theo hiệu của Nghĩa Chính là Từ Chiếu Tự (慈照寺). Nghĩa Chính vô cùng yêu thích ngôi Tây Phương Tự (西芳寺) do Mộng Song Quốc Sư (夢窻國師) sáng lập ra, mới bắt chước các kiến trúc của Tây Lai Đường (西來堂), Đông Am (東庵), Lưu Ly Điện (瑠璃殿), Ngao Nguyệt Kiều (遨月橋) của chùa này, mà tạo nên Đông Cầu Đường (東求堂), Tây Chỉ Am (西指庵), Quan Âm Điện (觀音殿), Long Bối Kiều (龍背橋). Nghĩa Chính cũng thỉnh thoảng đến chơi Kim Các Tự (金閣寺, Kinkaku-ji), nhưng rõ ràng Ngân Các Tự không thể nào sánh bằng chùa này được. Đối xứng với sự sáng lạn của vương triều Bình An thông qua Kim Các Tự, Ngân Các Tự thể hiện sự thâm u, nghiêm tịnh của Thiền. Tuy nhiên, khi tiếp xúc trực tiếp với ngôi bảo sát này, ta thấy chùa có vẻ đẹp tuyệt trần qua làn cát trắng phản chiếu; còn phía trước Hướng Nguyệt Đài (向月台) có khu vườn hồ nhân tạo nhưng rất hữu tình. Còn Đông Cầu Đường, nơi được xem như là thư phòng của Nghĩa Chính, và Quan Âm Điện, tuy là quy mô nhỏ, nhưng cho đến nay vẫn còn truyền đạt cho chúng ta biết được tính mỹ thuật cũng như tính thoát tục của Nghĩa Chính. Cả hai đều được xếp vào hạng quốc bảo.
(五山十刹, Gozanjussatsu): là tên gọi mà chính phủ sắp theo thứ tự những ngôi tự viện Thiền tiêu biểu, còn vị trú trì sẽ được chọn các vị cao tăng trên toàn quốc đến đảm nhiệm những ngôi chùa này. Các tự viện được liệt vào loại này sẽ được chính phủ công nhận quyền uy của mình, có nghĩa vụ phụng sự cho quốc gia thông qua các lễ như Chúc Thánh, v.v., với tư cách là chùa quan, và thậm chí có khi tình hình tu tập hằng ngày trong chùa còn được giám sát. Tuy nhiên, cũng do vì có liên quan đến việc cầu đảo cho quốc gia, cũng có trường hợp những ngôi chùa quan này được miễn thuế, nhưng mối quan hệ giữa quốc gia và các chùa quan này thì không rõ ràng cho lắm. Ngũ Sơn gồm có 5 chùa lớn là:
(1) Kính Sơn Hưng Thánh Vạn Thọ Tự (徑山興聖萬壽寺, thuộc Phủ Lâm An, Hàng Châu, Tỉnh Triết Giang),
(2) Bắc Sơn Cảnh Đức Linh Ẩn Tự (北山景德靈隱寺, như trên),
(3) Nam Sơn Tịnh Từ Báo Ân Quang Hiếu Tự (南山淨慈報恩光孝寺, như trên),
(4) Thái Bạch Sơn Thiên Đồng Cảnh Đức Tự (太白山天童景德寺, thuộc Phủ Khánh Nguyên, Minh Châu, Tỉnh Triết Giang), và
(5) A Dục Vương Sơn Mậu Phong Quảng Lợi Tự (阿育王山鄮峰廣利寺, như trên).
Thập Sát gồm 10 ngôi chùa là:
(1) Trung Sơn Thiên Ninh Vạn Thọ Vĩnh Tộ Tự (中山天寧萬壽永祚寺, thuộc Phủ Lâm An, Hàng Châu),
(2) Đạo Tràng Sơn Hộ Thánh Vạn Thọ Tự (道塲山護聖萬壽寺, thuộc Huyện Ô Trình, Hồ Châu, Tỉnh Triết Giang),
(3) Tương Sơn Thái Bình Hưng Quốc Tự (蔣山太平興國寺, thuộc Phủ Thượng Nguyên, Kiến Khang, Tỉnh Giang Tô),
(4) Vạn Thọ Sơn Báo Ân Quang Hiếu Tự (萬壽山報恩光孝寺, thuộc Phủ Bình Giang, Tô Châu, Tỉnh Giang Tô),
(5) Tuyết Đậu Sơn Tư Thánh Tự (雪竇山資聖寺, thuộc Phủ Khánh Nguyên, Minh Châu),
(6) Giang Tâm Sơn Long Tường Tự (江心山龍翔寺, thuộc Huyện Vĩnh Gia, Ôn Châu, Tỉnh Triết Giang),
(7) Tuyết Phong Sơn Sùng Thánh Tự (雪峰山崇聖寺, thuộc Huyện Hầu Quan, Phúc Châu, Tỉnh Phúc Kiến),
(8) Vân Hoàng Sơn Bảo Lâm Tự (雲黃山寳林寺, thuộc Huyện Kim Hoa, Vụ Châu, Tỉnh Triết Giang),
(9) Hổ Kheo Sơn Vân Nham Tự (虎丘山雲巖寺, thuộc Phủ Bình Giang, Tô Châu), và
(10) Thiên Thai Sơn Quốc Thanh Kính Trung Tự (天台山國清敬忠寺, thuộc Huyện Thiên Thai, Đài Châu, Tỉnh Triết Giang).
Chế độ này cũng được kế thừa cho đến thời nhà Nguyên, nhưng vào năm 1330 vua Tok Temru (tức Văn Tông, tại vị 1329-1332) đã bỏ ly cung của mình ở ngoại ô Kim Lăng (金陵) mà biến nơi đây thành Đại Long Tường Tập Khánh Tự (大龍翔集慶寺), thỉnh Tiếu Ẩn Đại Hân (笑隱大訢) đến làm tổ khai sơn chùa này và xếp nó lên trên cả Ngũ Sơn. Đến thời nhà Minh, chỉ có ngôi chùa này được đổi tên thành Thiên Giới Thiện Thế Thiền Tự (天界善世禪寺), và thể chế này vẫn được tiếp tục duy trì. Dưới chế độ Ngũ Sơn Thập Sát này còn có các ngôi chùa gọi là Giáp Sát (甲刹, tương đương với những ngôi chùa tổ trung tâm ở Nhật). Sau này ở Nhật người ta cũng mô phỏng theo hình thức này và Ngũ Sơn ở hai vùng kinh đô Kyoto cũng như Liêm Thương đã được liệt vào. Cùng với sự chỉnh bị về chế độ các ngôi chùa quan, nghi thức Bỉnh Phất (秉拂) để trắc nghiệm tư cách trở thành trú trì cũng được quy định rõ rệt, và việc tiến cử trú trì cũng theo thứ tự từ các ngôi chùa Giáp Sát cho đến Thập Sát và Ngũ Sơn.
(關煞): là dụng ngữ thuật số, ngày xưa nhà Tinh Số (chiêm tinh gia bói toán về số mạng con người) cho rằng con người gặp tai nạn do vận mạng quyết định, đó là “Quan Sát”. Con người cho rằng các em nhỏ khi chưa đến tuổi thành niên, thường gặp 36 Quan Sát và 72 sao Thiên Cương (天罡), dễ sanh nhiều bệnh tật, tai họa và chết yểu. 36 Quan Sát gồm:
(1) Thiên Nhật Quan (千日關), người sanh ở tuổi Dần, Thân, Tỵ thuộc năm Ngọ, sự tai họa rơi từ trên cao xuống, sanh ra trong vòng 1.000 ngày không nên đến nhà thờ thần linh của bà ngoại, không nên ngồi xe đi phương xa, chủ yếu bị bệnh kinh phong, nôn ọe sữa, không phạm những điều trên thì sẽ bảo đảm bình an;
(2) Lôi Công Quan (雷公關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Ngọ; ngày Ất, Mậu gặp giờ Tuất; ngày Bính, Đinh, Nhâm, Quý gặp giờ Tý; ngày Canh, Tân gặp giờ Dần, khi nghe tiếng sấm sét, tiếng trống đánh, chớ đến gần giếng nước, hay đồ vật bằng sắt, đề phòng ngồi cao té ngã, em bé vui đùa bò lên cao, như vậy sẽ nguy hiểm, chớ ẵm bé lên chỗ cao đùa giỡn, vậy mới bảo đảm bình an;
(3) Lạc Tỉnh Quan (落井關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Tỵ; sanh ngày Ất, Canh gặp giờ Tý; sanh ngày Bính, Tân gặp giờ Thân; sanh ngày Đinh, Nhâm gặp giờ Tuất, chớ đến gần bên giếng, bên sông, nước, đi thuyền bè, đến chơi nơi chỗ nào có huyệt động sâu đều nguy hiểm, có tai họa về nước, chủ yếu chớ nên gần;
(4) Kê Phi Quan (雞飛關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Tỵ, Dậu, Sửu; sanh ngày Ất, Bính, Đinh, Tuất gặp giờ Tý; ngày Canh gặp giờ Hợi, Mão, Mùi; ngày Tân, Nhâm, Quý gặp giờ Dần, Ngọ, Tuất, tránh nhìn thấy sát sanh, giết hại gà, vịt, cá thì sợ, đề phòng bệnh kinh phong khi gà bay qua quá đầu và mổ lên đầu, cần phải thận trọng thì sẽ tránh được chuyện không hay;
(5) Thủ Mạng Quan (取命關), là những người sanh ngày Giáp, Ất, Bính, Đinh gặp giờ Thân, Tý, Thìn; ngày Mậu, Kỷ, Canh gặp giờ Hợi, Mão, Mùi; ngày Tân, Nhâm, Quý gặp giờ Dần, Ngọ, Tuất, đề phòng chỗ cao nguy hiểm, chớ nhìn người mất hung dữ, không nên đến gần nơi tang lễ, những đền miếu mới xây, đàn tràng Giải Oan Bạt Độ vào dịp Trung Nguyên;
(6) Bạch Hổ Quan (白虎關), là những người sanh năm Kim gặp giờ Mão, Tuất; năm Mộc gặp giờ Thìn, Dậu; năm Hỏa gặp giờ Tý, Mùi, Thân; năm Thủy, Thổ gặp giờ Sửu, Dần, Ngọ, suốt đời nhiều tai hoạn máu me, đề phòng mất chân, phải nên thận trọng ở những chỗ cao nguy hiểm, đối với mạng người nữ cần phải rất thận trọng khi sinh đẻ, để tránh mất mác cả mẹ lẫn con, coi chừng bị bệnh sởi, đậu mùa;
(7) Thiết Xà Quan (鐵蛇關), là những người sanh năm Kim gặp giờ Mão, Tuất; năm Mộc gặp giờ Dậu, Thìn; năm Hỏa gặp giờ Sửu, Dần, Ngọ, ngựa đi trên đường cần phải thận trọng, chớ đến gần để tránh nguy hiểm, coi chừng phát sinh bệnh sởi, đậu mùa, dễ bị động vật cắn;
(8) Đoạn Trường Quan (斷膓關), là những người sanh ngày Giáp, Ất gặp giờ Ngọ, Mùi; ngày Bính, Đinh gặp giờ Thìn, Tỵ; ngày Mậu gặp giờ Ngọ; ngày Kỷ gặp giờ Mùi; ngày Canh, Tân gặp giờ Dần; ngày Nhâm, Quý gặp giờ Sửu, kỵ nhìn thấy giết heo, dê, chớ vào chỗ đồ tể;
(9) Đoản Mạng Quan (短命關), là những người sanh năm Thân, Tý, Thìn gặp giờ Tỵ; năm Tỵ, Dậu, Sửu gặp giờ Dần; năm Dần, Ngọ, Tuất gặp giờ Thìn; năm Hợi, Mão, Mùi gặp giờ Mùi, đề phòng nói lảm nhảm buổi tối, hay kinh sợ;
(10) Hòa Thượng Quan (和尚關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu; năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi gặp giờ Dần, Thân, Tỵ, Hợi, chớ vào các đàn tràng cúng chay (trai đàn), không nên vào nhà đám ma, chớ vào chùa gặp Hòa Thượng, tăng ni, nếu không lưu tâm sẽ bị tai ương một đời, nên tránh không nên theo mẹ vào đền miếu dâng hương;
(11) Thiên Điếu Quan (天吊關), là những người sanh năm Thân, Tý, Thìn gặp giờ Tỵ, Ngọ; năm Tỵ, Dậu, Sửu gặp giờ Tý, Mão; năm Dần, Ngọ, Tuất gặp giờ Thìn, Ngọ; năm Hợi, Mão, Mùi gặp giờ Ngọ, Thân, qua núi qua sông bất lợi, đi đêm trên đường bất an, đồng thời có nhiều tai nạn cấp bách, họa hoạn;
(12) Dạ Đề Quan (夜啼關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Ngọ; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Dậu; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Tý; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Mão, ban đêm không nên ra ngoài du ngoạn, nhìn mặt trời lặn hướng Tây cũng không tốt, buổi tối không nên nhìn ánh sáng đèn để tránh con nít khóc nhè đêm;
(13) Mai Nhi Quan (埋兒關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Sửu; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp giờ Mão; năm Dần, Thân, Tỵ Hợi gặp giờ Thân, kỵ nhìn thấy nhập liệm, tống táng, khi nhỏ đã khó nuôi, nên lạy thần minh để xin làm con nuôi mới bảo toàn tánh mạng;
(14) Ngũ Quỷ Quan (五鬼關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Thìn; năm Sửu gặp giờ Mão; năm Dần gặp giờ Dần; năm Mão gặp giờ Sửu; năm Thìn gặp giờ Tý; năm Tỵ gặp giờ Hợi; năm Ngọ gặp giờ Tuất; năm Mùi gặp giờ Dậu; năm Thân gặp giờ Thân; năm Dậu gặp giờ Mùi; năm Tuất gặp giờ Ngọ, năm Hợi gặp giờ Tỵ, không nên đến gần đàn tràng Giải Oan Bạt Độ, nếu đến gần sẽ sanh tai tật, kỵ nhìn thấy gỗ làm quan tài, mộ địa;
(15) Thiên Cẩu Quan (天狗關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Tuất; năm Sửu gặp giờ Hợi; năm Dần gặp giờ Tý; năm Mão gặp giờ Sửu; năm Thìn gặp giờ Dần; năm Tỵ gặp giờ Mão; năm Ngọ gặp giờ Thìn; năm Mùi gặp giờ Tỵ; năm Thân gặp giờ Ngọ; năm Dậu gặp giờ Mùi; năm Tuất gặp giờ Thân; năm Hợi gặp giờ Dậu, Thiên Cẩu ăn mặt trời, không nên nhìn, sợ nghe tiếng chó sủa, em bé thường có khuôn mặt phá tướng, bị thương tích, sanh ra trong vòng 40 ngày, xuất hành đi xa không lợi, cũng không nên đi đêm, để bảo đảm một năm bốn mùa được bình an;
(16) Quỷ Môn Quan (鬼門關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Dậu; năm Sửu gặp giờ Ngọ; năm Dần gặp giờ Mùi; năm Mão gặp giờ Thân; năm Thìn gặp giờ Hợi; năm Tỵ gặp giờ Tuất; năm Ngọ gặp giờ Sửu; năm Mùi gặp giờ Dần; năm Thân gặp giờ Mão; năm Dậu gặp giờ Tý; năm Tuất gặp giờ Tỵ; năm Hợi gặp giờ Thìn, không thể đi xa, suốt đời nơi nào có miếu âm cung thì chớ nên vào, đồng thời cũng không nên vào nhà hung dữ;
(17) Chàng Mạng Quan (撞命關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Sửu; năm Sửu gặp giờ Mùi; năm Dần gặp giờ Tý; năm Mão gặp giờ Tỵ; năm Thìn gặp giờ Thìn; năm Tỵ gặp giờ Ngọ; năm Ngọ gặp giờ Ngọ; năm Mùi gặp giờ Sửu; năm Thân gặp giờ Ngọ; năm Dậu gặp giờ Dậu; năm Tuất gặp giờ Mùi; năm Hợi gặp giờ Hợi, khó nuôi con, thân thể suy nhược, nhiều bệnh, có hiện tượng chết yểu;
(18) Thang Hỏa Quan (湯火關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Ngọ; năm Sửu, Thân, Hợi gặp giờ Mùi; năm Dần gặp giờ Tỵ; năm Mão gặp giờ Tý; năm Ngọ, Dậu gặp giờ Dần, chủ yếu chú ý về lửa, nước nóng, dầu, không nên đến gần nhà bếp, rất dễ bị thương tích;
(19) Trực Nạn Quan (直難關), là những người sanh tháng Mão, Dần (1, 2) gặp giờ Ngọ; tháng Thìn, Tỵ (3, 4) gặp giờ Mùi; tháng Ngọ, Mùi (5, 6) gặp giờ Mão, Tuất; tháng Thân, Dậu (7, 8) gặp giờ Tỵ, Thân; tháng Tuất, Hợi (9, 10) gặp giờ Dần, Mão; tháng Tý, Sửu (11, 12) gặp giờ Thìn, Dậu, thận trọng đề phòng đao khí, vật bén nhọn làm tổn thương;
(20) Thâm Thủy Quan (深水關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Dần, Thân, chớ đến gần bên sông, hồ nước, đề phòng tai họa về nước, phạm cha mẹ đời trước, không lạy vào dịp Thanh Minh (清明, khoảng đầu tháng 3 Âm Lịch), Đoan Ngọ (端午, mồng 5 tháng 5 Âm Lịch), Thất Tịch (七夕, mồng 7 tháng 7 Âm Lịch), Trung Thu (中秋, rằm tháng 8 Âm Lịch);
(21) Đoạn Kiều Quan (斷橋關), là những người sanh tháng 1, 2 gặp giờ Dần, Mão, chớ qua cầu dài, thuyền nông, chớ đi thuyền qua cầu tre;
(22) Tứ Trụ Quan (四柱關), là những người sanh năm Tỵ, Hợi, tháng 1, 2 gặp giờ Thìn, Tỵ, chớ đến gần trước mặt công trình xây dựng, Động Thổ, kỵ ngồi xe con nít;
(23) Kim Tỏa Quan (金鎖關), là những người sanh tháng 1, 2 gặp giờ Thân, Mão; tháng 1, 7 gặp giờ Thân; tháng 2, 8 gặp giờ Dậu; tháng 3, 9 gặp giờ Tuất; tháng 4, 10 gặp giờ Hợi; tháng 5, 11 gặp giờ Tý; tháng 6, 12 gặp giờ Sửu, coi chừng dây tiền, mảnh sắt, vàng, đồng rơi vào miệng, hoặc sinh tật bệnh chết yểu;
(24) Bách Nhật Quan (百日關), là những người sanh tháng 1, 4, 7, 10 gặp giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; tháng 2, 5, 8, 11 gặp giờ Dần, Thân, Tỵ, Hợi; tháng 3, 6, 9, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu, sanh ra trong vòng 100 ngày, không nên đến nhà bà ngoại, sợ gặp tai họa, không nên ra khỏi nhà, kỵ đi xa, sợ trúng kinh phong;
(25) Vô Tình Quan (無情關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Tý, Dần, Dậu; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Tỵ, Tuất, Hợi; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Sửu, Thân; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, trong thời gian còn nhỏ ít nên đến nhà bà ngoại, tránh cho em nhỏ nhìn thấy người mài dao, nên lạy thần thánh làm cha nuôi, gọi cha mẹ là chú, cô, dì;
(26) Cấp Cước Quan (急腳關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Tý, Hợi; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Mão, Mùi; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Dần, Tuất; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Sửu, Thìn, chớ nên đi xa, chớ xem lễ Thượng Lương, Động Thổ, xây dựng;
(27) Dục Bồn Quan (浴盆關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Thân, ba buổi sáng kỵ tắm rửa thân thể, khi tắm rửa nên thận trọng;
(28) Tướng Quân Tiễn (將軍箭), là những người sanh năm Thìn, Dậu, Tuất gặp giờ Mùi, tất sẽ làm tổn thương người thân ruột thịt, không bắn người khác cũng như chính mình, chớ vào miếu thờ Tướng Quân;
(29) Huyết Quang Quan (血光關), là những người sanh vào giờ Sửu tháng 1, giờ Mùi tháng 2, giờ Dần tháng 3, giờ Thân tháng 4, giờ Mão tháng 5, giờ Dậu tháng 6, giờ Thìn tháng 7, giờ Tuất tháng 8, giờ Tỵ tháng 9, giờ Hợi tháng 10, giờ Ngọ tháng 11, giờ Tý tháng 12, dễ bị tai họa chảy máu, hay họa về xe và trúng thương tích, nên dùng tiền bổn mạng và tiền trị nguy hại về xe để khắc chế;
(30) Thủy Hỏa Quan (水火關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Mùi, Tuất; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Sửu, Thìn; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Dậu; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Sửu, chủ yếu chú ý về nước nóng, lửa, không nên đến gần nhà bếp, gần nước, lửa;
(31) Diêm Vương Quan (閻王關), là những người sanh tháng 7, 8, 9, 10, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, Dần, Mão; tháng 1, 2, 3 gặp giờ Sửu, Mùi; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Thìn, Tuất; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Tý, Ngọ; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Dần, Mão, không nên đến gần miếu âm cung, đền Thành Hoàng (城隍);
(32) Tứ Quý Quan (四季關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Sửu, Tỵ; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Thìn, Thân; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Hợi, Mùi; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Dần, Tuất, một đời nhiều bệnh, trước khí tiết của bốn mùa, chớ nên đi xa để đề phòng tai ương;
(33) Tứ Trụ Quan (四柱關), là những người sanh giờ Thìn, Tỵ, tháng 1, 2 thuộc năm Tỵ, Hợi, em nhỏ nếu phạm quan sát này, cha mẹ không sống lâu với mình, kỵ ngồi xe ngựa, lan can, ghế tre;
(34) Đa Ách Quan (多厄關), người nam sinh năm thuộc Kim, gặp tháng 5, 6; sinh năm thuộc Mộc, tháng 2, 3; sinh năm thuộc Thủy, tháng 8, 9; sinh năm thuộc Hỏa, tháng 11, 12; sinh năm thuộc Thổ, tháng 1, 4, phạm loại Quan Sát này; nữ sinh năm thuộc Kim, tháng 8, 9; sinh năm thuộc Mộc, tháng 11, 12; sinh năm thuộc Thủy, tháng 2, 3; sinh năm thuộc Hỏa, tháng 5, 6; sinh năm thuộc Thổ, tháng 1, 4, phạm loại Quan Sát này tai ách liên tục hằng năm;
(35) Kiếp Sát Quan (劫煞關), là những người sinh năm Thân, Tý Thìn, thuộc tháng 4; năm Tỵ Dậu, Sửu thuộc tháng 1; năm Dần, Ngọ, Tuất thuộc tháng 10; năm Hợi, Mão Mùi thuộc tháng 7, nên thận trọng đề phòng tiền tài hao tổn;
(36) Cơ Bại Quan (基敗關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 thuộc giờ Mùi, Tuất, Hợi; tháng 4, 5, 6 thuộc giờ Tý, Thìn, Tỵ; tháng 7, 8, 9 thuộc giờ Sửu, Thân, Dậu; tháng 10, 11, 12 thuộc giờ Dần, Mão, Ngọ, sau khi sinh ra, trạng huống thân thể khác lạ, khó nuôi, kỵ đào đất, nên lạy thần minh xin làm con nuôi, chú ý trị liệu về ruột, mới có thể chuyển nguy thành an.
Trong tác phẩm Dụ Thế Minh Ngôn (喻世明言) của Bằng Mộng Long (馮夢龍, 1574-1646) quyển 28 Lý Tú Khanh Nghĩa Kết Hoàng Trinh Nữ (李秀卿義結黃貞女) có câu: “Ấu niên gian đa nương dữ ngã toán mạng, thuyết hữu Quan Sát Nan dưỡng, vi thử xuyên phá lưỡng nhĩ (幼年間爹娘與我算命、說有關煞難養、爲此穿破兩耳, lúc còn nhỏ cha mẹ xem mạng số cho tôi, bảo rằng bị Quan Sát khó nuôi, vì đó mà phá lũng hai tai).”
(s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣): 12 loại nhân duyên sanh khởi, 12 điều kiện để cấu thành nên loại hữu tình, nói lên mối quan hệ nhân quả của cõi mê; còn gọi là Thập Nhị Chi Duyên Khởi (十二支緣起), Thập Nhị Nhân Duyên Khởi (十二因緣起), Thập Nhị Duyên Khởi (十二緣起), Thập Nhị Duyên Sanh (十二緣生), Thập Nhị Duyên Môn (十二緣門), Thập Nhị Nhân Sanh (十二因生), Thập Nhị Trùng Thành (十二重城), Thập Nhị Khiên Liên (十二牽連), Thập Nhị Luân Chuyển (十二輪轉), v.v. Theo Kinh A Hàm (阿含經), Thập Nhị Nhân Duyên là giáo nghĩa căn bản của Phật Giáo, gồm:
(1) Vô Minh (s: avidyā, p: avijjā, 無明), do vì căn bản của sự mê lầm là vô trí, nên không biết rõ thế giới quan cũng như nhân sinh quan đúng đắn của Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦), Nhân Duyên (因緣), v.v.
(2) Hành (s: saṁskāra, p: saṅkhāra, 行) là hạnh nghiệp, hành vi thiện ác sai lầm do vì Vô Minh, cũng như hành vi ấy được phản tỉnh và trở thành sức mạnh tập quán.
(3) Thức (s: vijñāna, p: viññāṇa, 識) là nhận thức sanh khởi trên cơ sở của Vô Minh và Hành, hay còn là thức thể có năng lực tập quán theo Vô Minh và Hành; đặc biệt nó còn chỉ cho Kiết Sanh Thức (結生識) trong Sát Na đầu tiên khi mới vào bào thai mẹ.
(4) Danh Sắc (s, p: nāma-rūpa, 名色), Danh là cái thuộc về tinh thần, Sắc là cái thuộc về vật chất; tức là các pháp thuộc về vật chất cũng như tinh thần với tư cách là sở duyên của Thức; gồm 6 cảnh là Sắc (色), Thanh (聲), Hương (香), Vị (味), Xúc (觸), Pháp (法).
(5) Lục Xứ (s: saḍ-āyatana, p: salāyatana, 六處, hay Lục Nhập [六入]), gồm 6 khí quan xúc lực của cảm giác và tri giác là Nhãn (眼, mắt), Nhĩ (耳, tai), Tỷ (鼻, mũi), Thiệt (舌, lưỡi), Thân (身), Ý (意).
(6) Xúc (s: sparśa, p: phassa, 觸) là sự hòa hợp, tiếp xúc của 3 yếu tố là thức thể, Sáu Căn và Sáu Xứ; nhờ yếu tố Xúc này mà tác dụng nhận thức có mặt.
(7) Thọ (s, p: vedanā, 受) là tác dụng cảm thọ sanh khởi từ Xúc; nguyên lai từ này có nghĩa là tác dụng của lãnh vực nhận thức.
(8) Ái (s: tṛṣṇā, p: taṇhā, 愛) là căn bản dục vọng làm sanh khát vọng yêu thương với niềm vui và chán ghét khổ đau.
(9) Thủ (s, p: upādāna, 取) là hành vi chọn lọc như bỏ những gì đau khổ và chọn lấy những gì ái lạc.
(10) Hữu (s, p: bhava, 有) là sức mạnh tập quán sinh khởi thông qua việc chọn lọc được lập đi lập lại nhiều lần; hay là sự tồn tại với tư cách là tính cách, nhân cách.
(11) Sanh (s, p: jāti, 生) là cái sanh ra, có đầy đủ tính cách của Hữu;
(12) Lão Tử (s, p: jarā-maraṇa, 老死), sau khi sinh khởi, có đủ loại kinh nghiệm nhận thức và thọ nhận sự khổ đau, phiền não của già, chết.
Bên cạnh đó, xưa nay Thập Nhị Nhân Duyên được thuyết với tính cách nhân quả lưỡng trùng và có tên là Nghiệp Cảm Duyên Khởi (業感緣起). Trong đó, thực chất Vô Minh, Hành—2 nhân của quá khứ—không khác gì với Ái, Thủ, Hữu—3 nhân của hiện tại; Thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ—5 quả của hiện tại—cũng chẳng khác gì Sanh, Lão Tử—2 quả của tương lai; chỉ khác nhau qua tên gọi mà thôi, và tất cả đều sanh khởi trong một tâm. Hơn nữa, trong Đại Thừa có lập ra Ba Thừa, Thanh Văn Thừa (聲聞乘) thì ngộ nhờ lý Tứ Đế, Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, āryāṣṭāṇgika-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道); Duyên Giác Thừa (緣覺乘) thì quán Thập Nhị Nhân Duyên để khai ngộ; Bồ Tát Thừa (菩薩乘) thì thực hành Lục Độ Ba La Mật (六度波羅蜜) để thành Phật. Thuyết Duyên Khởi thông cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, là tư tưởng căn bản của Phật Giáo. Tuy nhiên, thuyết này không những được xem như là mối quan hệ nhân quả về mặt thời gian như Nghiệp Cảm Duyên Khởi, mà còn là mối quan hệ luận lý tương quan tương duyên lẫn nhau. Trong Hòa Hán Lãng Vịnh Tập (和漢朗詠集) quyển hạ có câu: “Tam thiên thế giới nhãn thiền tận, Thập Nhị Nhân Duyên tâm lí không (三千世界眼前盡、十二因緣心裏空, Ba ngàn thế giới trước mắt sạch, Mười Hai Nhân Duyên trong tâm không).”
(淨侶): chỉ cho chư tăng thanh tịnh. Như trong Vĩnh Giác Nguyên Hiền Thiền Sư Quảng Lục (永覺元賢禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1437) quyển 17, phần La Sơn Pháp Hải Tự Tu Tịnh Độ Sám Sớ (羅山法海寺修淨土懺疏), có đoạn: “Tư La Sơn Pháp Hải Tự nhĩ Hòa Thượng nhân, nãi kết chư tịnh lữ, đồng tu thử pháp, phổ vị Tứ Ân Tam Hữu, bố Tịnh Độ chi nhân, tác vãng sanh chi duyên (茲羅山法海寺爾和上人、乃結諸淨侶、同修此法、普爲四恩三有、布淨土之因、作往生之緣, nay Hòa Thượng ấy ở Chùa Pháp Hải, La Sơn, bèn kết chúng tăng thanh tịnh, cùng tu pháp này, khắp vì Bốn Ơn Ba Loại, rãi Tịnh Độ giống nhân, gieo vãng sanh duyên lành).” Hay trong Lễ Niệm Di Đà Đạo Tràng Sám Pháp (禮念彌陀道塲懺法, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1467) quyển 2 cũng có đoạn: “Thử phương sanh duyên ký tạ, bỉ giới diệu cảnh tức hiện, tường vân hậu phủng, tịnh lữ tiền nghênh, Sát Na khoảnh tức đắc vãng sanh, Tăng Kỳ kiếp thường cư An Dưỡng (此方生緣旣謝、彼界妙境卽現、祥雲後捧、淨侶前迎、剎那頃卽得往生、僧祇劫常居安養, phương này sanh duyên đã tạ, cõi kia cảnh lạ hiện ra, mây lành nâng đón, tăng chúng đón nghinh, Sát Na khoảnh khắc được vãng sanh, vô lượng kiếp thường sống An Dưỡng).”
(宗猷寺, Sōyū-ji): ngôi tự viện của Phái Diệu Tâm Tự (妙心寺派) thuộc Lâm Tế Tông, hiệu núi là Chơn Long Sơn (眞龍山); hiện tọa lạc tại số 218 Sōyūji-chō (宗猷寺町), Takayama-shi (高山市), Gifu-ken (岐阜縣). Vào năm 1632 (Khoan Vĩnh [寛永] 9), hai anh em Kim Sum Trọng Lại (金森重賴, Kanamori Shigeyori) và Kim Sum Trọng Thắng (金森重勝, Kanamori Shigekatsu) phát tâm kiến lập ngôi bảo sát này để hồi hướng công đức cầu nguyện cho thân phụ là Kim Sum Khả Trọng (金森可重, Kanamori Arishige) được siêu độ và cung thỉnh Thiền Sư Nam Tẩu Tông An (南叟宗安) làm Tổ khai sơn. Ban đầu, chùa có tên là Tân An Quốc Tự (新安國寺); nhưng sau đó được đổi thành Chơn Long Sơn Tông Du Tự (眞龍山宗猷寺) do kết hợp hai Pháp Hiệu của Trọng Lại là Chơn Long Viện Điện (眞龍院殿) và của Trọng Thắng là Huy Vân Tông Dụ Cư Sĩ (徽雲宗猷居士) mà thành.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập