Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Quang Trạch Tự »»
(賴瑜, Raiyu, 1226-1304): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa thời Liêm Thương, vị Tổ của Dòng Trung Tánh Viện (中性院流), húy là Hào Tín (豪信), Lại Du (賴瑜), tự là Tuấn Âm (俊音); xuất thân vùng Na Hạ (那賀, Naka), Kỷ Y (紀伊, Kii, thuộc Wakayama-ken [和歌山懸]), con của Thổ Sanh Xuyên Nguyên Tứ Lang Đại Phu (土生川源四郎大夫). Sau khi xuất gia, ông lên học giáo lý ở Truyền Pháp Viện (傳法院) trên Cao Dã Sơn; sau đó học về Tam Luận, Hoa Nghiêm ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), rồi Duy Thức ở Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) và Mật Giáo ở Chơn Ngôn Viện (眞言院, Shingon-in). Vào năm 1256, ông kế thừa Dòng Quảng Trạch từ Kinh Du (經瑜); rồi đến năm 1266 thì làm chức Học Đầu cho Đại Truyền Pháp Viện (大傳法院) trên Cao Dã Sơn. Năm sau, ông chuyển đến trú tại Tam Bảo Viện (三寶院) ở Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji), rồi đến năm 1272 thì tái hưng Đại Truyền Pháp Viện và kiến lập Trung Tánh Viện (中性院). Vào năm 1284, nhân việc xây dựng nhà tắm nước nóng ở Đại Truyền Pháp Viện, ông tranh chấp với Kim Cang Phong Tự (金剛峰寺, Kongōbō-ji); cuối cùng ông dời Đại Truyền Pháp Viện và Mật Nghiêm Viện (密嚴院) đến vùng Căn Lai (根來, Negoro), rồi sáng lập ra Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗). Ông được xem như là vị Tổ của Đại Truyền Pháp Viện thời Trung Hưng. Đệ tử phú pháp của ông có Thánh Trung (聖忠), Thánh Vân (聖雲), Thánh Tầm (聖尋), Lại Duyên (賴緣), v.v. Trước tác của ông để lại cho hậu thế có Bí Mật Vấn Đáp (秘密問答) 22 quyển, Chơn Tục Tạp Ký Vấn Đáp Sao (眞俗雜記問答鈔) 30 quyển, Tức Tâm Nghĩa Ngu Thảo (卽心義愚草) 4 quyển, Thập Trụ Tâm Luận Ngu Thảo (十住心論愚草) 38 quyển, v.v.
(法華文句, Hokkebunku): thường gọi là Diệu Pháp Liên Hoa Hoa Kinh Văn Cú (妙法蓮華經文句), gọi tắt là Văn Cú (文句), Diệu Cú (妙句), 10 quyển, là một trong 3 bộ luận lớn của Thiên Thai Tông. Đây là thư tịch chỉnh lý trong vòng 40 năm những ghi chép về các bài giảng của Thiên Thai Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-597) tại Quang Trạch Tự (光宅寺), Kim Lăng (金陵) vào năm 587 (niên hiệu Trinh Minh [禎明] nguyên niên của nhà Trần), và được hoàn thành vào năm 629. Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa (法華玄義) thì luận chung về yếu chỉ của kinh, còn bộ này giải thích từng câu văn trong kinh, nên có tên gọi như vậy; tuy nhiên, về bản chất thì cả hai đều đồng nhất thể. Đặc sắc của bộ này nêu rõ điểm giáo thuyết cho rằng hết thảy căn cơ của chúng sanh đều có Phật tánh, thông qua sự phân tích về Bổn Môn (本門), Tích Môn (迹門), sự giải thích về 4 loại Nhân Duyên (因緣), Ước Giáo (約敎), Bản Tích (本迹) và Quán Tâm (觀心).
(法雲, Hōun, 467-529): vị tăng sống dưới thời Nam Triều, người vùng Dương Tiện (陽羡), Nghĩa Hưng (義興, thuộc Nghi Hưng [宜興], Giang Tô [江蘇]), họ Chu (周). Ông xuất gia năm 7 tuổi, đến năm 13 tuổi thì bắt đầu nghiên cứu kinh điển Phật Giáo và năm 30 tuổi thì khai đàn giảng Kinh Pháp Hoa cũng như Kinh Tịnh Danh ở Diệu Âm Tự (妙音寺). Ông đã từng kết giao với vị quan Trung Thư nhà Tề là Chu Ngung (周顒), cũng như với Vương Dung (王融) ở Lang Da (瑯琊), Lưu Hội (劉繪) ở Bành Thành (彭城), Từ Hiếu Tự (徐孝嗣) ở Đông Hoàn (東莞), v.v. Vào năm thứ 2 (503) niên hiệu Thiên Giám (天監) nhà Lương, ông vâng sắc chỉ vào ra các ngôi điện, rồi làm trú trì Quang Trạch Tự (光宅寺). Đến năm cuối niên hiệu Thiên Giám, ông kiến lập Pháp Vân Tự (法雲寺), và vâng mệnh dịch 3 bộ kinh do vương quốc Phù Nam (扶南) dâng hiến. Vào năm thứ 6 (525) niên hiệu Phổ Thông (普通), ông được sắc phong làm Đại Tăng Chánh. Tại Đồng Thái Tự (同泰寺), ông thiết lập hội ngàn vị tăng, nhà vua thường đến nghe giảng kinh Đại Bát Niết Bàn. Đến năm thứ 3 (529) niên hiệu Đại Thông (大通), ông thị tịch, hưởng thọ 63 tuổi. Ông là vị tăng thuộc Thành Thật Tông, rất tinh thông Kinh Niết Bàn.
(智顗, Chigi, 538-597): vị Thiền tăng thống nhiếp Phật Giáo Trung Quốc trong khoảng 3 triều đại Lương, Trần và Tùy với Thiên Thai giáo nghĩa của ông, vị tổ sư khai sáng ra Thiên Thai Tông. Ông cũng được xem như là vị tổ sư thứ 3, kế thừa Huệ Văn (慧文) và Huệ Tư (慧思). Xuất thân từ Huyện Hoa Dung (華容), Kinh Châu (荆州, thuộc Tỉnh Hồ Nam ngày nay), ông là con của Trần Khởi Tổ (陳起祖), vị cao quan thời nhà Lương, tự là Đức An (德安). Lúc 15 tuổi, ông gặp phải nạn Hầu Cảnh (候景), đến năm 18 tuổi thì xuất gia ở Quả Nguyện Tự (果願寺) vùng Sương Châu (湘州, thuộc Trường Sa, tỉnh Hồ Nam). Sau một thời gian đi tham học tu tập ở các nơi, đến năm 23 tuổi, ông đến làm môn hạ của Huệ Tư (慧思) ở Đại Tô Sơn (大蘇山), Quang Châu (光州), tu học Pháp Hoa Tam Muội và được khai ngộ. Vâng theo lời thầy, ông cùng với nhóm Pháp Hỷ (法喜) gồm 27 người vào Kim Lăng (金陵, Nam Kinh), thuyết giảng Pháp Hoa Kinh ở Ngõa Quan Tự (瓦官寺). Từ đó Thỉ Hưng Vương (始興王) nhà Trần và một số vị cao quan khác ở Kim Lăng cũng quy y theo ông; hơn nữa các vị cao tăng như Pháp Tế (法濟), Đại Nhẫn (大忍), Huệ Biện (慧辨), Huệ Vinh (慧榮), v.v., ở đây cũng đến nghe pháp. Đến năm 34 tuổi, ông từ giã kinh thành trở về Thiên Thai Sơn và bắt đầu lập nên hệ thống Thiên Thai giáo học. Vào năm 584, nhận lời cung thỉnh của vua Trần, ông đến Linh Diệu Tự (靈曜寺) và Quảng Trạch Tự (廣擇寺) thuyết giảng. Đến năm 588, vì chiến loạn ông phải đến lánh nạn ở địa phương Kinh Châu (荆州) và Lô Sơn (廬山); nhưng sau khi nhà Tùy thống nhất thì Văn Đế và Tấn Vương Quảng quy y theo ông. Chính ông đã truyền trao Bồ Tát giới cho Tấn Vương, và được ban tặng hiệu là Trí Giả Đại Sư (智者大師). Sau đó ông sáng lập nên Ngọc Tuyền Tự (玉泉寺) ở cố hương của mình là Kinh Châu, rồi năm 593 thì giảng bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa (法華玄義), và năm sau thì bộ Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀). Sau ông đi xuống vùng Dương Châu, dâng hiến bộ Duy Ma Sớ (維摩疏) cho Tấn Vương, và lại trở về Thiên Thai Sơn, thành lập nên quy phạm của giáo đoàn và nỗ lực xác lập học thuyết Chỉ Quán. Vào năm 597, trên đường lên kinh đô theo lời thỉnh cầu của Tần Vương, ông thọ bệnh ở Thạch Thành Tự (石城寺) và thị tịch tại đây vào ngày 24 tháng 11 cùng năm. Các sách giảng thuật của ông ngoài Tam Đại Bộ là Pháp Hoa Huyền Nghĩa (法華玄義), Pháp Hoa Văn Cú (法華文句) và Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀) ra, còn có một số soạn thuật hơn 10 bộ dựa trên Duy Ma Kinh, Kim Quang Minh Kinh, Quán Âm Kinh để giải thích về Ngũ Trùng Huyền Nghĩa (五重玄義) như Thứ Đệ Thiền Môn (次第禪門), Lục Diệu Pháp Môn (六妙法門), Thiên Thai Tiểu Chỉ Quán (天台小止觀), v,v. Từ tư tưởng Pháp Hoa Tam Muội (法華三昧), Tam Quy Tam Quán (三歸三觀), Nhất Niệm Tam Thiên (一念三千), Ngũ Thời Bát Giáo (五時八敎), v.v., mang tính độc đáo riêng biệt của mình, ông được xưng tụng như là người thứ nhất hình thành nên Phật Giáo Trung Quốc. Ông là người đầu tiên thiết lập nên hồ phóng sanh rất nổi tiếng mà vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập