Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Hầu hết mọi người đều cho rằng sự thông minh tạo nên một nhà khoa học lớn. Nhưng họ đã lầm, chính nhân cách mới làm nên điều đó. (Most people say that it is the intellect which makes a great scientist. They are wrong: it is character.)Albert Einstein
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Quỳ tâm »»
(乾象): chỉ cho hiện tượng trên trời, xưa kia người ta thường lấy những hiện tương biến đổi của trời đất để tiên đoán tốt xấu liên quan đến con người; đây cũng là thuật ngữ chỉ cho trời. Như trong tác phẩm Song Phó Mộng (雙赴夢) tập 2 của Quan Hán Khanh (關漢卿, khoảng 1220-1300) nhà Nguyên có câu: “Tảo thần chiêm Dịch lý, dạ hậu quán càn tượng (早晨占易理、夜後觀乾象, sáng sớm bói quẻ Dịch, đêm về xem cảnh trời).” Hay trong Nhan Thị Gia Huấn (顏氏家訓), phần Quy Tâm (歸心), của Nhan Chi Suy (顏之推, 531-591) nhà Bắc Tề, cũng có câu: “Càn tượng chi đại, liệt tinh chi khõa (乾象之大、列星之夥, trời cao rộng lớn, các sao lại nhiều).”
(觀經疏, Kangyōsho): tên gọi tắt của Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ (觀無量壽經疏, Kammuryōjukyōsho), 4 quyển, là bộ sách của Thiện Đạo (善導, 613-681) Trung Quốc, chú thích về Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經), một trong ba bộ kinh trọng yếu của Tịnh Độ Giáo. Nó được phân làm 4 thiếp, nên được gọi là Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ (觀經四帖疏), gọi tắt là Tứ Thiếp Sớ (四帖疏). Tại Trung Quốc, sách chú thích này không được quảng bá rộng rãi cho lắm; tuy nhiên, tại Nhật Bản, Pháp Nhiên (法然, Hōnen), Tổ khai sáng Tịnh Độ Tông, là người đầu tiên có duyên với bộ Sớ này; xem nó như là bậc thầy với quan niệm “thiên y Thiện Đạo (偏依善導, nương hẳn về phía Thiện Đạo)”. Sau này, Thân Loan (親鸞, Shinran), Tổ sư khai sáng Tịnh Độ Chơn Tông, cũng xem như là “Thiện Đạo độc minh Phật chánh ý (善導獨明佛正意, chỉ một mình Thiện Đạo làm sáng tỏ chánh ý của Phật)” và đã ca tụng bộ Sớ này trong bài Chánh Tín Niệm Phật Kệ (正信念佛偈) của ông. Như vậy, thư tịch này đã tạo ảnh hưởng rất to lớn trong việc hình thành tư tưởng Tịnh Độ của Nhật Bản. Bộ này chia làm 4 quyển: (1) Quyển 1: Quán Kinh Huyền Nghĩa Phần (觀經玄義分), thuật rõ ý nghĩa của Quán Vô Lượng Thọ Kinh, đầu tiên có bài kệ tụng Quy Tam Bảo Kệ (歸三寶偈), rồi chia thành 7 phần để giải thích rõ cách nhìn đối với kinh điển. (2) Quyển 2: Quán Kinh Tự Phần Nghĩa (觀經序分義), chú thích về phần tựa của kinh. (3) Quyển 3: Quán Kinh Chánh Tông Phần Định Thiện Nghĩa (觀經正宗分定善義), chú thích về Định Thiện Thập Tam Quán (定善十三觀) trong phần Chánh Tông. (4) Quyển 4: Quán Kinh Chánh Tông Phần Tán Thiện Nghĩa (觀經正宗分散善義), chú thích các phần Đắc Ích (得益), Lưu Thông (流通), Kì Xà (耆闍) trong phần Chánh Tông và thêm phần Bạt Hậu.
(智顗, Chigi, 538-597): vị Thiền tăng thống nhiếp Phật Giáo Trung Quốc trong khoảng 3 triều đại Lương, Trần và Tùy với Thiên Thai giáo nghĩa của ông, vị tổ sư khai sáng ra Thiên Thai Tông. Ông cũng được xem như là vị tổ sư thứ 3, kế thừa Huệ Văn (慧文) và Huệ Tư (慧思). Xuất thân từ Huyện Hoa Dung (華容), Kinh Châu (荆州, thuộc Tỉnh Hồ Nam ngày nay), ông là con của Trần Khởi Tổ (陳起祖), vị cao quan thời nhà Lương, tự là Đức An (德安). Lúc 15 tuổi, ông gặp phải nạn Hầu Cảnh (候景), đến năm 18 tuổi thì xuất gia ở Quả Nguyện Tự (果願寺) vùng Sương Châu (湘州, thuộc Trường Sa, tỉnh Hồ Nam). Sau một thời gian đi tham học tu tập ở các nơi, đến năm 23 tuổi, ông đến làm môn hạ của Huệ Tư (慧思) ở Đại Tô Sơn (大蘇山), Quang Châu (光州), tu học Pháp Hoa Tam Muội và được khai ngộ. Vâng theo lời thầy, ông cùng với nhóm Pháp Hỷ (法喜) gồm 27 người vào Kim Lăng (金陵, Nam Kinh), thuyết giảng Pháp Hoa Kinh ở Ngõa Quan Tự (瓦官寺). Từ đó Thỉ Hưng Vương (始興王) nhà Trần và một số vị cao quan khác ở Kim Lăng cũng quy y theo ông; hơn nữa các vị cao tăng như Pháp Tế (法濟), Đại Nhẫn (大忍), Huệ Biện (慧辨), Huệ Vinh (慧榮), v.v., ở đây cũng đến nghe pháp. Đến năm 34 tuổi, ông từ giã kinh thành trở về Thiên Thai Sơn và bắt đầu lập nên hệ thống Thiên Thai giáo học. Vào năm 584, nhận lời cung thỉnh của vua Trần, ông đến Linh Diệu Tự (靈曜寺) và Quảng Trạch Tự (廣擇寺) thuyết giảng. Đến năm 588, vì chiến loạn ông phải đến lánh nạn ở địa phương Kinh Châu (荆州) và Lô Sơn (廬山); nhưng sau khi nhà Tùy thống nhất thì Văn Đế và Tấn Vương Quảng quy y theo ông. Chính ông đã truyền trao Bồ Tát giới cho Tấn Vương, và được ban tặng hiệu là Trí Giả Đại Sư (智者大師). Sau đó ông sáng lập nên Ngọc Tuyền Tự (玉泉寺) ở cố hương của mình là Kinh Châu, rồi năm 593 thì giảng bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa (法華玄義), và năm sau thì bộ Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀). Sau ông đi xuống vùng Dương Châu, dâng hiến bộ Duy Ma Sớ (維摩疏) cho Tấn Vương, và lại trở về Thiên Thai Sơn, thành lập nên quy phạm của giáo đoàn và nỗ lực xác lập học thuyết Chỉ Quán. Vào năm 597, trên đường lên kinh đô theo lời thỉnh cầu của Tần Vương, ông thọ bệnh ở Thạch Thành Tự (石城寺) và thị tịch tại đây vào ngày 24 tháng 11 cùng năm. Các sách giảng thuật của ông ngoài Tam Đại Bộ là Pháp Hoa Huyền Nghĩa (法華玄義), Pháp Hoa Văn Cú (法華文句) và Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀) ra, còn có một số soạn thuật hơn 10 bộ dựa trên Duy Ma Kinh, Kim Quang Minh Kinh, Quán Âm Kinh để giải thích về Ngũ Trùng Huyền Nghĩa (五重玄義) như Thứ Đệ Thiền Môn (次第禪門), Lục Diệu Pháp Môn (六妙法門), Thiên Thai Tiểu Chỉ Quán (天台小止觀), v,v. Từ tư tưởng Pháp Hoa Tam Muội (法華三昧), Tam Quy Tam Quán (三歸三觀), Nhất Niệm Tam Thiên (一念三千), Ngũ Thời Bát Giáo (五時八敎), v.v., mang tính độc đáo riêng biệt của mình, ông được xưng tụng như là người thứ nhất hình thành nên Phật Giáo Trung Quốc. Ông là người đầu tiên thiết lập nên hồ phóng sanh rất nổi tiếng mà vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập