Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Phước điền »»
(s: arhat, p: arahant, j: arakan, 阿羅漢): âm dịch là Ứng Cúng, Phước Điền, Sát Tặc, Vô Học, là người đã đoạn tận hết tất cả phiền não, đã hoàn thành tất cả những việc mình nên làm. Là một vị thánh giả tối cao của đệ tử Phật (Thanh Văn), vị này chứng quả A La Hán thứ 8 của tứ hướng và tứ quả (quả vị được phân loại thành 8 giai đoạn theo cảnh giới mà vị ấy đạt được). Bên cạnh đó đây còn là một trong mười danh hiệu của một đấng Như Lai. Cho nên A La Hán còn được dùng chỉ cho tự thân của đức Phật, trong trường hợp này từ ứng cúng được dùng nhiều hơn. Nguyên gốc của từ này có nghĩa là “người có tư cách”, vì vậy người này xứng đáng để thọ nhận sự cúng dường về y thực, v.v., của hàng tín đồ. Cho nên được gọi là ứng cúng. Hơn nữa, nhờ có sự cúng dường của hàng tín đồ mà có công đức to lớn, người này được ví dụ như là mảnh ruộng ban phước cho tín đồ, nên được gọi là Phước điền. Lại nữa, người này đã giết hết loại giặc phiền não nên cũng được gọi là sát tặc. Vị này đã đoạn sạch hết tất cả phiền não không còn gì để học nữa nên được gọi là vô học. Trong quyển I của Kinh Tạp A Hàm (雜阿含經) giải thích người đã chứng quả A La Hán là “Ngã sanh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ tác, tự tri bất thọ hậu hữu (我生巳盡、梵行巳立、所作巳作、自知不受後有, mạng sống của ta đã hết, phạm hạnh đã thành lập, những điều nên làm đã làm, tự biết không còn thọ sanh về sau nữa),” và gọi người ấy là người đã đạt được tận trí, vô sanh trí. Sau này trong A Tỳ Đạt Ma (阿毘達磨), tùy theo trí tuệ và căn cơ của vị A La Hán, người ta phân ra làm sáu loại gồm: Thối Pháp, Tư Pháp, Hộ Pháp, An Trú Pháp, Kham Đạt Pháp và Bất Động Pháp.
(s: kaṣāya, kāṣāya; p: kāsāya, kāsāva, 袈裟、毠㲚): theo nguyên ngữ nó có nghĩa là y phục có màu sắc sần sùi như trái thị, người ta nhuộm y của tu sĩ Phật Giáo băng màu sắc trái thị nên y đó được gọi là Ca Sa; còn hoàng y (黃衣, y vàng), hoại sắc (壞色) là ý dịch. Nó còn được gọi là Tệ Y (弊衣, y xấu), Phấn Tảo Y (糞掃衣, y quét phân), Cát Tiệt Y (割截衣, y cắt ra từng mảnh), Nạp Y (衲衣, y nghèo nàn), Điền Tướng Y (田相衣, y có hình như ô ruộng), Phước Điền Y (福田衣, y ruộng phước), Công Đức Y (功德衣, y công đức), Giải Thoát Y (解脫衣, y giải thoát), v.v. Tệ Y và Phấn Tảo Y là loại nguyên lai người ta lượm những mảnh vải vứt bỏ ở các nghĩa trang hay đống rác, rồi đem giặt, nhuộm màu vàng và kết thành. Cát Tiệt Y và Nạp Y là loại được khâu lại từ nhiều mảnh vải vụn. Điền Tướng Y cũng như Phước Điền Y là loại được tạo theo hình dáng ô ruộng. Ca Sa là loại y phục có sắc màu xấu xí, không gây ấn tượng mạnh, nên không sợ bị mất cắp; vì thế vị Tỳ Kheo mang y này có thể xa lìa niệm trần tục mà chú tâm vào việc tu tập, đạt được giải thoát cho tự thân và có được công đức to lớn, nên nó được gọi là Công Đức Y hay Giải Thoát Y. Tùy theo số lượng mảnh vải được nối ráp lại, người ta phân ra làm nhiều loại như 5 điều, 7 điều, 9 điều, 13 điều, 15 điều, 25 điều, v.v. Y có từ 9 điều trở lên được gọi là Đại Y hay Tăng Già Lê (s: saṅgāṭī, 僧伽梨), y 7 điều là Thượng Y hay Uất Đa La Tăng (s: uttarasaṅga, 鬱多羅僧), y 5 điều là Nội Y hay An Đà Hội (s: antarvāsa, 安陀會). Đó gọi là Tam Y. Trong Thiền Tông, việc truyền trao pháp là truyền trao y bát, cho nên người ta rất tôn trọng y Ca Sa. Đặc biệt, ngài Đạo Nguyên (道元, Dōgen, 1200-1253), vị tổ sáng lập ra Tào Động Tông Nhật Bản, đã nhấn mạnh rằng Ca Sa là ấn chứng của Phật pháp chánh truyền. Cùng với sự truyền bá của Phật Giáo, Ca Sa đã phát sanh ra rất nhiều thay đổi tùy theo sự khác nhau về khí hậu, phong thổ, y phục, tập quán, v.v. Tại Trung Quốc và Nhật Bản, Ca Sa được mặc trên Pháp Y; đặc biệt loại Ca Sa dùng trong các nghi thức trọng yếu đã trở thành loại trang sức rất hoa mỹ, có thêu các hoa văn. v.v.
(東巖慧安, Tōgan Ean, 1225-1277): vị Thiền tăng thuộc Lâm Tế Tông Nhật Bản, húy là Huệ An (慧安), hiệu là Đông Nham (東巖), thụy hiệu Hoằng Giác Thiền Sư (弘覺禪師); người vùng Bá Ma (播磨, Harima, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]). Ông lên núi Thư Tả Sơn (書冩山) học giáo học Thiên Thai rồi xuất gia thọ Cụ Túc Giới, và chuyên tâm nghiên cứu trong vòng mười năm trường. Sau đó ông nghiên cứu Trí Độ Luận ở Thạch Thanh Thủy Bát Phan Cung (石清水八幡宮). Ông thường ấp ủ chí nguyện sang nhà Tống cầu pháp, rồi đến năm đầu (1257) niên hiệu Chánh Gia (正嘉), ông đến Thái Tể Phủ (太宰府, Dazaifu), thì gặp được Ngộ Không Kính Niệm (悟空敬念) và được khế ngộ với vị này. Vào năm thứ 2 (1262) niên hiệu Hoằng Trường (弘長), ông đến tham yết Ngột Am Phổ Ninh (兀菴普寧) ở Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), và cuối cùng Ngột Am phú pháp cho. Khi Ngột Am trở về nước, ông đã tiễn chân Thầy đến tận vùng Điểu Vũ (鳥羽, Toba), và được truyền trao cho pháp y cùng đảnh tướng của vị này. Về sau, ông cung thỉnh Ngộ Không đến trú tại Phước Điền Am (福田庵). Vào năm thứ 5 (1268) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), ông khai sáng Chánh Truyền Tự (正傳寺, Shōden-ji) và tiếp thu đồ chúng giáo hóa nơi đây. Lại nữa, ông còn đến tham vấn Đại Hưu Chánh Niệm (大休正念) ở Thọ Phước Tự (壽福寺, Jufuku-ji), rồi thể theo lời thỉnh cầu của vị quan Bình Thái Hạnh (平泰盛), ông đến trú tại Thánh Hải Tự (聖海寺). Vào ngày mồng 3 tháng 11 năm thứ 3 niên hiệu Kiến Trị (建治) thì ông thị tịch, thọ 53 tuổi. Vào ngày 23 tháng 3 năm thứ 20 niên hiệu Ứng Vĩnh (應永), ông được ban sắc thụy hiệu là Hoằng Giác Thiền Sư. Hiện vẫn còn lưu lại bộ Đông Nham An Thiền Sư Hành Thật (東巖安禪師行實).
(冥府): còn gọi là Âm Phủ (陰府), là cơ sở hành chánh của thế giới bên kia sau khi chết, văn phòng của vua Diêm Ma. Người thống trị Minh Phủ là Minh Vương Áo Tây Lí Tư (冥王奧里斯); vị này là đại thần của toàn quốc, sau A Mông (阿蒙). Vị trí của Áo Tây Lí Tư thậm chí còn cao hơn cả ông cố là Thái Dương Thần (太陽神). Theo nghiên cứu cho biết rằng ban đầu ông là Hồng Thủy Thần (洪水神, Thần Nước Lũ) của Sông Ni La (尼羅河, Nile), và về sau được cách hóa thành Minh Vương. Đồng thời, ông cũng có thần cách như Thái Dương Thần; tuy nhiên vẫn giữ thân Minh Vương. Mặt khác, ông không phải là đại diện cho sự tối tăm, mà là thần của ánh sáng. Về sau, A Nỗ Tỷ Tư (阿努比斯), người giữ gìn các vong linh, được xem như là con của Áo Tây Lí Tư, được phong chức trợ lý cho cha. Sở dĩ Áo Tây Lí Tư được xem như là vị đại thần của toàn quốc, vì nó có liên quan đến quan điểm tử vong của người Ai Cập. Họ cho rằng chết đi không phải là kết thúc sinh mạng, mà đạt đến con đường sống mãi; cho nên người chết được sống lại nơi thế giới do Áo Tây Lí Tư thống trị và vĩnh viễn sinh tồn. Đó là lý do vì sao người Ai Cập cổ xưa đã xây dựng các Kim Tự Tháp cũng như mộ đế vương cho những vị quốc vương họ. Căn cứ vào thuyết của Kim Chi (金枝), Áo Tây Lí Tư cùng với vợ là Y Hy Tư (伊希斯) trở lại làm thần cây. Sự phục hoạt của Áo Tây Lí Tư có ý nghĩa tương đồng với sự phục hoạt thần cây của Tây Á và Hy Lạp. Theo quan điểm tín ngưỡng của Trung Quốc, dưới Minh Phủ có 10 vị Minh Vương cai quản 10 ngôi điện, được gọi là Thập Điện Minh Vương (十殿冥王) hay Thập Điện Từ Vương (十殿慈王). Theo Địa Phủ Thập Vương Bạt Độ Nghi (地府十王拔度儀) thuộc kinh điển của Đạo Giáo, dưới Minh Phủ có 10 cung, mỗi cung có 1 vị Chơn Quân cai quản, gồm:
(1) Cung thứ nhất của Tần Tố Diệu Quảng Chơn Quân (秦素妙廣眞君), còn gọi là Tần Quảng Đại Vương (秦廣大王);
(2) Cung thứ hai của Âm Đức Định Hưu Chơn Quân (陰德定休眞君), còn gọi là Sơ Giang Đại Vương (初江大王);
(3) Cung thứ ba của Động Minh Phổ Tĩnh Chơn Quân (洞明普靜眞君), còn gọi là Tống Đế Đại Vương (宋帝大王);
(4) Cung thứ tư của Huyền Đức Ngũ Linh Chơn Quân (玄德五靈眞君), còn gọi là Ngỗ Quan Đại Vương (仵官大王);
(5) Cung thứ năm của Tối Thánh Diệu Linh Chơn Quân (最聖妙靈眞君), còn gọi là Diêm La Đại Vương (閻羅大王);
(6) Cung thứ sáu của Bảo Túc Chiêu Thành Chơn Quân (寳肅昭成眞君), còn gọi là Biến Thành Đại Vương (變成大王);
(7) Cung thứ bảy của Thái Sơn Huyền Diệu Chơn Quân (泰山玄妙眞君), còn gọi là Thái Sơn Đại Vương (泰山大王);
(8) Cung thứ tám của Vô Thượng Chánh Độ Chơn Quân (無上正度眞君), còn gọi là Bình Đẳng Đại Vương (平等大王);
(9) Cung thứ chín của Phi Ma Diễn Hóa Chơn Quân (飛魔演化眞君), còn gọi là Đô Thị Đại Vương (都市大王);
(10) Cung thứ mười của Ngũ Linh Uy Đức Chơn Quân (五靈威德眞君), còn gọi là Chuyển Luân Đại Vương (轉輪大王).
Qua đó, ta thấy rằng 10 cung này tương đương với 10 điện và tên gọi của các vị chủ quản các cung cũng gần tương tự với 10 vị Minh Vương (xin xem thêm chi tiết ở phần Minh Vương và Diêm Ma Thập Điện). Trong Hiện Quả Tùy Lục (現果隨錄) quyển 2 có câu: “Ngô tinh phi tà, tiền tại Minh Phủ kiến nhất kỳ sự, cấp dục vãng bỉ khám nghiệm nhĩ (吾並非邪、前在冥府見一奇事、急欲徃彼一勘驗耳, tôi chẳng nói bậy đâu, trước kia ở dưới Minh Phủ có thấy một việc kỳ lạ, muốn mau đến ông ấy khám nghiệm thử đúng không).” Hay Trong Thiền Lâm Tăng Bảo Truyện (禪林僧寶傳) quyển 8, truyện Nam An Nham Nghiêm Tôn Giả (南安巖嚴尊者) lại có đoạn: “Hữu tăng tự Huệ Châu lai, viết: 'Hà Nguyên hữu cự chu trước sa, vạn ngưu hoán bất khả động, nguyện đắc dĩ tải chuyên, kiến tháp vu nam hải, vi chúng sanh Phước điền.' Công viết: 'Thử Âm Phủ chi vật' (有僧自惠州來、曰河源有巨舟著沙、萬牛挽不可動、願得以載磚、建塔于南海、爲眾生福田、公曰此陰府之物, có vị tăng từ Huệ Châu đến bảo rằng: 'Tại Hà Nguyên có một chiếc thuyền lớn bị mắc cát, vạn con trâu kéo cũng không nhúc nhích, xin ngài đến chở ngói gạch, xây tháp nơi Nam Hải để làm ruộng phước cho chúng sanh.' Ông [Nham Nghiêm Tôn Giả] nói rằng: 'Đó là đồ của Âm Phủ').”
(法服): có hai nghĩa chính:
(1) Nghĩa là phục sức quy định trong lễ pháp thời cổ đại. Như trong Hiếu Kinh (孝經), Chương Khanh Đại Phu (卿大夫章) có câu: “Phi tiên vương chi Pháp Phục bất cảm phục (非先王之法服不敢服, chẳng phải là Pháp Phục của tiên vương thì chẳng dám mặc).” Hay trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 35 có đoạn rằng: “Nhân hữu đạo tục chi dị, tại gia tắc y hồ ngoại giáo, phục tiên vương chi Pháp Phục, thuận tiên vương chi pháp ngôn (人有道俗之異、在家則依乎外敎、服先王之法服、順先王之法言, người có đạo tục khác nhau, hàng tại gia tất phải nương vào giáo thuyết khác, mặc Pháp Phục của tiên vương, vâng theo lời dạy của tiên vương).”
(2) Trong Phật Giáo, còn gọi là Pháp Y (法衣), Tăng Phục (僧服), Tăng Y (僧衣); tức là y phục của Tăng Ni thường dùng; chỉ cho y phục do đức Phật chế ra, như Như Pháp Y (如法衣), Ứng Pháp Y (應法衣). Y phục do đức Phật chế có Tam Y, Ngũ Y, v.v. Trường hợp Trung Quốc, Nhật Bản có khí hậu khác với Ấn Độ, nên phạm vi của Pháp Y rộng hơn, hình thức đa dạng hơn. Phàm những y phục nào của Tăng Ni dùng mà không vi phạm giới luật, đều được gọi là Pháp Y. Tại Ấn Độ, quy định vị Tỳ Kheo có 3 y là Tăng Già Lê (s, p: saṅgāṭī, 僧伽梨), Uất Đa La Tăng (s, p: uttarāsaṅga, 鬱多羅僧) và An Đà Hội (s: antarvāsa, p: antaravāsaka, 安陀會). Riêng Tỳ Kheo Ni, trừ 3 y nêu trên, còn có thêm 2 y khác là Tăng Kỳ Chi (s: saṃkakṣikā, 僧衹支) và Quyết Tu La (s: kusūla, 厥修羅). Ba Y là tiếng gọi chung của âm dịch tiếng Sanskrit Chi Phạt La (s: cīvara, 支伐羅). Hơn nữa, do vì có nhuộm sắc màu nên gọi là Ca Sa (s: kaṣāya; p: kāsāya, 袈裟, ý dịch là hoại sắc); hoặc gọi là Phước Điền Y (福田衣), Hàng Tà Y (降邪衣), Tràng Tướng Y (幢相衣), Gian Sắc Y (間色衣), Tạp Trần Phục (雜塵服), Vô Cấu Y (無垢衣), Vô Tướng Y (無相衣), Thắng Tràng Y (勝幢衣), Vô Thượng Y (無上衣), Giải Thoát Phục (解脫服), Đạo Phục (道服), Xuất Thế Phục (出世服), A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Y (阿耨多羅三藐三菩提衣), Từ Bi Phục (慈悲服), Nhẫn Nhục Khải (忍辱鎧), Nhẫn Khải Y (忍鎧衣), Công Đức Y (功德衣), Tiêu Sấu Y (消瘦衣), Liên Hoa Y (蓮華衣), Liên Hoa Phục (蓮華服), Điền Tướng Y (田相衣), v.v. Trong Ba Y, Tăng Già Lê còn gọi là Đại Y (大衣), Trọng Y (重衣), Tạp Toái Y (雜碎衣), Cao Thắng Y (高勝衣), Nhập Vương Cung Tụ Lạc Y (入王宮聚落衣), v.v. Uất Đa La Tăng có tên gọi khác là Thất Điều Ca Sa (七條袈裟), Thất Điều Y (七條衣), Thất Điều (七條), Thượng Y (上衣), Nhập Chúng Y (入衆衣), v.v.; được dùng khi lễ tụng, thính giảng, Bố Tát (s: upavasatha, p: uposatha, 布薩). An Đà Hội còn gọi là Ngũ Điều Y (五條衣), Nội Y (內衣), Trung Túc Y (中宿衣); là y mặc dùng vào lúc sinh hoạt hằng ngày, hay khi đi ngủ. Như trong Tuyển Tập Bách Duyên Kinh (撰集百緣經, Taishō Vol. 4, No. 200) quyển 7 có câu: “Phật tức cáo ngôn: 'Thiện lai Tỳ Kheo !' Tu phát tự lạc, Pháp Phục trước thân, tiện thành Sa Môn, tinh cần tu tập, đắc A La Hán quả, Tam Minh Lục Thông, cụ Bát Giải Thoát, chư thiên thế nhân, sở kiến kính ngưỡng (佛卽告言、善來比丘、鬚髮自落、法服著身、便成沙門、精懃修習、得阿羅漢果、三明六通、具八解脫、諸天世人、所見敬仰, Phật bèn nói rằng: 'Tỳ Kheo hãy khéo đến đây !' Râu tóc tự rơi rụng, Pháp Phục mang vào thân, bèn thành Sa Môn, siêng năng tu tập, chứng quả A La Hán, Ba Minh Sáu Thông, đầy đủ Tám Giải Thoát, Trời người trên đời, trông thấy kính ngưỡng).” Hay như trong Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Tripitaka Vol. 1, No. 1) quyển 17 lại có câu: “Bỉ ư hậu thời, thế trừ tu pháp, phục tam Pháp Y, xuất gia tu đạo, hành bình đẳng pháp (彼於後時、剃除鬚髮、服三法衣、出家修道、行平等法, vị ấy sau đó, cạo bỏ râu tóc, mặc ba Pháp Y, xuất gia tu đạo, hành pháp bình đẳng).” Trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 26 cũng có câu: “Triều đình tam khiển trọng thần giáng hương, tích hiệu Phật Huệ Viên Giám Phổ Tế Thiền Sư, tinh tứ Kim Lan Pháp Y (朝廷三遣重臣降香、錫號佛慧圓鑒普濟禪師、幷賜金襴法衣, triều đình ba lần cử sứ thần đến dâng hương, ban cho hiệu là Phật Huệ Viên Giám Phổ Tế Thiền Sư, và ban thưởng cho Pháp Y Kim Lan).” Trong Sa Di Ni Luật Nghi Yếu Lược (沙彌尼律儀要略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1122), phần Sự Sư Đệ Tam (事師第三, Hầu Thầy Thứ Ba) lại có đoạn: “Tảo khởi thời, đương tiên thanh tịnh trước Pháp Y, lễ Phật pháp, khước lễ sư (早起時、當先清淨著法衣、禮佛法、卻禮師, khi dậy sớm, trước phải thanh tịnh mang Pháp Y vào, lạy Phật pháp, rồi lạy thầy).”
(法服): (1) Nghĩa là phục sức quy định trong lễ pháp thời cổ đại. Như trong Hiếu Kinh (孝經), Chương Khanh Đại Phu (卿大夫章) có câu: “Phi tiên vương chi Pháp Phục bất cảm phục (非先王之法服不敢服, chẳng phải là Pháp Phục của tiên vương thì chẳng dám mặc).” Hay trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 35 có đoạn rằng: “Nhân hữu đạo tục chi dị, tại gia tắc y hồ ngoại giáo, phục tiên vương chi Pháp Phục, thuận tiên vương chi pháp ngôn (人有道俗之異、在家則依乎外敎、服先王之法服、順先王之法言, người có đạo tục khác nhau, hàng tại gia tất phải nương vào giáo thuyết khác, mặc Pháp Phục của tiên vương, vâng theo lời dạy của tiên vương).” (2) Trong Phật Giáo, còn gọi là Pháp Y (法衣), Tăng Phục (僧服), Tăng Y (僧衣); tức là y phục của Tăng Ni thường dùng; chỉ cho y phục do đức Phật chế ra, như Như Pháp Y (如法衣), Ứng Pháp Y (應法衣). Y phục do đức Phật chế có Tam Y, Ngũ Y, v.v. Trường hợp Trung Quốc, Nhật Bản có khí hậu khác với Ấn Độ, nên phạm vi của Pháp Y rộng hơn, hình thức đa dạng hơn. Phàm những y phục nào của Tăng Ni dung mà không vi phạm giới luật, đều được gọi là Pháp Y. Tại Ấn Độ, quy định vị Tỳ Kheo có 3 y là Tăng Già Lê (s, p: saṅgāṭī, 僧伽梨), Uất Đa La Tăng (s, p: uttarāsaṅga, 鬱多羅僧) và An Đà Hội (s: antarvāsa, p: antaravāsaka, 安陀會). Riêng Tỳ Kheo Ni, trừ 3 y nêu trên, còn có thêm 2 y khác là Tăng Kỳ Chi (s: saṃkakṣikā, 僧衹支) và Quyết Tu La (s: kusūla, 厥修羅). Ba Y là tiếng gọi chung của âm dịch tiếng Sanskrit Chi Phạt La (s: cīvara, 支伐羅). Hơn nữa, do vì có nhuộm sắc màu nên gọi là Ca Sa (s: kaṣāya; p: kāsāya, 袈裟, ý dịch là hoại sắc); hoặc gọi là Phước Điền Y (福田衣), Hàng Tà Y (降邪衣), Tràng Tướng Y (幢相衣), Gian Sắc Y (間色衣), Tạp Trần Phục (雜塵服), Vô Cấu Y (無垢衣), Vô Tướng Y (無相衣), Thắng Tràng Y (勝幢衣), Vô Thượng Y (無上衣), Giải Thoát Phục (解脫服), Đạo Phục (道服), Xuất Thế Phục (出世服), A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Y (阿耨多羅三藐三菩提衣), Từ Bi Phục (慈悲服), Nhẫn Nhục Khải (忍辱鎧), Nhẫn Khải Y (忍鎧衣), Công Đức Y (功德衣), Tiêu Sấu Y (消瘦衣), Liên Hoa Y (蓮華衣), Liên Hoa Phục (蓮華服), Điền Tướng Y (田相衣), v.v. Trong Ba Y, Tăng Già Lê còn gọi là Đại Y (大衣), Trọng Y (重衣), Tạp Toái Y (雜碎衣), Cao Thắng Y (高勝衣), Nhập Vương Cung Tụ Lạc Y (入王宮聚落衣), v.v. Uất Đa La Tăng có tên gọi khác là Thất Điều Ca Sa (七條袈裟), Thất Điều Y (七條衣), Thất Điều (七條), Thượng Y (上衣), Nhập Chúng Y (入衆衣), v.v.; được dùng khi lễ tụng, thính giảng, Bố Tát (s: upavasatha, p: uposatha, 布薩). An Đà Hội còn gọi là Ngũ Điều Y (五條衣), Nội Y (內衣), Trung Túc Y (中宿衣); là y mặc dùng vào lúc sinh hoạt hằng ngày, hay khi đi ngủ. Như trong Tuyển Tập Bách Duyên Kinh (撰集百緣經, Taishō Vol. 4, No. 200) quyển 7 có câu: “Phật tức cáo ngôn: 'Thiện lai Tỳ Kheo !' Tu phát tự lạc, Pháp Phục trước thân, tiện thành Sa Môn, tinh cần tu tập, đắc A La Hán quả, Tam Minh Lục Thông, cụ Bát Giải Thoát, chư thiên thế nhân, sở kiến kính ngưỡng (佛卽告言、善來比丘、鬚髮自落、法服著身、便成沙門、精懃修習、得阿羅漢果、三明六通、具八解脫、諸天世人、所見敬仰, Phật bèn nói rằng: 'Tỳ Kheo hãy khéo đến đây !' Râu tóc tự rơi rụng, Pháp Phục mang vào thân, bèn thành Sa Môn, siêng năng tu tập, chứng quả A La Hán, Ba Minh Sáu Thông, đầy đủ Tám Giải Thoát, Trời người trên đời, trông thấy kính ngưỡng).” Hay như trong Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Tripitaka Vol. 1, No. 1) quyển 17 lại có câu: “Bỉ ư hậu thời, thế trừ tu pháp, phục tam Pháp Y, xuất gia tu đạo, hành bình đẳng pháp (彼於後時、剃除鬚髮、服三法衣、出家修道、行平等法, vị ấy sau đó, cạo bỏ râu tóc, mặc ba Pháp Y, xuất gia tu đạo, hành pháp bình đẳng).” Trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 26 cũng có câu: “Triều đình tam khiển trọng thần giáng hương, tích hiệu Phật Huệ Viên Giám Phổ Tế Thiền Sư, tinh tứ Kim Lan Pháp Y (朝廷三遣重臣降香、錫號佛慧圓鑒普濟禪師、幷賜金襴法衣, triều đình ba lần cử sứ thần đến dâng hương, ban cho hiệu là Phật Huệ Viên Giám Phổ Tế Thiền Sư, và ban thưởng cho Pháp Y Kim Lan).” Trong Sa Di Ni Luật Nghi Yếu Lược (沙彌尼律儀要略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1122), phần Sự Sư Đệ Tam (事師第三, Hầu Thầy Thứ Ba) lại có đoạn: “Tảo khởi thời, đương tiên thanh tịnh trước Pháp Y, lễ Phật pháp, khước lễ sư (早起時、當先清淨著法衣、禮佛法、卻禮師, khi dậy sớm, trước phải thanh tịnh mang Pháp Y vào, lạy Phật pháp, rồi lạy thầy).”
(s: tri-ratna, ratna-traya, p: ti-ratana, ratanattaya, j: sampō, 三寶): chỉ cho ba ngôi báu, gồm Phật Bảo (佛寶), Pháp Bảo (法寶) và Tăng Bảo (僧寶), mà một tín đồ Phật Giáo cần phải tôn kính, cúng dường; còn gọi là Tam Tôn (三尊). (1) Phật (s, p: buddha, 佛), chỉ cho đấng tự giác ngộ mình và làm cho người khác giác ngộ, là vị giáo chủ phật giáo có thể dạy đỗ, hướng dẫn người khác; hoặc chỉ chung cho chư Phật. (2) Pháp (s: dharma, p: dhamma, 法), là giáo pháp, lời dạy được đức Phật giác ngộ và tuyên thuyết cho người khác. (3) Tăng (s, p: saṅgha, 僧), chỉ cho tập đoàn đệ tử của đức Phật chuyên hành tì, tu tập giáo pháp của Ngài. Thường giáo đoàn này phải 3 người trở lên mới được gọi là Tăng. Ba ngôi báu này có uy đức rất cao tột, vĩnh viễn không thay đổi, giống như bảo vật trên đời, nên có tên là Tam Bảo. Cứu Cánh Nhất Thừa Thật Tánh Luận (究竟一乘寶性論, Taishō Vol. 31, No. 1611) quyển 2 có nêu ra 6 nghĩa của Tam Bảo: (1) Hy hữu, hiếm có, nghĩa rằng ba ngôi này trãi qua trăm ngàn vạn kiếp khó mà găp được, giống như trân bảo trên thế gian vậy. (2) Minh tịnh, trong sạch, nghĩa là ba ngôi báu này xa lìa hết thảy các pháp Hữu Lậu (s: sāsava, p: sāsrava, 有漏); nên không nhơ nhớp mà trong sạch. (3) Có thế lực, nghĩa là ba ngôi báu này đầy đủ năng lực oai đức tự tại không thể nghĩa bàn. (4) Trang nghiêm, nghĩa là ba ngôi báu này có thể trang nghiêm cõi xuất thế gian; giống như các bảo vật có thể làm trang nghiêm thế gian vậy. (5) Tối thắng, nghĩa là trong các pháp xuất thế gian, ba ngôi báu này là pháp vượt hơn hết tất cả. (6) Bất biến, không thay đổi, nghĩa là ba ngôi báu này là pháp Vô Lậu (s: anāsrava, p: anāsava, 無漏), không bị Tám Pháp của thế gian làm cho lay động, thay đổi. Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương (大乘法苑義林章, Taishō Vol. 45, No. 1861) quyển 6 lại đưa ra 4 nghĩa khác để làm sáng tỏ nguyên do sáng lập Tam Bảo: (1) Tà Tam Bảo (邪三寶) để đối trị ngoại đạo, nghĩa là phản tà quy chánh. (2) Đức Phật là bậc thầy điều ngự, Pháp là giáo pháp của vị thầy đó, Tăng là học trò của thầy đó. Sự chứng đắc của ba ngôi này là vô lượng, chủng loại giống nhau, nên hợp thành một pháp; nhưng vì nhân quả chứng đắc có khác nhau, nên phân thành thầy trò. (3) Người thượng căn muốn chứng quả Bồ Đề của Phật, nên gọi đó là Phật Bảo; người trung căn muốn cầu trí tự nhiên mà liễu đạt pháp nhân duyên, nên gọi đó là Pháp Bảo; người hạ căn nương vào thầy thọ pháp, lý sự không sai khác, nên gọi đó là Tăng Bảo. (4) Đức Phật như vị lương y, Pháp như phương thuốc mầu nhiệm; Tăng giống như người khán bệnh; đối với người bệnh mà nói thì vị lương y, phương thuốc mầu nhiệm và người khán bệnh không thể nào thiếu được. Trong Lễ Phật Nghi Thức (禮佛儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1492) có đoạn: “Hựu phàm vi lễ bái, tất tu tiên kính Tam Bảo, Tam Bảo thị tối thắng cát tường, lương hựu Phước điền, năng tiêu chúng sanh nghiệp cấu (又凡爲禮拜、必須先敬三寶、三寶是最勝吉祥、良祐福田、能消眾生業垢, lại phàm là lễ lạy, tất nên trước kính trọng Tam Bảo, Tam Bảo là điều tốt lành trên hết, là ruộng phước phù hộ tốt, có thể tiêu trừ nghiệp cấu của chúng sanh).” Hay trong Quy Giới Yếu Tập (歸戒要集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1129) quyển 1 cũng có đoạn: “Phù Tam Bảo giả, tánh tướng thường trụ, thể châu pháp giới, tiếp vật ứng cơ, như nhật diệu ư thiên giang, vi thế chu hàng (夫三寶者、性相常住、體周法界、接物應機、如日曜於千江、爲世舟航, phàm ba ngôi báu, tánh tướng thường trụ, thể khắp pháp giới, theo vật ứng cơ, như mặt trời tỏa sáng nơi ngàn sông, làm thuyền bè cho thế gian).”
(三十六部): 36 bộ quỷ thần, 36 loại thân hình Ngạ Quỷ. Trong Phật Thuyết Thí Ngạ Quỷ Cam Lồ Vị Đại Đà La Ni Kinh (佛說施餓鬼甘露味大陀羅尼經, Taishō No. 1321) có đề cập đến một số thân Ngạ Quỷ do ác nghiệp mà phải chịu quả báo thân hình như vậy: Bế Lệ Đa Quỷ (薜荔多鬼, Tàu gọi là Ngạ Quỷ [餓鬼, quỷ đói]), Xa Da Quỷ (車耶鬼, Tàu gọi là Ảnh Quỷ [影鬼, quỷ bóng]), Kiện Đà Quỷ (健駄鬼, Tàu gọi là Thực Hương Quỷ [食香鬼, quỷ ăn mùi hương]), Bố Sắt Ba Quỷ (布瑟波鬼, Tàu gọi là Thực Hoa Ngạ Quỷ [食花餓鬼, quỷ đói ăn hoa]), Kệ Bà Da Quỷ (偈婆耶鬼, Tàu gọi là Thai Tàng Quỷ [胎藏鬼, quỷ nằm trong bào thai]), A Thâu Già Quỷ (阿輸遮鬼, Tàu gọi là Bất Tịnh Quỷ [不淨鬼, quỷ bất tịnh]), Bà Đa Quỷ (婆哆鬼, Tàu gọi là Thực Phong Quỷ [食風鬼, quỷ ăn gió]), Ô Đà Ha La Quỷ (烏駄訶羅鬼, còn gọi là Thực Tinh Khí Quỷ [食精氣鬼, quỷ ăn tinh khí]), Đà La Chất Đa Quỷ (駄羅質多鬼, còn gọi là Sân Tất Tâm Quỷ [嗔悉心鬼, quỷ thường nỗi tâm giận dữ]), Chất Đa Quỷ (質多鬼, hay Ác Tâm Quỷ [惡心鬼, quỷ có tâm ác]), Bà Rô Da Quỷ (皤嚕耶鬼, hay Thực Tế Tự Quỷ [食祭祀鬼, quỷ ăn các đồ cúng tế]), Thị Vĩ Đa Quỷ (視尾哆鬼, hay Thực Nhân Thọ Mạng Quỷ [食人壽命鬼, quỷ ăn thịt người có tuổi thọ]), Tỳ Sa Kê Đà Quỷ (芑莎鷄駄鬼, hay Thực Nhục Thực Chỉ Đẳng Quỷ [食肉食脂等鬼, quỷ ăn thịt ăn mỡ, v.v.]), Xà Để Quỷ (蛇底鬼, hay Thực Sơ Sản Tử Quỷ [食初産子鬼, quỷ ăn thịt con nít sơ sinh]), Yết Tra Bố Đơn Na Quỷ (羯吒布單那鬼, hay Kì Xú Quỷ [希臭鬼, quỷ thân hình có mùi hôi thối như xương cháy]), Cưu Bàn Trà Quỷ (鳩盤茶鬼, hay Thủ Cung Quỷ [守宮鬼, quỷ bảo vệ cung điện]), Tất Xá Già Quỷ (畢舍遮鬼, hay Xí Thần [廁神, thần bảo vệ nhà xí, chuyên ăn những đồ bất tịnh]), v.v. Theo Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō No. 2122) quyển 6, phần Liệt Số Bộ (列數部) thứ 4 có liệt kê rất rõ 36 loại như sau:
(1) Hoạch Thang Quỷ (鑊湯鬼, quỷ vạc nước sôi), loại này do được người khác mướn đi giết người nên phải chịu quả báo bị sắc nấu trong vạc nước sôi; hoặc được người khác gởi đồ, nhưng chống cự không hoàn trả, cũng chịu quả báo này.
(2) Châm Khẩu Xú Quỷ (針口臭鬼, quỷ miệng nhỏ như cây kim), do vì lấy tiền mướn người khác thi hành sát hại, nên cổ họng nhỏ như cây kim, thậm chí một giọt nước cũng không lọt được.
(3) Thực Thổ Quỷ (食吐鬼, quỷ ăn rồi mữa ra), do chồng khuyên vợ bố thí, nhưng vợ tiếc không thực hành, tích chứa tài của, bỏn xẻn; nên bị quả báo ăn vào thường nôn mữa ra.
(4) Thực Phẩn Quỷ (食糞鬼, quỷ ăn phân), do vợ lừa dối chồng để tự ăn uống một mình, vì ghét bỏ chồng; nên thường bị quả báo ăn phân nhơ nhớp.
(5) Thực Hỏa Quỷ (食火鬼, quỷ ăn lửa), do vì ngăn cấm lương thực của người, khiến họ phải tự tử; nên phải chịu quả báo khổ sở do lửa bốc cháy, kêu gào đói khát.
(6) Thực Khí Quỷ (食氣鬼, quỷ ăn hơi), do tham lam ăn nhiều thức ăn ngon, chẳng chia cho vợ con; nên thường bị khốn khổ, đói khát, chỉ ngửi được hơi thôi.
(7) Thực Pháp Quỷ (食法鬼, quỷ ăn pháp), vì cầu tài lợi mà thuyết pháp cho người, nên thân thường đói khát, thịt trong thân tiêu mòn hết do nhòi rút, chỉ mong nhờ nghe chư tăng thuyết pháp mà mạng được tồn tại.
(8) Thực Thủy Quỷ (食水鬼, quỷ ăn nước), do vì bán rượu nhạt như nước để lừa người ngu, chẳng giữ gìn trai giới; nên thường bị quả báo bệnh khô nhát.
(9) Hy Vọng Quỷ (希望鬼, quỷ hy vọng), do vì tranh đấu giá cả mua bán, lừa dối lấy vật của người khác; nên thường bị bệnh đói khát, luôn trông mong có cúng tế các vong linh đã khuất để được hưởng.
(10) Thực Thóa Quỷ (食唾鬼, quỷ ăn đồ khạc nhổ), do vì lấy thức ăn không trong sạch lừa gạt người xuất gia; nên thân thường đói khát, hay bị nấu đốt, cầu mong người khác khạt nhổ ra và ăn những đồ bất tịnh.
(11) Thực Man Quỷ (食鬘鬼, quỷ ăn tràng hoa), do vì đời trước trộm cắp tràng hoa của Phật để tự làm đẹp cho mình; nếu người gặp việc lấy tràng hoa cúng tế, nhờ vậy mà được hưởng.
(12) Thực Huyết Quỷ (食血鬼, quỷ ăn máu), do vì sát sanh để ăn uống máu tanh mà không cho vợ con; nên bị thân quỷ này; nhờ có cúng tế thoa máu huyết mới được thọ hưởng.
(13) Thực Nhục Quỷ (食肉鬼, quỷ ăn thịt), do vì lấy thịt thân thể chúng sanh, cắt từng miếng nhỏ đem cân, mua bán dối trá; nên phải chịu quả báo này, nhiều lần dối trá, xấu xa, người khác nhìn thấy ghê tởm.
(14) Thực Hương Quỷ (食香鬼, quỷ ăn nhang), do vì bán loại nhang xấu, lại lấy giá mắc; nên chịu quả báo chỉ ăn khói nhang, sau cùng bị bần cùng, khốn khổ.
(15) Tật Hành Quỷ (疾行鬼, quỷ chạy nhanh), nếu có người phá giới mà vẫn mặc tăng phục, lừa gạt lấy tài của người khác để hứa giúp bệnh nhân, cuối cùng chẳng làm, đem tự dùng cho mình; nên bị quả báo này, thường ăn đồ bất tịnh, tự đốt cháy thân mình.
(16) Tứ Tiện Quỷ (伺便鬼, quỷ dòm rình đại tiểu tiện), do vì mưu mô, lường gạt lấy tài vật người khác mà không chịu tu tập phước nghiệp, mới chịu quả báo này; lông trên thân thường phát ra lửa, ăn khí lực bất tịnh của người để tồn tại.
(17) Hắc Ám Quỷ (黑闇鬼, quỷ tối đen), do dùng phương pháp gian xảo để lấy tài của, làm cho người khác phải bị giam cầm trong ngục tù, mắt không trông thấy, thường cất tiếng đau thương; nên bị đọa vào chỗ tối tăm, có rắn độc cùng khắp.
(18) Đại Lực Quỷ (大力鬼, quỷ có sức mạnh lớn), do trộm cắp vật của người khác, đem cho bạn ác mà không bố thí để tạo Phước điền; nên chịu quả báo này, dù có sức mạnh thần thông, nhưng lại bị nhiều khổ não.
(19) Xí Nhiên Quỷ (熾然鬼, quỷ bốc cháy), do vì phá thành, cướp giựt, giết hại bá tánh; nên chịu quả báo này, than khóc kêu gào, khắp thân lửa bốc cháy; sau được làm người thì thường bị cướp giựt.
(20) Tứ Anh Nhi Tiện Quỷ (伺嬰兒便鬼, quỷ rình con nít đại tiểu tiện), do vì giết con nít, tâm sanh giận dữ; nên chịu quả báo này, thường rình dòm người đại tiểu tiện, có thể hại trẻ nít nhỏ.
(21) Dục Sắc Quỷ (欲色鬼, quỷ ham sắc dục), do vì thích dâm dục, có được của cải mà không bố thí để tạo Phước điền; nên chịu quả báo này, thường du hành trong cõi người, cùng người giao du, giả làm yêu quái để cầu cúng tế được hưởng.
(22) Hải Chử Quỷ (海渚鬼, quỷ cồn biển), do khi đi ngoài đồng trống thấy người bịnh khổ, lường gạt lấy của người; nên sanh nơi cồn biển, chịu khổ nóng lạnh, gấp hơn mười lần người.
(23) Diêm La Vương Chấp Trượng Quỷ (閻羅王執杖鬼, quỷ cầm gậy cho vua Diêm La), do vì đời trước gần gủi quốc vương, đại thần chuyên làm việc hung ác; nên bị quả báo này, bị vua Diêm La sai khiến, làm quỷ cầm gậy.
(24) Thực Tiểu Nhi Quỷ (食小兒鬼, quỷ ăn thịt con nít), do vì dùng chú thuật để lường gạt, lấy tài sản của người, giết hại heo, dê, sau khi chết bị đọa vào địa ngục, thọ quả báo này, thường ăn thịt con nít.
(25) Thực Nhân Tinh Khí Quỷ (食人精氣鬼, quỷ ăn tinh khí người), do vì dối trá bạn thân, bảo rằng ta vì bảo hộ cho ngươi, khiến người dũng mãnh xông trận mà chết, cuối cùng lại chẳng cứu hộ; nên chịu quả báo này.
(26) La Sát Quỷ (羅剎鬼, quỷ la sát), do vì đời trước giết hại sinh mạng để làm tiệc đại hội; nên bị quả báo đói khát, lửa đốt cháy.
(27) Hỏa Thiêu Thực Quỷ (火燒食鬼, quỷ ăn lửa cháy), do vì tâm keo kiệt, ganh tỵ, che giấu, ưa ăn vật thực của chúng tăng, trước đọa vào địa ngục, rồi từ địa ngục ra, chịu quả báo làm con quỷ thân hình đốt cháy trong lò lửa.
(28) Bất Tịnh Hạng Mạch Quỷ (不淨巷陌鬼, quỷ ăn đồ bất tịnh nơi đường hẽm bờ ruộng), do vì đem đồ ăn bất tịnh cúng cho người tu hành Phạm hạnh, nên đọa làm quả báo như vậy, thường ăn đồ nhơ nhớp.
(29) Thực Phong Quỷ (食風鬼, quỷ ăn gió), do vì thấy người xuất gia đến khất thực, hứa mà không bố thí thức ăn; nên chịu quả báo này, thường bị bịnh đói khát, như cái khổ trong địa ngục.
(30) Thực Thán Quỷ (食炭鬼, quỷ ăn than), do làm chủ ngục hình, cấm không cho tội nhân ăn uống; nên chịu quả báo này, thường ăn than lửa.
(31) Thực Độc Quỷ (食毒鬼, quỷ ăn chất độc), do vì lấy thức ăn độc làm cho người khác mất mạng, nên đọa xuống địa ngục, sau đó trở ra làm quỷ, thường chịu đói khát, ăn lửa độc, làm cho đốt cháy thân hình.
(32) Khoáng Dã Quỷ (曠野鬼, quỷ đồng ruộng), do vì nơi đồng trống có ao hồ được đào lên để cấp nước cho người đi đường, có người thốt lời độc ác quyết phá, khiến cho mọi người chịu khát; nên bị quả báo như vậy, thường bị bịnh đói khát, lửa đốt cháy thân.
(33) Trủng Gian Thực Hôi Thổ Quỷ (塚間食灰土鬼, quỷ ăn đất tro giữa gò mã), do vì trộm lấy bông hoa cúng Phật đem bán lấy tiền kiếm sống; nên chịu quả báo này, thường ăn tro nóng nơi chỗ thiêu thây người chết.
(34) Thọ Hạ Trú Quỷ (樹下住鬼, quỷ sống dưới gốc cây), do vì thấy người trồng cây để đem bóng mát cho mọi người, nhưng lại ác tâm chặt gãy cây đó, lấy làm đồ dùng cho mình; nên đọa làm quỷ trong cây, thường phải chịu nóng lạnh bức bách.
(35) Giao Đạo Quỷ (交道鬼, quỷ nơi đường giao thông), do trộm cắp lương thực của người đi đường, vì ác nghiệp đó, thường bị cưa sắt cắt thân; nhờ có cúng tế nơi đường giao nhau, lấy thức ăn đó mà tự nuôi sống.
(36) Ma La Thân Quỷ (魔羅身鬼, quỷ thân Ma La), do vì làm việc tà đạo, không tin chánh pháp, nên đọa làm thân quỷ này, hay phá hoại thiện pháp của người.
(s, p: Piṇḍola-bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮): gọi đủ là Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ (賓頭盧頗羅墮誓), gọi tắt là Phả La Đọa (s: Bharadvāja, 頗羅墮), Tân Đầu Lô (賓頭盧) hay Tân Đầu (賓頭); là người đứng đầu trong 16 vị La Hán. Tôn giả Tân Đầu Lô trụ thế lâu dài, hiện tướng tóc bạc mày dài, nên có tên gọi là Trường Mi Tăng (長眉僧) hay Trường Mi Sa Môn (長眉沙門). Tên Tân Đầu Lô ý dịch là Bất Động (不動), họ Phả La Đọa nghĩa là Lợi Căn (利根). Ông vâng lời đức Phật sống lâu trên cõi đời mạt pháp để thọ nhận cúng dường của chúng sanh, giúp cho họ tạo Phước điền; nên ông có tên là Phước Điền Đệ Nhất (福田第一). Nguyên lai ông là vị đại thần của vua Ưu Điền (s, p: Udayana, 優填). Đức vua thấy ông siêng năng tinh tấn, nên khuyên ông xuất gia với Phật. Sau khi chứng quả A La Hán, ông trở về nước, thuyết pháp cho nhà vua nghe. Do đó, vua rất kính trọng ông, sớm tối đều đến hỏi han học đạo. đương thời có một vị Đại Thần Bà La Môn ngoại đạo không tin Phật pháp, khi thấy vua Ưu Điền đến tham vấn, Tân Đầu Lô chỉ ngồi một bên mà không đứng dậy chào nghinh đón vua, nhân đó người này dùng kế ly gián xúi giục nhà vua. Vua bèn bảo rằng: “Ngày mai khi ta đến tham vấn, nếu ông ấy không đứng dậy nghinh tiếp, ta sẽ giết ngay.” Hôm sau, khi Tân Đầu Lô thấy đức vua từ xa đến, bèn đứng dậy đón tiếp và mở lời chào hỏi trước. Thấy vậy, nhà vua ngạc nhiên hỏi duyên cớ vì sao. Tôn Giả đáp: “Tôi làm vậy vì nhà vua đó !” Vua hỏi: “Sao lại vì ta ?” Đáp: “Trước đây đức vua đến với thiện tâm, hôm nay Ngài đến với ác tâm; nếu tôi không đứng dậy đón tiếp thì Ngài sẽ giết tôi. Ai giết vị La Hán thì sẽ đọa vào Địa Ngục. Vậy nếu tôi đứng dậy đón Ngài thì Ngài sẽ mất vương vị; nhưng thà rằng để Ngài mất vương vị còn hơn là đọa vào Địa Ngục. Đó là lý do vì sao hôm nay tôi đứng dậy đón Ngài.” Nghe vậy, đức vua hỏi: “Khi nào ta mất vương vị ?” Đáp: “Trong 7 ngày sau.” Quả nhiên 7 ngày sau nhà vua bị nước bên cạnh bắt đi làm tù nhân. Lúc bấy giờ có một vị Trưởng Giả Thọ Đề (樹提), dùng loại gỗ Chiên Đàn (旃檀), làm thành một bình bát, đem đặt trên đầu cây sào cao và lớn tiếng bảo rằng: “Bất luận người nào, nếu có thể lấy được bát này mà chẳng dùng gậy thang, bát này thuộc về người ấy.” Khi ấy Tân Đầu Lô hiện thần thông lấy bình bát đi. Biết được chuyện này, đức Thế Tôn liền quở trách ông rằng: “Tỳ Kheo có thể lạm dụng thần thông để lấy bình bát ngoại đạo được sao ?” Và hạ lệnh cho ông suốt đời không được trú tại cõi Diêm Phù Đề (s: Jambudvīpa, p: Jambudīpa, 閻浮提), cho nên ông đến trú tại Tây Ngưu Hóa Châu (s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲). Về sau, chúng đệ tử thương nhớ Tôn Giả, khẩn cầu đức Phật cho phép ông trở lại cõi Diêm Phù Đề. Nhưng đức Phật lại không cho phép ông nhập Niết Bàn, mà phải thường trụ trên thế gian, hộ trì chánh pháp, thọ nhận sự cúng dường của chúng sanh thời mạt pháp. Vì vậy, tại Trai Đường của các tự viện, thường có một chỗ ngồi ở hàng đầu phía Tây, tức là chỗ của Hòa Thượng Thủ Tòa (首座, trong Thiền Tông, là tên gọi của vị đứng đầu trong chúng), nhưng lại không có ai ngồi. Tuy nhiên tại chỗ đó vẫn thường xuyên có thiết dọn thức ăn, vật uống, chén đũa, v.v., để cúng dường Tôn Giả. Khi cúng dường Trai Tăng, Tôn Giả sẽ hiện thân Tỳ Kheo đến thọ nhận cúng dường. Cho nên khi chú nguyện cúng dường thường có câu: “Nam Mô Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà Tôn Giả tác đại chứng minh.” Tương truyền có một phú ông nọ phát tâm cúng dường Trai Tăng cho 1000 vị tăng với mục đích cầu phước và mong được La Hán đến thọ nhận. Ông thiết lễ trai đàn trong 3 ngày, đến tối thứ 3 ông nằm mộng thấy một lão Tỳ Kheo mặc áo quần lam lũ, trên trán nỗi 3 cục u ghê sợ hiện đến bảo phú ông rằng: “Tôi là Tân Đầu Lô đây !” “Ồ, ngài là Tân Đầu Lô sao ? Ngài có đến dự cúng dường không ?” Tôn Giả đáp: “Có chứ ! Ngày thứ nhất, tôi đến thì người giữ cửa không cho vào. Tôi bảo là tôi đến để ban phước cho chủ nhà này. Người canh cổng không tin, bảo rằng áo quần tôi lam lũ thế này, lấy gì có phước mà ban cho người khác. Nói xong người ấy dùng gậy đánh tôi, làm cho trán tôi u lên một cục. Đến ngày thứ hai, tôi lại bị đánh u thêm một cục nữa. Qua ngày thứ ba, tôi tưởng là ngày cuối cùng có thể vào được, nhưng cũng bị đánh thêm lần nữa.” Phú ông tỉnh dậy, biết được sự thật, vô cùng tiếc nuối không có phước duyên để đón tiếp Thánh tăng. Lại có một ông quan huyện, nghe đồn cúng dường Trai Tăng nhất định sẽ có Thánh tăng Tân Đầu Lô quang lâm thọ cúng dường. Ông bèn thiết trai cúng dường tại Thiên Đồng Tự (天童寺) ở Ninh Ba (寧波). Đến thời thọ trai buổi trưa, ông chợt thấy một vị Tỳ Kheo mặc áo quần lam lũ, già khụm, nước miệng nước mũi chảy nhễ nhại, chẳng chút oai nghi nào, bước đi ngã nghiêng, tiến về phía chỗ ngồi của vị Thủ Tòa. Thông thường vị trí này luôn dành để cúng dường cho Thánh tăng. Ông quan huyện đến gần xem, nhìn kỹ thấy toàn thân từ trên xuống dưới của vị Tỳ Kheo ấy nhơ nhớp không thể chịu được. Ông bèn dùng tay xách lỗ tai vị kia kéo xuống ngồi hàng ghế cuối cùng. Sau khi thọ trai xong, quan huyện hỏi Thiên Đồng Thiền Sư xem thử hôm nay Thánh tăng có đến tham dự không ? Thiền Sư trả lời có. Nghe vậy, quan huyện mừng rỡ hỏi xem đó là ai ? Đáp: “Đó chính là vị Tỳ Kheo mà ông xách lỗ tai.” Lão quan huyện kinh ngạc, run bắn người thốt lên rằng: “Quả là có mắt mà không tròng. Ta đã làm nhục Thánh tăng rồi ! Tội lỗi tày trời !” Theo Đại Tống Tăng Sử Lược (大宋僧史略) quyển 3, phần Phương Đẳng Giới Đàn (方等戒壇) cho biết rằng khi Luật Sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) ở Chung Nam Sơn (終南山) kiến lập Linh Cảm Giới Đàn tại Tinh Xá Thanh Quan Thôn (清官村), có vị tăng lông mày dài đến trước Giới Đàn tán thán. Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 3 có đoạn: “Hàng phục ngoại đạo, lý hành chánh pháp, sở vị Tân Đầu Lô Tỳ Kheo thị (降伏外道、履行正法、所謂賓頭盧比丘是, hàng phục ngoại đạo, thực hành chánh pháp, đó gọi là Tỳ Kheo Tâm Đầu Lô).” Cũng lại trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 44, đức Phật thọ ký cho 4 vị Thanh Văn, trong đó có Tân Đầu Lô rằng: “Ngô kim niên dĩ suy hao, niên hướng bát thập dư, nhiên kim Như Lai hữu tứ đại Thanh Văn, kham nhiệm du hóa, trí tuệ vô tận, chúng đức cụ túc. Hà đẳng vi tứ ? Sở vị Đại Ca Diếp Tỳ Kheo, Quân Đồ Bát Tỳ Kheo, Tân Đầu Lô Tỳ Kheo, La Vân Tỳ Kheo. Nhữ đẳng tứ đại Thanh Văn yếu bất bát Niết Bàn, tu ngô pháp một tận, nhiên hậu nãi đương bát Niết Bàn (吾今年已衰耗、年向八十餘、然今如來有四大聲聞、堪任遊化、智慧無盡、眾德具足、云何爲四、所謂大迦葉比丘、君屠缽漢比丘、賓頭盧比丘、羅云比丘、汝等四大聲聞要不般涅槃、須吾法沒盡、然後乃當般涅槃, năm nay ta đã suy yếu, tuổi đã hơn tám mươi, tuy nhiên nay Như Lai có bốn vị đại Thanh Văn, có thể đảm nhiệm việc du hóa, trí tuệ vô tận, các đức đầy đủ. Thế nào là bốn ? Đó là Tỳ Kheo Đại Ca Diếp, Tỳ Kheo Quân Đồ Bát, Tỳ Kheo Tân Đầu Lô, Tỳ Kheo La Vân. Các người, bốn đại Thanh Văn này chủ yếu không nhập Niết Bàn, đến khi pháp của ta diệt hết, sau đó mới nhập Niết Bàn).”
(s: khakkhara, khakharaka, 錫杖): âm dịch là Khích Khí La (隙棄羅), Khế Khí La (喫棄羅), Ngật Cát La (吃吉羅), Ngật Khí La (吃棄羅); còn gọi là Thanh Trượng (聲杖), Thiền Trượng (禪杖), Minh Trượng (鳴杖), Trí Trượng (智杖), Đức Trượng (德杖), Kim Tích (金錫); gọi tắt là Trượng (杖); là một trong 18 vật thường dùng của vị Tỳ Kheo, là vật dụng thường mang đi trên đường. Nguyên lai, Tích Trượng được dùng để xua đuổi rắn độc, côn trùng, v.v. Hoặc khi đi khất thực, vị Tỳ Kheo chấn rung cây Tích Trượng, làm cho ở xa cũng nghe biết; và đời sau nó trở thành một trong những pháp khí. Trong quyển Hạ của Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi (大比丘三千威儀, Taishō Vol. 24, No. 1470), có giải thích rõ nguyên do cầm Tích Trượng như thế nào: “Nhất giả vi địa trùng cố, nhị giả vi niên lão cố, tam giả vi phần vệ cố (一者爲地虫故、二者爲年老故、三者爲分衛故, thứ nhất vì côn trùng dưới đất, thứ hai vì tuổi già, thứ ba vì để bảo vệ).” Tích Trượng được sử dụng không những chỉ để xua đuổi côn trùng độc hại, mà còn để báo cho biết khi đi khất thực, hay làm vật chống đỡ cho người lớn tuổi, già yếu. Trong quyển Hạ của Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi còn nêu rất rõ 25 điều cần phải biết đối vị Tỳ Kheo cầm Tích Trượng như “xuất nhập kiến Phật tượng, bất đắc sử đầu hữu thanh (出入見佛像、不得使頭有聲, khi ra vào thấy tượng Phật thì không được làm cho đầu trượng phát ra tiếng vang)”, “bất đắc trì trượng nhập chúng (不得持杖入眾, không được mang trượng vào trong chúng)”, “tam sư dĩ trì trượng xuất, bất đắc phục trì trượng tùy xuất (三師已持杖出、不得復持杖隨出, khi ba thầy đã mang trượng đi ra rồi, không được lại cầm trượng đi theo ra)”, v.v. Cho nên, việc sử dụng Tích Trượng được chế định rất nghiêm cẩn, chứ không được lạm dụng. Trên đầu Tích Trượng có những vòng tròn lớn nhỏ bằng thiếc, khi lắc phát ra tiếng kêu leng keng, nên có tên gọi là Thanh Trượng (聲杖, gậy phát ra âm thanh). Nó được dùng đi khắp các nơi, nên được gọi là Phi Tích (飛錫), Tuần Tích (巡錫); nếu dừng một nơi mà trụ thì gọi là Lưu Tích (留錫). Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2076) quyển 8, có ghi lại câu chuyện của Thiền Sư Ẩn Phong (隱峰) ở Ngũ Đài Sơn (五臺山). Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (元和, 806-820) nhà Đường, trên đường lên Ngũ Đài Sơn, lúc đi ngang qua Hoài Tây (淮西), Thiền Sư gặp quan quân triều đình và giặc cướp đang giao tranh lẫn nhau, bất phân thắng bại; để hóa giải họa hoạn này, Thiền Sư bèn ném cây trượng lên không trung, phi thân bay qua. Khi ấy tướng sĩ của hai bên ngước lên nhìn mà khiếp hãi tưởng như trong giấc mơ, không còn tâm trí đánh nhau nữa. Câu chuyện này trở thành nổi tiếng trong Thiền lâm với thuật ngữ phi tích cao tăng (飛錫高僧, vị tăng đức độ cỡi trên Tích Trượng mà bay đi, hay vị tăng đi du hành đó đây). Trong Thiên Thai Tông và Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, khi có pháp hội, người ta thường dùng loại Tích Trượng ngắn, vừa chấn rung vừa tụng thần chú. Về nguồn gốc của Tích Trượng, Căn Bổn Nhất Thuyết Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 34 có giải thích rằng nhân sự việc vị Tỳ Kheo đến nhà người khất thực, gặp vài trở ngại như lên tiếng báo cho biết, hay gõ cửa, v.v., đều bị quở trách; nên Phật chế dùng Tích Trượng như “trượng đầu an hoàn, viên như trản khẩu, an tiểu hoàn tử, dao động tác thanh nhi vi cảnh giác (杖頭安鐶、圓如盞口、安小鐶子、搖動作聲而爲警覺, gắn vòng tròn trên đầu trượng, tròn như miệng chén, gắn vòng nhỏ, rung động tạo thành tiếng để báo cho biết).” Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 5, phần Tích Trượng cho biết rằng: “Phật cáo Tỳ Kheo, ưng thọ trì Tích Trượng, quá khứ vị lai hiện tại chư Phật giai chấp cố; hựu danh Trí Trượng, hựu danh Đức Trượng; chương hiển trí hành công đức bổn cố. Tích giả, khinh dã; y ỷ thị trượng trừ phiền não xuất Tam Giới cố. Tích minh dã, đắc trí minh cố. Tích tỉnh dã, tỉnh ngộ khổ không Tam Giới kết cứu cố. Nhị dịch lục hoàn thị Ca Diếp Phật chế, tứ dịch thập nhị hoàn thị Thích Ca Phật chế (佛告比丘、應受持錫杖、過去未來現在諸佛皆執故、又名智杖、又名德杖、彰顯智行功德本故、錫者、輕也、依倚是杖除煩惱出三界故、錫明也、得智明故、錫醒也、醒悟苦空三界結究故、二股六環是迦葉佛製、四股十二環是釋迦佛製, Phật dạy Tỳ Kheo nên thọ trì Tích Trượng, vì chư Phật trong quá khứ vị lai và hiện tại đều dùng đến; lại có tên là Trí Trượng, lại có tên là Đức Trượng; làm sáng tỏ gốc công đức của Trí và Hành. Tích nghĩa là nhẹ, vì nương tựa vào cây trượng này mà đoạn trừ phiền não, ra khỏi Ba Cõi. Tích nghĩa là sáng, vì đạt được trí tuệ sáng suốt. Tích nghĩa là tỉnh, vì tỉnh ngộ khổ không của Ba Cõi cứu cánh. Trượng có hai đầu sáu vòng là do Phật Ca Diếp chế ra; có bốn đầu 12 vòng là do Phật Thích Ca chế ra).” Trong Phật Thuyết Mục Liên Ngũ Bách Vấn Kinh Lược Giải (佛說目連五百問經略解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 750) quyển Hạ giải thích rằng: “Y bát nãi nhẫn nhục chi pháp khí, Tích Trượng biểu Như Lai chi Pháp Thân (衣缽乃忍辱之法器、錫杖表如來之法身, y bát là pháp khí của nhẫn nhục, Tích Trượng là Pháp Thân của Như Lai).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) cho biết rằng: “Quải tam sự Như Lai y, hướng nhân gian ứng cúng Phước điền, thủ trì Tích Trượng hàng long hổ (掛三事如來衣、向人間應供作福田、手持錫杖降龍虎, mang áo Như Lai ba việc, hướng cuộc đời ruộng phước cúng dường, tay cầm Tích Trượng hàng rồng hổ).” Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) do Luật Sư Độc Thể (讀體, 1601-1679), vị cao tăng của Phái Thiên Hoa (千華派) thuộc Luật Tông Trung Quốc soạn, có bài kệ Xuất Tích Trượng (出錫杖, Lấy Tích Trượng) như sau: “Chấp trì Tích Trượng, đương nguyện chúng sanh, thiết đại thí hội, thị như thật đạo. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra (執持錫杖、當願眾生、設大施會、示如實道、唵、那㗚噆、那㗚噆、那栗吒缽底、那㗚帝、娜夜缽儜、吽癸吒, cầm giữ Tích Trượng, nguyện cho chúng sanh, thiết hội đại thí, chỉ đường như thật. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập