Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Khi ý thức được rằng giá trị của cuộc sống nằm ở chỗ là chúng ta đang sống, ta sẽ thấy tất cả những điều khác đều trở nên nhỏ nhặt, vụn vặt không đáng kể.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Phổ Môn »»
(隱元隆琦, Ingen Ryūki, 1592-1673): vị tổ khai sáng Hoàng Bá Tông Nhật Bản, người vùng Phúc Thanh (福清), Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), họ là Lâm (林), hiệu là Ẩn Nguyên (隱元), sinh ngày mồng 4 tháng 11 năm thứ 20 niên hiệu Vạn Lịch (萬曆) nhà Minh. Năm lên 9 tuổi, ông có chí ham học, nhưng năm sau thì bỏ học, theo nghiệp trồng tiêu. Có đêm nọ ông ngồi nằm dưới gốc cây tùng, mới ngộ được rằng muốn hiểu rõ diệu lý của trời đất, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, v.v., thì không còn con đường nào hơn là quy y vào cửa Phật. Cuối cùng với lòng quyết tâm, năm 23 tuổi ông lên Phổ Đà Sơn (普陀山) ở Nam Hải, thuộc Ninh Ba (寧波, Tỉnh Triết Giang), tham bái Triều Âm Động Chủ (潮音洞主). Năm lên 29 tuổi, ông đến viếng thăm Hoàng Bá Sơn (黃檗山), theo Giám Nguyên Hưng Thọ (鑑源興壽) xuống tóc xuất gia, và sau đó đi tham bái khắp các nơi. Trong thời gian này, ông có học Kinh Pháp Hoa ở Hưng Thiện Tự (興善寺) vùng Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Triết Giang), rồi Kinh Lăng Nghiêm ở Bích Vân Tự (碧雲寺). Bên cạnh đó ông còn đến gõ cửa Mật Vân Viên Ngộ (密雲圓悟) và thọ nhận tâm ấn của vị này. Vào năm thứ 6 (1633) niên hiệu Sùng Trinh (崇貞), khi Phí Ẩn Thông Dung (費隱通容) đang sống tại Hoàng Bá Sơn, ông được cử làm chức Tây Đường, sau thể theo lời thỉnh cầu, ông lên quản lý cả Hoàng Bá Tông và đã làm cho tông phong rạng rỡ tột đỉnh; bên cạnh đó ông còn tận lực cho xây dựng các ngôi đường vũ khang trang hơn, và trở thành pháp từ của Phí Ẩn. Ông đã từng sống qua một số chùa như Phước Nghiêm Tự (福嚴寺) ở Sùng Đức (崇德, Tỉnh Triết Giang), Long Tuyền Tự (龍泉寺) ở Trường Lạc (長樂, Tỉnh Phúc Kiến). Đến năm thứ 11 (1654) niên hiệu Thuận Trị (順治), nhận lời cung thỉnh của mấy vị tăng nhóm Dật Nhiên Tánh Dung (逸然性融) ở Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) vùng Trường Khi (長崎, Nagasaki), ông cùng với Đại Mi Tánh Thiện (大眉性善), Độc Trạm Tánh Oanh (獨湛性瑩), Độc Ngôn Tánh Văn (獨言性聞), Nam Nguyên Tánh Phái (南源性派), v.v., hơn 30 người đệ tử lên thuyền sang Nhật, đến Hưng Phước Tự. Khi ấy ông đã 63 tuổi. Năm sau, ông chuyển đến Sùng Phước Tự (崇福寺, Sūfuku-ji), rồi thể theo lời mời của Long Khê Tánh Tiềm (龍溪性潜) ở Phổ Môn Tự (普門寺, Fumon-ji) vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu), ông đến làm trú trì chùa này. Sau đó, vào tháng 9 năm đầu (1651) niên hiệu Vạn Trị (萬治), ông đi lên phía đông, đến trú ngụ tại Lân Tường Viện (麟祥院) ở Thang Đảo (湯島, Yushima) vùng Giang Hộ (江戸, Edo, thuộc Tokyo), đến yết kiến Tướng Quân Đức Xuyên Gia Cương (德川家綱, Tokugawa Ietsuna), và vì hàng sĩ thứ mà thuyết pháp lợi sanh. Vào tháng 5 năm đầu (1661) niên hiệu Khoan Văn (寬文), ông sáng lập Hoàng Bá Sơn Vạn Phước Tự (黃檗山萬福寺) tại vùng đất Vũ Trị (宇治, Uji), làm căn cứ truyền bá Thiền phong của Hoàng Bá Tông tại Nhật Bản; và đến tháng 9 năm thứ 4 đồng niên hiệu trên, ông nhường ngôi trú trì lại cho Mộc Am Tánh Thao (木菴性瑫), và lui về ẩn cư. Vào tháng 2 năm thứ 13 cùng niên hiệu trên, ông bị bệnh nhẹ; ngày 30 cùng tháng này Hậu Thủy Vĩ Thượng Hoàng (後水尾上皇, Gomizunō Jōkō) sai sứ đến vấn an ông. Đến ngày mồng 2 tháng 4, ông được ban cho hiệu là Đại Quang Phổ Chiếu Quốc Sư (大光普照國師). Vào ngày mồng 3 tháng 4 năm sau, ông thị tịch, hưởng thọ 82 tuổi đời, 54 hạ lạp, và được ban tặng thêm cho thụy hiệu là Phật Từ Quảng Giám Thiền Sư (佛慈廣鑑禪師). Ngoài ra ông còn có một số hiệu khác như Kính Sơn Thủ Xuất Thiền Sư (徑山首出禪師), Giác Tánh Viên Minh Thiền Sư (覺性圓明禪師). Trước tác của ông để lại có Hoàng Bá Ngữ Lục (黃檗語錄) 2 quyển, Long Tuyền Ngữ Lục (龍泉語錄) 1 quyển, Hoàng Bá Sơn Chí (黃檗山誌) 8 quyển, Hoằng Giới Pháp Nghi (弘戒法儀) 2 quyển, Dĩ Thượng Trung Quốc Soạn Thuật (以上中國撰術), Phù Tang Hội Lục (扶桑會錄) 2 quyển, Phổ Chiếu Quốc Sư Quảng Ngữ Lục (普照國師廣語錄) 20 quyển, Hoàng Bá Hòa Thượng Thái Hòa Tập (黃檗和上太和集) 2 quyển, Đồng Kết Tập (同結集) 2 quyển, Sùng Phước Tự Lục (崇福寺錄), Phật Tổ Đồ Tán (佛祖圖賛), Phật Xá Lợi Ký (佛舎利記), Ẩn Nguyên Pháp Ngữ (隱元法語), Phổ Môn Thảo Lục (普門艸錄), Tùng Ẩn Tập (松隱集), Vân Đào Tập (雲濤集), Hoàng Bá Thanh Quy (黃檗清規), v.v.
(乾象): chỉ cho hiện tượng trên trời, xưa kia người ta thường lấy những hiện tương biến đổi của trời đất để tiên đoán tốt xấu liên quan đến con người; đây cũng là thuật ngữ chỉ cho trời. Như trong tác phẩm Song Phó Mộng (雙赴夢) tập 2 của Quan Hán Khanh (關漢卿, khoảng 1220-1300) nhà Nguyên có câu: “Tảo thần chiêm Dịch lý, dạ hậu quán càn tượng (早晨占易理、夜後觀乾象, sáng sớm bói quẻ Dịch, đêm về xem cảnh trời).” Hay trong Nhan Thị Gia Huấn (顏氏家訓), phần Quy Tâm (歸心), của Nhan Chi Suy (顏之推, 531-591) nhà Bắc Tề, cũng có câu: “Càn tượng chi đại, liệt tinh chi khõa (乾象之大、列星之夥, trời cao rộng lớn, các sao lại nhiều).”
(呪): ngôn ngữ bí mật có năng lực linh ứng đặc biệt, không thể lấy ngôn ngữ bình thường để giải thích được, là câu văn bí mật dùng xướng tụng trong khi cầu nguyện, còn gọi là thần chú (神呪), mật chú (密呪), chơn ngôn (眞言). Nguyên lai từ chú (呪) là chúc (祝), là mật ngữ dùng tụng niệm hướng về chư vị thần linh cầu đảo, tuyên cáo khiến cho kẻ oán địch bị tai họa, hay mong muốn tiêu trừ ách nạn, cầu mong được lợi ích. Trong kinh Phệ Đà (吠陀) xưa của Ấn Độ đã có chú thuật rồi. Theo quyển 14 Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經) cho biết rằng đức Thích Tôn đã từng bài bác vấn đề chú thuật; tuy nhiên, quyển 9 của kinh này có đề cập việc đức Phật thuyết Chú Hộ Thân (s: parītta, p: paritta, parittā, còn gọi là Hộ Chú [護呪], Hộ Kinh [護經], Chú Văn [呪文]) trị rắn độc, cho nên chúng ta biết rõ rằng chú thuật đã được phổ biến ở Ấn Độ từ xa xưa và sau này Phật Giáo cũng có dùng đến. Các kinh điển thuộc giáo phái Đại Thừa Hiển Giáo như Bát Nhã (般若), Pháp Hoa (法華), Bảo Tích (寶積), Đại Tập (大集), Kim Quang Minh (金光明), Lăng Già (楞伽), v.v., đều có Phẩm Đà La Ni (陀羅尼品) nêu rõ những câu thần chú. Đặc biệt Mật Giáo rất chú trọng đến mật chú, cho rằng chú là biểu thị cho “pháp nhĩ thường nhiên (法爾常然, pháp vốn thường như vậy)”; cho nên nếu tụng đọc, quán tưởng mật chú, hành giả có thể được lợi ích thành Phật. Thần chú được thuyết trong các kinh điển thì nhiều vô cùng, tỷ dụ như Thủy Hỏa Chú (水火呪), An Trạch Phù Chú (安宅符呪), Sát Lợi Chú (刹利呪), v.v., trong A Ma Trú Kinh (阿摩晝經) thuộc quyển 13 hay Phạm Động Kinh (梵動經) trong quyển 14 của Trường A Hàm (長阿含). Trong Tứ Phần Luật (四分律) quyển 27, Thập Tụng Luật (十誦律) quyển 46, v.v., có các chú trị bệnh trùng trong ruột, chú hàng phục ngoại đạo, v.v. Hay một số chú khác như Bà La Môn Chú (婆羅門呪), Thủ Đà La Thần Chú (首陀羅神呪), Đại Phạm Thiên Vương Bà Tỳ La Chú (大梵天王婆毘羅呪), v.v., trong phẩm Chúng Tướng Vấn (眾相問) của Ma Đăng Già Kinh (摩登伽經) quyển thượng, v.v. Ngoài ra, trong quyển 4 của Xuất Tam Tạng Ký Tập (出三藏記集) có Quán Đảnh Thất Vạn Nhị Thiên Thần Vương Hộ Tỳ Kheo Chú Kinh (觀頂七萬二天神王護比丘呪經), Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Thần Chú (摩訶般若波羅蜜神呪), Thập Bát Long Vương Thần Chú Kinh (十八龍王神呪), Chú Củ Xỉ (呪齲齒), Thập Nhị Nhân Duyên Kết Lũ Thần Chú (十二因緣結縷神呪), Uy Đức Đà La Thần Chú (威德陀羅神呪), v.v., mỗi thứ 1 quyển. Thần chú có 2 loại lành và dữ. Loại thần chú lành thường được dùng để chữa bệnh hay hộ thân; thần chú dữ dùng để bùa yểm người khác, khiến cho họ bị tai họa. Trong Phẩm Phổ Môn thuộc quyển 7 của Pháp Hoa Kinh (法華經), quyển 57 của Cựu Hoa Nghiêm Kinh (舊華嚴經), quyển 4 của Thập Địa Kinh (十地經), v.v., có đề cập đến loại thần chú dữ này. Đức Thế Tôn cấm chỉ hàng đệ tử tu tập chú thuật, sử dụng nó để mưu sinh, mà chỉ cho phép dùng chú để trị bệnh hay hộ thân mà thôi. Thông thường từ mantra được dịch là chú (呪). Hiện tồn bản tiếng Sanskrit của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), Đà La Ni Nhập Lăng Già Kinh (陀羅尼入楞伽經) có xuất hiện từ mantra này. Thế nhưng, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙) quyển 11 lại dịch từ Pāli vijjāmayā là chú. Trong Phẩm Đà La Ni thuộc quyển 7 của Pháp Hoa Kinh dịch từ Sanskrit dhārāṇī là chú. Từ đó, chúng ta thấy rằng từ Hán dịch chú có nhiều nguyên ngữ khác nhau. Bên cạnh đó, dhārāṇī còn có nghĩa là tổng trì (總持), vidya (p: vijjā) là minh (明), thuật (術), mantra là chơn ngôn. Nghĩa các từ tuy có khác nhau nhưng đã được dùng lẫn lộn nhau. Có khá nhiều vị tăng ngoại quốc truyền Phật Giáo đầu tiên đến Trung Quốc rất sở trường về chú thuật, như trường hợp Đàm Vô Sấm (曇無讖) được xem như là Đại Chú Sư. Đạo Giáo Trung Quốc từ đó cũng bắt đầu lưu hành chú thuật. Trong Đăng Thiệp Thiên (登涉篇) thuộc quyển 4 của Bảo Bốc Tử Nội Thiên (抱朴子) có phần Lục Giáp Bí Chú (六甲祕呪), có khả năng khiến cho người trong chiến trận không bị tử thương. Hay trong Thái Thượng Tử Vi Trung Thiên Thất Nguyên Chân Kinh (太上紫微中天七元眞經, Đạo Giáo quyển 1055) có Bắc Đẩu Thất Tinh Chú (北斗七星呪), Cơ Tinh Chân Nhân Chân Quân Bảo Mạng Chú (機星眞人眞君保命呪), v.v. Hơn nữa, trong Thái Thượng Nguyên Thỉ Thiên Tôn Thuyết Bảo Nguyệt Quang Hoàng Hậu Thánh Mẫu Khổng Tước Minh Vương Kinh (太上元始天尊說寶月光皇后聖母孔雀明王經, Đạo Giáo quyển 1058) có Bí Mật Khu Tà Phân Quỷ Nhân Đạo Chú (祕密驅邪分鬼人道呪), v.v., tất cả đều có pha lẫn Phạn ngữ. Cũng giống như vậy, các kinh điển Phật Giáo như Quán Đảnh Kinh (灌頂經), Thích Ma Ha Diên Luận (釋摩訶衍論) quyển 9 có nêu rõ các loại thần chú, Uế Tích Kim Cang Cấm Bách Biến Pháp Kinh (穢跡金剛禁百變法經) thì đề cập đến những loại phù chú, ấn pháp. Tất cả đều có ảnh hưởng đến kinh điển Đạo Giáo. Ngoài ra, Mật Giáo của Nhật Bản cũng sử dụng rất nhiều mật chú.
(大眉性善, Daibi Shōzen, 1616-1673): vị tăng của Hoàng Bá Tông Trung Quốc, hiệu là Đại Mi (大眉), tự Lương Giả (良者), họ Hứa (許), xuất thân Huyện Tấn Giang (晉江縣), Tuyền Châu (泉州, Tỉnh Phúc Kiến), sanh ngày 14 tháng 2 năm thứ 44 (1616) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆). Năm 17 tuổi, ông đến đầu sư với Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) ở Sư Tử Nham (獅子巖), Phúc Thanh (福清), cùng thầy sắp xếp kế hoạch sang du hóa Nhật Bản. Đến năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應), ông cùng với Ẩn Nguyên sang Nhật và đã từng làm chức Duy Na cho Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) ở Trường Khi (長崎, Nagasaki), Phổ Môn Tự (普門寺, Fumon-ji) ở Phú Điền (富田), Nhiếp Tân (攝津, Settsu, thuộc Ōsaka-fu [大阪府]). Vào năm đầu (1661) niên hiệu Khoan Văn (寛文), ông làm Đô Tự (都寺) cho Vạn Phước Tự (萬福寺, Manfuku-ji) ở Hoàng Bá Sơn (黃檗山), Vũ Trị (宇治, Uji, thuộc Kyōto-fu [京都府]), đến năm sau ông xây dựng Đông Lâm Am (東林庵) trong núi và lui về ẩn cư. Đến năm thứ 5 (1665) cùng niên hiệu trên, ông kế thừa dòng pháp của Ẩn Nguyên. Vào tháng 2 năm thứ 10 (1670), ông làm Yết Ma A Xà Lê (羯摩阿闍梨) cho ba Giới Đàn trên Hoàng Bá Sơn. Đến mùa Thu năm đầu (1673) niên hiệu Diên Bảo (延寶), ông nhường Đông Lâm Am lại cho Thiết Nhãn Đạo Quang (鐵眼道光), xây dựng Pháp Tàng Viện (法藏院) để tàng trữ các bản khắc gỗ của kinh tạng. Vào ngày 18 tháng 10 cùng năm này, ông thị tịch, hưởng thọ 58 tuổi đời và 42 hạ lạp. Trước tác của ông có Đông Lâm Đại Mi Hòa Thượng Ngữ Lục (東林大眉和尚語錄) 1 quyển. Đệ tử nối dòng pháp của ông có Mai Lãnh Đạo Tuyết (梅嶺道雪).
(陽月): tên gọi khác của tháng 10 Âm Lịch, vì tháng này thuộc về Tiểu Dương Xuân (小陽春), nên có tên như vậy. Như trong Quan Âm Kinh Phổ Môn Phẩm Phu Thuyết (觀音經普門品膚說, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 35, No. 647) có câu: “Mậu Ngọ Dương Nguyệt Gia Hòa Trí Giác Giáo Tự Tỳ Kheo Linh Diệu tự (戊午陽月嘉禾智覺敎寺比丘靈耀序, vào tháng 10 năm Mậu Ngọ, Tỳ Kheo Linh Diệu ở Trí Giác Giáo Tự vùng Gia Hòa ghi lời tựa).” Hay trong Hóa Châu Bảo Mạng Chơn Kinh (化珠保命眞經, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 25) cũng có câu: “Vạn Lịch Kỷ Dậu Dương Nguyệt cát đán Mân Vương Hanh Trọng huân mộc bái tử (萬曆己酉陽月吉旦閩王亨仲熏沐拜梓, vào sáng sớm tốt lành tháng 10 năm Kỷ Dậu [1609] niên hiệu Vạn Lịch, vua nhà Mân là Hanh Trọng xông hương, tắm rửa, lạy khắc).”
(和光同塵): vốn xuất xứ từ lời dạy của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh (道德經) rằng: “Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần (和其光、同其塵, hòa với ánh sáng ấy, đồng với bụi trần ấy)”; nghĩa là cùng với trần tục hợp lại với nhau, nhưng không tự lập dị. Theo Phật Giáo, từ này chỉ cho chư Phật, Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà ẩn tàng ánh sáng trí tuệ, lấy phương tiện quyền giả của Ứng Hóa Thân (應化身) mà sanh ra nơi cõi trần thế đầy rẫy phiền não, khổ đau; cùng kết duyên với chúng sanh, dần dần dẫn dắt họ đến với Phật pháp, nhưng vẫn siêu trần thoát tục; như trường hợp Phổ Môn Thị Hiện của Bồ Tát Quan Âm (s: Avalokiteśvara, 觀音), v.v. Như trong Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀, Taishō Vol. 46, No. 1911) quyển 6 có dạy rằng: “Hòa quang đồng trần, kết duyên chi thỉ; Bát Tướng Thành Đạo, dĩ luận kỳ chung (和光同塵、結緣之始、八相成道、以論其終, hòa quang đồng trần, ban đầu kết duyên; Tám Tướng Thành Đạo, để luận chung cuộc).” Tuy nhiên, Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 375) quyển 6 lại đưa ra thuyết “hòa quang bất đồng trần (和光不同塵)” với ý nghĩa rằng chư Phật, Bồ Tát vì muốn đạt mục đích cứu độ chúng sanh nên cùng hòa hợp với chúng sanh nơi cõi trần thế, nhưng không bị ô nhiễm. Cho nên, Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Ký (維摩經略疏垂裕記, Taishō Vol. 38, No. 1779) quyển 5 có dạy rằng: “Hòa quang bất đồng kỳ trần giả phương tiện hiện tật, cố viết hòa quang; nội vô hoặc nghiệp, cố bất đồng trần (和光不同其塵者方便現疾、故曰和光、內無惑業、故不同塵, hòa cùng ánh sáng mà chẳng đồng với bụi trần ấy, phương tiện hiện ra tật bệnh, nên gọi là hòa quang; trong không có nghiệp mê hoặc, nên không đồng trần).” Trong Quy Sơn Cảnh Sách Chú (溈山警策註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1239) lại có câu rằng: “Ẩn mai kỳ tích nhi hòa quang đồng trần, thao tàng hư danh nhi khử hoa vụ thật (隱晦其跡而和光同塵、韜藏虛名而去華務實, mai danh ẩn tích mà hòa quang đồng trần, giấu kín hư danh mà bỏ hoa lấy quả).” Hay trong Phạm Võng Kinh Trực Giải (梵網經直解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 38, No. 697) cũng có đoạn rằng: “Chư Phật Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh, tất nhiên ẩn Thánh hiện liệt, hòa quang đồng trần, dĩ đồng chúng sanh thân tướng sự nghiệp, như ảnh tùy hình, cửu hóa phương quy, sử kỳ giải thoát; thị cố giả thọ Tứ Đại huyễn thân, giả thọ Ngũ Uẩn hình mạng, nhi nhập lợi ích Tam Muội (諸佛菩薩、敎化眾生、必然隱聖現劣、和光同塵、以同眾生身相事業、如影隨形、久化方皈、使其解脫、是故假受四大幻身、假受五蘊形命、而入利益三昧, chư Phật Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh, tất nhiên giấu sự Thánh thiện mà hiện ra sự yếu kém, hòa quang đồng trần, để cùng với thân tướng sự nghiệp của chúng sanh, như bóng theo hình, hóa độ lâu mới quy phục; cho nên mới giả thọ thân huyễn Bốn Đại, giả thọ hình hài Năm Uẩn, mà nhập vào lợi ích Tam Muội).”
(慧日): mặt trời trí tuệ. Trí tuệ của Phật có thể chiếu sáng những nơi tối tăm, u ám của thế gian, cho nên được ví như là mặt trời. Như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) có câu: “Huệ nhật chiếu thế gian, tiêu trừ sanh tử vân (慧日照世間、消除生死雲, trời tuệ chiếu thế gian, tiêu trừ mây sanh tử).” Hay trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 7, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm (觀世音菩薩普門品) thứ 25, lại có câu: “Huệ nhật phá chư ám, năng phục tai phong hỏa (慧日破諸闇、能伏災風火, trời tuệ phá tối tăm, hàng phục tai gió lửa).” Hoặc như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 31, phần Trùng Khắc Ngũ Đăng Hội Nguyên Tự (重刻五燈會元序), cũng có đoạn: “Toại sử tông phong quảng diễn, huệ nhật cao huyền, nhiên trường dạ chi đăng, quần hôn đốn hiểu (遂使宗風廣衍、慧日高懸、燃長夜之燈、群昏頓曉, bèn khiến tông phong lan khắp, trời tuệ lên cao, đốt đêm dài đuốc soi, tối tăm sáng tỏ).”
(慧日): mặt trời trí tuệ. Trí tuệ của Phật có thể chiếu sáng những nơi tối tăm, u ám của thế gian, cho nên được ví như là mặt trời. Trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) có câu: “Huệ nhật chiếu thế gian, tiêu trừ sanh tử vân (慧日照世間、消除生死雲, trời tuệ chiếu thế gian, tiêu trừ mây sanh tử).” Hay trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 7, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm (觀世音菩薩普門品) thứ 25, lại có câu: “Huệ nhật phá chư ám, năng phục tai phong hỏa (慧日破諸闇、能伏災風火, trời tuệ phá tối tăm, hàng phục tai gió lửa).” Hoặc như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 31, phần Trùng Khắc Ngũ Đăng Hội Nguyên Tự (重刻五燈會元序), cũng có đoạn: “Toại sử tông phong quảng diễn, huệ nhật cao huyền, nhiên trường dạ chi đăng, quần hôn đốn hiểu (遂使宗風廣衍、慧日高懸、燃長夜之燈、群昏頓曉, bèn khiến tông phong lan khắp, trời tuệ lên cao, đốt đêm dài đuốc soi, tối tăm sáng tỏ).” Như trong Ngũ Đăng Hội Nguyên Mục Lục (五燈會元目錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1564) lại có đoạn rằng: “Thích Ca bất xuất thế, Đạt Ma bất Tây lai, Phật pháp biến đại địa, đàm huyền khẩu bất khai; đương thử thời dã, ngữ ngôn văn tự tung tích bất lai, bổng hát cơ duyên phong mang bất lộ, đãi phù niêm hoa thị chúng, khiên khởi trần lận cát đằng, lập tuyết an tâm, đột xuất Hiện Tiền Công Án, toại sử tông phong quảng diễn, huệ nhật cao huyền, nhiên trường dạ chi đăng, quần hôn đốn hiểu, niêm nhất hành chi thảo, pháp giới tề quan; giá xa tu thị đả ngưu, ma chuyên khởi năng tác kính, như linh đơn nhất lạp điểm thiết thành kim, chí lý nhất ngôn chuyển phàm thành Thánh (釋迦不出世、達磨不西來、佛法遍大地、譚玄口不開、當此時也、語言文字蹤跡不來、棒喝機緣鋒芒不露、逮夫拈花示眾、牽起陳爛葛藤、立雪安心、突出現前公案、遂使宗風廣衍、慧日高懸、燃長夜之燈、群昏頓曉、拈一莖之草、法界齊觀、駕車須是打牛、磨磚豈能作鏡、如靈丹一粒點鐵成金、至理一言轉凡成聖, Thích Ca không xuất thế, Đạt Ma chẳng Tây đến, Phật pháp khắp đại địa, đàm đạo miệng chẳng bày; ngay chính lúc này, ngôn ngữ văn tự dấu tích chẳng có, đánh hét cơ duyên mũi đâm không hé, đến khi đưa hoa dạy chúng, liền khởi bày đốt dây leo, đứng tuyết an tâm, chợt xuất Hiện Tiền Công Án, bèn khiến tông phong rộng mở, trời tuệ lên cao, đốt đêm dài đèn soi, chúng mê hiểu ngộ; đưa một nhành cỏ dại, pháp giới cùng xem; cỡi xe nên tập đánh trâu, mài ngói làm sao thành kính; như linh đơn một viên điểm thép thành vàng, chí lý một lời chuyển phàm thành Thánh).” Trong Lễ Sám Văn (禮懺文, Taishō Vol. 85, No. 2854) có câu: “Nhược dục sám hối giả, đoan tọa quán thật tướng, chúng tội như sương lộ, huệ nhật năng tiêu trừ; thị cố ưng chí tâm, cần sám Lục Căn tội (若欲懺悔者、端坐觀實相、眾罪如霜露、慧日能消徐、是故應至心、懃懺六根罪, nếu muốn hành sám hối, ngồi ngay quán thật tướng, các tội như sương móc, trời tuệ thể tiêu trừ; cho nên phải chí tâm, siêng sám tội Sáu Căn).”
(香積): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Tên gọi của vị Phật ở thế giới của các loại hương thơm. Như trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh (維摩詰所說經, Taishō Vol. 14, No. 475) quyển Hạ, Phẩm Hương Tích Phật (香積佛品) thứ 10, có đoạn: “Thượng phương giới phân quá tứ thập nhị Hằng hà sa Phật độ, hữu quốc danh Chúng Hương, Phật hiệu Hương Tích, kim hiện tại kỳ quốc hương khí, tỷ ư thập phương chư Phật thế giới nhân thiên chi hương, tối vi đệ nhất; bỉ độ vô hữu Thanh Văn, Bích Chi Phật danh, duy hữu thanh tịnh đại Bồ Tát chúng, Phật vi thuyết pháp; kỳ giới nhất thiết giai dĩ hương tác lâu các, kinh hành hương địa, uyển viên giai hương, kỳ thực hương khí, châu lưu thập phương vô lượng thế giới (上方界分過四十二恆河沙佛土、有國名眾香、佛號香積、今現在其國香氣、比於十方諸佛世界人天之香、最爲第一、彼土無有聲聞、辟支佛名、唯有清淨大菩薩眾、佛爲說法、其界一切皆以香作樓閣、經行香地、苑園皆香、其食香氣、周流十方無量世界, thế giới phương trên phân quá bốn mươi hai Hằng hà sa cõi Phật, có nước tên là Chúng Hương [các loại hương], đức Phật hiệu là Hương Tích, nay hiện tại hương khí của nước ấy, so sánh với hương của trời người trong thế giới của mười phương các đức Phật, tột cùng số một; quốc độ kia không có tên Thanh Văn, Bích Chi Phật, chỉ có chúng đại Bồ Tát thanh tịnh, Phật vì họ thuyết pháp; thế giới ấy tất cả đều lấy hương làm thành lầu gác, kinh hành nơi đất hương, vườn nhà đều ngát hương, họ ăn hương khí, cùng khắp mười phương vô lượng thế giới).” (2) Chỉ cõi nước Phật, tự viện Phật Giáo. Như trong bài thơ Thu Dạ Túc Công Phòng Hỷ Phổ Môn Thượng Nhân Tư Dương Tiện Sơn Chí (秋夜肅公房喜普門上人自陽羡山至) của Lưu Trường Khanh (劉長卿, 709-780) nhà Đường có câu: “Tảo vãng lai Hương Tích, hà nhân trú Ốc Châu (早晚來香積、何人住沃洲, sớm chiều đến Hương Tích, người nào sống Ốc Châu).” Hay trong bài thơ Quá Trung Phong Lễ Thương Công Tháp (過中峰禮蒼公塔) của Ngô Vĩ Nghiệp (吳偉業, 1609-1671) nhà Thanh cũng có câu: “Điểu đề hương tích tán, hoa lạc ảnh đường cô (鳥啼香積散、花落影堂孤, chim kêu chùa tan tác, hoa rụng bóng nhà đơn).” (3) Chỉ thức ăn của chúng tăng hay Đạo sĩ. Như trong bài thơ Lão Trần Đạo Nhân Tự Vân Mộng Bị Chiêu Tác Địa Thượng Chủ Giả Hựu Thường Thọ Nhất Quý Gia Cúng Chúc Chi Viết Tha Nhật Tất Lai Ngô Gia Tác Nhi Hí Tặng Tiểu Tụng (老陳道人自雲夢被召作地上主者又常受一貴家供祝之曰他日必來吾家作兒戲贈小頌) của Phạm Thành Đại (范成大, 1126-1193) nhà Tống có câu: “Hạnh hữu thiên môn hương tích cúng, bất như tùy hỷ khử la trai (幸有千門香積供、不如隨喜去羅齋, may có ngàn nhà dâng cơm cúng, không bằng tùy hỷ bỏ mời ăn).” (4) Từ gọi tắt của Hương Tích Trù (香積廚, Bếp Hương Tích). Trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 3, phần Thỉnh Phật Văn (請佛文), có đoạn: “Sái phi phi chi pháp vũ, phiến táp táp chi từ phong, quảng khai Hương Tích chi trù, phổ hiến Tô Đà chi soạn (洒霏霏之法雨、扇颯颯之慈風、廣開香積之廚、普獻酥酡之饌, rưới lả tả ấy mưa pháp, quạt vù vù ấy gió từ, rộng mở Hương Tích bếp trời, cúng khắp Tô Đà cỗ lạt).” Hay trong Hoa Nghiêm Kinh Chú Sớ (華嚴經疏注, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 7, No. 234) quyển 4 lại có câu: “Hương Tích thế giới, xan hương phạn, nhi Tam Muội hiển; Cực Lạc Phật quốc, thính phong kha, nhi chánh niệm thành (香積世界、餐香飯、而三昧顯、極樂佛國、聽風柯、而正念成, Hương Tích thế giới, ăn cơm hương, mà Tam Muội tỏ; Cực Lạc Phật quốc, nghe gió lay, mà chánh niệm thành).”
(荆溪湛然, Keikei Tannen, 711-782): vị tăng sống dưới thời nhà Đường, tổ thứ 9 của Thiên Thai Tông Trung Quốc, người vùng Kinh Khê (荆溪), Thường Châu (常州, tức Nghi Hưng, Giang Tô), họ Thích (戚), cả nhà đều theo Nho Giáo, chỉ mình ông thích Phật pháp. Năm 17 tuổi, ông học Thiên Thai Chỉ Quán (天台止觀) với Kim Hoa Phương Nham (金華芳巖), đến năm 20 tuổi theo làm môn hạ của Tả Khê Huyền Lãng (左溪玄朗), dốc chí học tập giáo quán Tông Thiên Thai. Năm 38 tuổi, ông xuất gia ở Tịnh Lạc Tự (淨樂寺) vùng Nghi Hưng (宜興), rồi đến Việt Châu (越州) học luật với Đàm Nhất (曇一) và sau đó giảng Chỉ Quán ở Khai Nguyên Tự (開元寺), Quận Ngô (呉郡). Sau khi thầy mình qua đời, ông kế thừa pháp tịch, tự nhận trách nhiệm trùng hưng Thiên Thai Tông, đưa ra thuyết “vô tình hữu tánh (無情有性)”, chủ trương các loài cỏ cây, sỏi đá đều có Phật tánh. Ông đã từng sống qua các chùa Lan Lăng (蘭陵), Thanh Lương (清涼), và khi ông đến nơi đâu thì chúng theo học rất đông, tiếng tăm vang khắp. Trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Bảo (天寳) và Đại Lịch (大曆), các vua Huyền Tông, Túc Tông, Đại Tông đều ưu ái thỉnh vào cung, tuy nhiên ông cáo bệnh không đi. Đến cuối đời, ông đến trú tại Thiên Thai Quốc Thanh Tự (天台國清寺). Vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến Trung (建中), ông thị tịch tại đạo tràng Phật Lũng (佛隴), thọ 72 tuổi đời và 43 hạ lạp. Đệ tử Lương Túc (梁肅) soạn văn bia. Ông là vị tổ trung hưng của Thiên Thai Tông, được người đời gọi là Kinh Khê Tôn Giả (荆溪尊者), Diệu Lạc Đại Sư (妙樂大師) hay Ký Chủ Pháp Sư (記主法師). Đệ tử của ông có 39 người như Đạo Thúy (道邃), Phổ Môn (普門), Nguyên Hạo (元皓), Trí Độ (智度), Hành Mãn (行滿), v.v. Bình sinh ông soạn thuật rất nhiều như Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa Thích Thiêm (法華經玄義釋籤) 10 quyển, Pháp Hoa Văn Cú Ký (法華文句記) 10 quyển, Chỉ Quán Phổ Hành Truyền Hoằng Quyết (止觀普行傳弘決) 10 quyển, Chỉ Quán Sưu Yếu Ký (止觀捜要記) 10 quyển, Chỉ Quán Đại Ý (止觀大意) 1 quyển, Kim Cang Phê Luận (金剛錍論) 1 quyển, Pháp Hoa Tam Muội Bổ Trợ Nghi (法華三昧補助儀) 1 quyển, Thủy Chung Tâm Yếu (始終心要) 1 quyển, Thập Bất Nhị Môn (十不二門) 1 quyển, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập