Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Phong Đô »»
(龐蘊居士, Hōun Koji, ?-808): vị cư sĩ môn hạ của Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一), tự Đạo Huyền (道玄), thông xưng là Bàng Cư Sĩ (龐居士), xuất thân Hành Dương (衡陽, Tỉnh Hồ Nam). Gia đình ông đời đời sùng tín Nho Giáo, nhưng ông lại lánh xa trần tục, chuyển đến Tương Dương (襄陽, Tỉnh Hồ Bắc), chuyên đan rỗ tre cho con gái đem ra chợ bán kiếm sống qua ngày. Khoảng đầu niên hiệu Trinh Nguyên (貞元, 785), ông đến tham yết Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷), lãnh ngộ được Thiền chỉ của vị này, rồi sau đó theo tham học với Mã Tổ trong vòng 2 năm. Bên cạnh đó, ông còn trao đổi vấn đáp qua lại với các Thiền tăng đương thời như Đơn Hà Thiên Nhiên (丹霞天然), Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼), Tề Phong (齊峰), Bách Linh (百靈), Tùng Sơn (松山), Đại Đồng Phổ Tế (大同普濟), Trường Tì Khoáng (長髭曠), Bổn Hoát (本豁), Đại Mai Pháp Thường (大梅法常), Phù Dung Thái Dục (芙蓉太毓), Tắc Xuyên (則川), Lạc Phố (洛浦), Thạch Lâm (石林), Ngưỡng Sơn (仰山), Cốc Ẩn Tư (谷隱孜), v.v. Suốt cả đời ông không mang hình thức tăng sĩ mà chỉ cư sĩ mà thôi, nhưng vẫn đạt được cảnh giới giác ngộ riêng biệt của mình, được gọi là Duy Ma Cư Sĩ của Trung Hoa. Hơn nữa, tương truyền ông còn có việc làm quái dị như đem tài sản chất lên thuyền rồi nhận chìm xuống đáy biển. Ngoài ra, ông còn được dịp tri ngộ vị Sắc Sứ Tương Châu Vu Do (于頔), và ngay khi lâm chung ông nằm kê đầu trên bắp đùi Vu Do mà thác hóa. Sau này chính Vu Do biên bộ Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục (龐居士語錄) 2 quyển để truyền bá Thiền phong độc đáo của Bàng Uẩn. Về năm tháng thị tịch của ông, bộ Tổ Đường Tập (祖堂集) cho rằng ông thị tịch vào ngày nhật thực, và căn cứ vào thời gian nhiệm kỳ Sắc Sứ của Vu Do tại Tương Châu, người ta cho rằng ông thị tịch vào ngày mồng 1 tháng 7 năm thứ 3 (808) niên hiệu Nguyên Hòa (元和). Ngoài ra, con gái ông là Linh Chiếu (靈照) cũng đã từng triệt ngộ Thiền chỉ.
(蒲室集, Hoshitsushū): 15 quyển 7 tập, ngoài ra còn có bản 5 tập và 10 tập, do Tiếu Ẩn Đại Hân (笑隱大訢) nhà Nguyên soạn, san hành dưới thời nhà Nguyên. Đây là tác phẩm biên tập toàn bộ Ngữ Lục, thi văn, thư vấn, sớ, v.v., của Tiếu Ẩn Đại Hân, pháp từ của Hối Cơ Nguyên Hy (晦機元熙). Tập I là Thiên Ngữ Lục được chia thành 4 quyển: quyển 1 có Ô Hồi Thiền Tự Ngữ Lục (烏回禪寺語錄, do nhóm Diên Tuấn [延俊] biên), Thiền Tông Đại Báo Quốc Thiền Tự Ngữ Lục (禪宗大報國禪寺語錄, do nhóm Huệ Đàm [慧曇] biên), Trung Thiên Trúc Thiền Tự Ngữ Lục (中天竺禪寺語錄, do nhóm Trung Tự [中字] biên); quyển 2 có Đại Long Tường Tập Khánh Tự Ngữ Lục (大龍翔集慶寺語錄, do nhóm Sùng Dụ [崇裕] biên); quyển 3 có các bài tán, kệ tụng, bia minh; quyển 4 có lời tựa, đề bạt. Tập II là thiên về thơ, được chia thành 5 quyển, có những bài cổ từ, cổ thi (tứ ngôn, ngũ ngôn, thất ngôn), luật thi (ngũ ngôn, thất ngôn). Tập III là thơ tuyệt cú (ngũ ngôn, thất ngôn), bài liễn, tựa. Tập IV là thiên ký lục. Tập V là thiên về văn bia, gồm các bài minh văn bia, bài minh tháp, lời bạt, tán, văn tế, v.v. Tập VI là thiên về thư vấn. Tập VII là thiên về sớ, gồm văn sớ và biểu trình tấu. Tại Nhật Bản, có Bản Ngũ Sơn (五山版, 20 quyển, phụ 1 quyển) được san hành vào năm thứ thứ 4 (1359) niên hiệu Diên Văn (延文), bản sao, bản chia ra san hành riêng. Tác phẩm này được giới văn nghệ Ngũ Sơn rất trân trọng và có một số sách chú thích như Bồ Thất Tập Chú Thích (蒲室集註釋) của Trung Nham Viên Nguyệt (中巖圓月), Bồ Thất Tập Sao (蒲室集抄, còn có tên là Bồ Căn [蒲根]) của Nguyệt Chu Thọ Quế (月舟壽桂), Bồ Thất Sớ Sao (蒲室疏抄) của Nguyệt Khuê Thánh Trừng (月溪聖澄), Bồ Thất Bí Chỉ Tứ Lục Khẩu Quyết (蒲室祕旨四六口訣) của Cao Phong Đông Tuấn (高峰東晙), Bồ Thất Sớ Tục Khảo (蒲室疏續考) của cùng tác giả trên, Bồ Thất Tập Thư Vấn Chi Mạn Lược Sao (蒲室集書問枝蔓略抄) của Thử Sơn Huyền Uyên (此山玄淵), v.v.
(地府): còn gọi là Âm Tào Địa Phủ (陰曹地府), chỉ dưới lòng đất, tên gọi khác của Địa Ngục. Tại Trung Quốc, phần lớn các điển tịch thần thoại cổ đại cũng như của Phật Giáo đều có đề cập đến tên gọi Âm Tào Địa Phủ. Người dân Trung Quốc chia thế giới vạn vật làm hai cực: đó là học thuyết âm dương, là thành phần quan trọng của học thuyết cổ đại Trung Quốc; như Trời (dương) và Đất (âm), nam (dương) và nữ (âm), mặt trời (dương) và mặt trăng (âm). Hơn nữa, tại Trung Quốc còn có học thuyết Ba Cõi: trên trời, con người và địa ngục. Họ cho rằng mỗi con người đều có linh hồn, 3 hồn hay 7 hồn. Sau khi con người chết đi, trước hết sẽ đọa xuống cõi Âm Tào Địa Phủ để chịu sự xét xử, thọ nhận quả báo, hình phạt; được vị phán quan cõi âm là Diêm La Vương (閻羅王) phán xét. Nếu ai trên dương gian làm việc thiện, tu nhân tích đức, sẽ đắc đạo thành tiên, sanh về cõi trời, được trường sanh bất tử. Nếu người chuyên làm việc ác, sẽ bị trừng phạt trong 18 tầng Địa Ngục dưới Âm Phủ. Người trung quốc xưa cho rằng trên trời có Ngọc Hoàng Thượng Đế chưởng quản, ở phương Tây có Phật Tổ Như Lai, trên đời có Hoàng Đế cai trị; còn cõi âm thì có Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) cũng như các vua khác chủ quản. Theo truyền thuyết, người chưởng quan tối cao cõi Địa Phủ là Thiên Tề Nhân Thánh Đại Đế (天齊仁聖大帝), cai quản toàn thể sanh linh vạn vật. Kế đến là Bắc Âm Phong Đô Đại Đế (北陰酆都大帝). Sau đó có các Quỷ Đế (鬼帝, vua quỷ) ở 5 phương: Đông Phương Quỷ Đế Thái Uất Lũy (東方鬼帝蔡鬱壘), còn gọi là Thần Trà (神荼), cai quản Quỷ Môn Quan (鬼門關) ở Đào Chỉ Sơn (桃止山); Tây Phương Quỷ Đế Triệu Văn Hòa (西方鬼帝趙文和), còn gọi là Vương Chân Nhân (王真人), cai quản Ba Trủng Sơn (嶓塚山); Bắc Phương Quỷ Đế Trương Hành (北方鬼帝張衡), còn gọi là Dương Vân (楊雲), cai quản La Phong Sơn (羅酆山); Nam Phương Quỷ Đế Đỗ Tử Nhân (南方鬼帝杜子仁), cai quản La Phù Sơn (羅浮山); Trung Ương Quỷ Đế Chu Khất (中央鬼帝週乞), còn gọi là Khể Khang (稽康), cai quản Bão Độc Sơn (抱犢山). Bên dưới là 6 vị trời La Phong (羅酆), tức là những vị Thủ Cung Thần (守宮神), gồm: Trụ Tuyệt Âm Thiên Cung (紂絕陰天宮), Thái Sát Lượng Sự Tông Thiên Cung (泰煞諒事宗天宮), Minh Thần Nại Phạm Võ Thành Thiên Cung (明晨耐犯武城天宮), Điềm Chiêu Tội Khí Thiên Cung (恬昭罪氣天宮), Tông Linh Thất Phi Thiên Cung (宗靈七非天宮), Cảm Ty Liên Uyển Lũ Thiên Cung (敢司連宛屢天宮). Tuy nhiên, truyền thuyết cho rằng chốn Âm Tào Địa Phủ là do Thập Điện Diêm La Vương (十殿閻羅王) thống quản: Tần Quảng Vương (秦廣王), Sở Giang Vương (楚江王), Tống Đế Vương (宋帝王), Ngũ Quan Vương (五官王), Diêm La Vương (閻羅王), Bình Đẳng Vương (平等王), Thái Sơn Vương (泰山王), Đô Thị Vương (都市王), Biện Thành Vương (卞城王), Chuyển Luân Vương (轉輪王). Dưới Thập Điện Diêm La Vương còn có các vị thần khác như Thủ Tịch Phán Quan Thôi Phủ Quân (首席判官崔府君), Chung Khôi (鍾魁), Hắc Bạch Vô Thường (黑白無常), Ngưu Đầu Mã Diện (牛頭馬面), Mạnh Bà Thần (孟婆神), v.v.
(洞山良价, Dōzan Ryōkai, 807-869): người Huyện Chư Kỵ (諸曁), Việt Châu (越州, Tỉnh Triết Giang), họ là Du (兪). Ông xuất gia từ hồi còn nhỏ, theo tu học với Linh Mặc (靈默) ở Ngũ Duệ Sơn (五睿山), đến năm 21 tuổi thì thọ Cụ Túc giới với Luật Sư Duệ ở Tung Sơn (嵩山). Ông đã từng tham yết Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐), và học với Vân Nham Đàm Thịnh (雲巖曇晟), rồi cuối cùng kế thừa dòng pháp của vị này. Gặp nạn phế Phật Hội Xương (845), ông ẩn thân lánh nạn, rồi trong khoảng niên hiệu Đại Trung (大中, 847-860), ông vào ở trong Tân Phong Động (新豐洞), vùng Cao An (高安), Dự Chương (豫章, Tỉnh Giang Tây), và nhờ sự quy y của Lôi Hoành, ông xây dựng ngôi Động Sơn Quảng Phước Tự (洞山廣福寺, tức Phổ Lợi Thiền Viện [普利禪院]). Vào ngày mồng 8 tháng 3 năm thứ 10 (869) niên hiệu Hàm Thông (咸通), ông thị tịch, hưởng thọ 63 tuổi đời và 42 hạ lạp. Ông được ban cho thụy hiệu là Ngộ Bổn Đại Sư (悟本大師), về sau được kính ngưỡng như là vị Cao Tổ của Tào Động Tông Trung Quốc. Môn hạ của ông có một số nhân vật xuất chúng như Vân Cư Đạo Ưng (雲居道膺), Tào Sơn Bổn Tịch (曹山本寂), Sơ Sơn Khuông Nhân (疎山匡仁), v.v.
(賴山陽, Rai Sanyō, 1780-1832): Nho gia, thi nhân, và là sử gia sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; tên là Tương (襄); thông xưng là Cửu Thái Lang (久太郎); tự Tử Thành (子成); biệt hiệu là Tam Thập Lục Phong Ngoại Sử (三十六峰外史); xuất thân vùng Đại Phản (大阪, Ōsaka); sau ông cùng với cha chuyển đến Quảng Đảo (廣島, Hiroshima). Phụ thân ông là Lại Xuân Thủy (賴春水), Nho quan của Phiên Quang Đảo (廣島藩, Hiroshima-han). Ban đầu, ông theo học với chú Lại Hạnh Bình (賴杏坪). Năm lên 18 tuổi, nhờ Vĩ Đằng Nhị Châu (尾藤二洲) giúp đỡ, ông rời khỏi Giang Hộ; đến năm 21 tuổi thì bỏ đi phóng lãng, rồi phạm tội nên cấm túc ở tư gia. Nhất thời ông có làm việc cho Quản Trà Sơn (菅茶山, Kan Sazan) phụ trách trường dạy học Tư Thục; đến năm 1811 (Văn Hóa [文化] 8), ông mở trường dạy học ở kinh đô Kyoto, và mở phòng đọc sách lấy tên là Sơn Tử Thủy Minh Xứ (山紫水明處). Từ đó trở về sau, ông lấy nơi đây làm cứ điểm hoạt động. Ông rất giỏi về thơ văn và Thư Đạo. Bộ Nhật Bản Ngoại Sử (日本外史) viết về lịch sử hưng vong của hàng Võ Gia do ông trước tác trong thời gian bế quan, đã được tầng lớp có chí khí cũng như văn nhân, trí thức đương thời rất thích đọc. Các tác phẩm khác có Nhật Bản Chính Ký (日本政記) Nhật Bản Lạc Phủ (日本樂府), Sơn Dương Thi Sao (山陽詩鈔), v.v.
(梅月): chỉ cho tháng 4 Âm Lịch, và cũng chỉ chung cho thời tiết Mai Vũ (梅雨). Như trong bài thơ Ký Vương Địch (寄王滌) của Quán Hưu (貫休, 832-912) nhà Đường có câu: “Mai Nguyệt đa khai hộ, y thường nhuận dục trích, tịch liêu tuy vô hình, bất thị tiểu thù địch (梅月多開戶、衣裳潤欲滴、寂寥雖無形、不是小讎敵, tháng Tư cửa bày mở, áo quần ướt đẩm giọt, vắng vẻ chẳng bóng hình, chẳng phải nào thù địch).” Hay như trong bài thơ Tàng Mặc Quyết (藏墨訣) của Lý Đình Khuê (李廷珪, ?-?) nhà Nam Đường lại có câu: “Tị thử huyền cát nang, lâm phong độ mai nguyệt (避暑懸葛囊、臨風度梅月, tránh nóng treo túi dây, gặp gió qua tháng Tư).” Trong Tây Nham Liễu Huệ Thiền Sư Ngữ Lục (西巖了慧禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1391) quyển Hạ có đoạn: “Dữ Mai Nguyệt tùng phong, kết tận đa thiểu khẩu nghiệp, thử nghiệp thâm hậu, bất tự giác tri (與梅月松風、結盡多少口業、此業深厚、不自覺知, cùng gió tùng tháng Tư, kết tận ít nhiều khẩu nghiệp, nghiệp này sâu dày, chẳng tự biết được).”
(梅月): chỉ cho tháng 4 Âm Lịch, và cũng chỉ chung cho thời tiết Mai Vũ (梅雨). Như trong bài thơ Ký Vương Địch (寄王滌) của Quán Hưu (貫休, 832-912) có câu: “Mai Nguyệt đa khai hộ, y thường nhuận dục trích, tịch liêu tuy vô hình, bất thị tiểu thù địch (梅月多開戶、衣裳潤欲滴、寂寥雖無形、不是小讎敵, tháng Tư cửa bày mở, áo quần ướt đẩm giọt, vắng vẻ chẳng bóng hình, chẳng phải nào thù địch).” Hay như trong bài thơ Tàng Mặc Quyết (藏墨訣) của Lý Đình Khuê (李廷珪, ?-?) nhà Nam Đường lại có câu: “Tị thử huyền cát nang, lâm phong độ mai nguyệt (避暑懸葛囊、臨風度梅月, tránh nóng treo túi dây, gặp gió qua tháng Tư).” Trong Tây Nham Liễu Huệ Thiền Sư Ngữ Lục (西巖了慧禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1391) quyển Hạ có đoạn: “Dữ Mai Nguyệt tùng phong, kết tận đa thiểu khẩu nghiệp, thử nghiệp thâm hậu, bất tự giác tri (與梅月松風、結盡多少口業、此業深厚、不自覺知, cùng gió tùng tháng Tư, kết tận ít nhiều khẩu nghiệp, nghiệp này sâu dày, chẳng tự biết được).”
(玉皇上帝): tên gọi của vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của Thiên Đình, với nhiều tôn xưng khác nhau như Hạo Thiên Thượng Đế (昊天上帝), Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝), Ngọc Đế (玉帝), Ngọc Hoàng (玉皇), Hạo Thiên Kim Khuyết Chí Tôn Ngọc Hoàng Đại Đế (昊天金闕至尊玉皇大帝), Huyền Khung Cao Thượng Ngọc Hoàng Đại Thiên Đế (玄穹高上玉皇大天帝), Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế (玉皇大天尊玄靈高上帝), hay dân gian thường gọi là Thiên Công (天公, Ông Trời). Dưới thời nhà Tống, vua Chơn Tông (眞宗, tại vị 997-1022) cũng như Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1125) đều có ban Thánh hiệu cho Ngọc Hoàng Đại Đế. Vua Chơn Tông ban cho Thánh hiệu là Thái Thượng Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chơn Thể Đạo Ngọc Hoàng Đại Thiên Đế (太上開天執符御歷含眞體道玉皇大天帝). Vua Huy Tông là Thái Thượng Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chơn Thể Đạo Hạo Thiên Ngọc Hoàng Thượng Đế (太上開天執符御歷含眞體道昊天玉皇上帝). Trong các kinh điển của Đạo Giáo tôn xưng là Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu Di La Chí Chơn Ngọc Hoàng Đại Đế (昊天金闕無上至尊自然妙有彌羅至眞玉皇大帝). Ngài được xem như là một vị thần minh tối cao của Đạo Giáo, địa vị chỉ dưới Tam Thanh Tôn Thần (三清尊神) mà thôi. Dưới con mắt thế tục, Ngài được kính ngưỡng như vị thần tối vĩ đại, là vua trong các vị thần. Theo truyền thuyết dân gian, Ngọc Hoàng Thượng Đế không những thọ mạng Thiên Tử thống trị con người, mà còn cai quản cả Tam Giáo Nho, Lão, Thích, cùng với chư vị thần tiên của ba đạo này, cũng như các thiên thần, địa kỳ, người, quỷ đều thuộc quyền thống quản của Ngài. Ngoài việc quản lý ba cõi Thiên, Địa, Nhân, Ngọc Hoàng Đại Đế còn trông coi về sự hưng long, suy bại, tốt xấu, phước họa của vũ trụ vạn vật. Thuộc hạ quản lý về học vụ có Văn Xương Đế Quân (文昌帝君); về thương vụ có Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君); về công vụ có Công Thánh Tiên Sư (巧聖先師); về nông vụ có Thần Nông Tiên Đế (神農先帝); về việc địa phương có Đông Nhạc Đại Đế (東岳大帝), Thanh Sơn Vương (青山王), Thành Hoàng Da (城隍爺), Cảnh Chủ Công (境主公), Thổ Địa Công (土地公), Địa Cơ Chủ (地基主); về cõi âm có Phong Đô Đại Đế (酆都大帝) và Thập Điện Diêm Vương (十殿閻王). Theo lý luận của Đạo Giáo, Trời có 13 tầng, mỗi tầng có 3 vạn dặm, địa phương ngoài Trời ra được gọi là Vô Cực (無極), cõi trong Trời là Thái Cực (太極). Ngọc Hoàng Đại Đế là thần linh tối cao vô thượng trong vũ trụ, hết thảy chư thần linh đều phải vâng lịnh Ngài. Cõi Trời Thái Cực chia thành 5 cõi Trời khác nhau: Trung Thiên (中天) có Ngọc Hoàng Đại Đế an ngự, trên chưởng quản 36 cõi trời, ba ngàn thế giới, dưới trông coi 72 cõi, hết thảy sinh linh. Đông Thiên (東天) có Tam Quan Đại Đế (三官大帝), chủ quản ban phước, kéo dài tuổi thọ, giải trừ tai ách, xá tội, tiêu nạn. Nam Thiên (南天) có Văn Hành Thánh Đế (文衡聖帝), chủ quản việc ủy nhiệm chư thần linh, lên xuống, khảo sát, xem xét công tội của các thần. Tây Thiên (西天) có Thích Ca Mâu Ni (釋迦牟尼), chủ quản việc tín ngưỡng, quy y của con người. Bắc Thiên (北天) có Tử Vi Đại Đế (紫微大帝), chủ quản việc ban phước, tiêu tai, ban bố tài lộc. Về lai lịch của Ngài, theo Cao Thượng Ngọc Hoàng Bản Hạnh Tập Kinh (高上玉皇本行集經) của Đạo Giáo cho rằng vào thời xa xưa có một trú xứ tên Quang Nghiêm Diệu Lạc Quốc (光嚴妙樂國); Quốc Vương xứ này là Tịnh Đức Vương (淨德王), Hoàng Hậu là Bảo Nguyệt Quang (寶月光). Cả hai đều lớn tuổi nhưng không có con nối dõi. Bỗng một đêm nọ, bà mộng thấy Thái Thượng Lão Quân (太上老君) ẵm một đứa hài nhi đưa vào trong bài thai của Hoàng Hậu. Bà cung kính đón nhận, đến khi tỉnh dậy mới hay rằng mình đã có thai. Mang thai tròn 12 tháng, rồi đến ngày mồng 9 tháng giêng năm Bính Ngọ thì hạ sinh Thái Tử. Ngay từ lúc nhỏ, Thái Tử đã thông tuệ, đến khi lớn lên phụ tá cho Quốc Vương rất đắc lực, thương dân, làm việc thiện, cứu người nghèo khổ. Sau khi vua cha băng hà, Thái Tử từ bỏ ngôi vị, vào trong Phổ Minh Hương Nham Sơn (普明香岩山) tu đạo, trãi qua 3.200 kiếp, mới chứng được Kim Tiên, hiệu là Tự Nhiên Giác Hoàng. Sau đó, lại trãi qua cả ức kiếp mới chứng thành Ngọc Đế, hy sinh thân mạng để cứu độ chúng sanh. Từ đó, mồng 9 tháng giêng hằng năm được xem như là ngày khánh đản của Ngọc Hoàng Đại Đế. Tại các Đạo Quán đều có thiết lễ dâng cúng, gọi là Ngọc Hoàng Hội (玉皇會) để cầu nguyện phước quả, sống lâu. Tại tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc cũng như Đài Loan, ngày này được gọi là ngày Bái Thiên Công (拜天公, Lạy Ông Trời); cho nên cả gia đình lớn nhỏ, già trẻ đều giữ gìn trai giới, tắm rửa sạch sẽ, dâng hương hành lễ, vái lạy, tụng kinh. Thời xưa, ở phương Bắc của Trung Quốc có tục lệ tế lễ Ngọc Hoàng, rước tượng Ngài đi cùng khắp thôn xóm. Tương truyền 25 tháng 12 là ngày Ngọc Hoàng Đại Đế hà phàm tuần tra nhân gian, cho nên các Đạo Quán cũng như trong dân gian đều có thắp hương, tụng kinh để nghênh đón Ngài. Trong Đạo Mẫu của Việt Nam, Ngọc Hoàng được gọi là Vua Cha Ngọc Hoàng, là cha của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Trong bài Mộng Tiên (夢仙), Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) có đoạn thơ xưng tán Ngọc Hoàng Đại Đế rằng: “An kỳ tiện môn bối, liệt thị như công khanh, ngưỡng yết Ngọc Hoàng Đế, khể thủ tiền trí thành (安期羨門輩、列侍如公卿、仰謁玉皇帝、稽首前致誠, mong sao lòng kẻ mọn, hầu hạ như công khanh, ngưỡng tâu Ngọc Hoàng Đế, cúi đầu tâm chí thành).
(雅範): chỉ phong độ thoát tục, phẩm cách cao thượng. Như trong bài Thù Đức Phú (酬德賦) của Tạ Thiếu (謝朓, 464-499) nhà Tề thời Nam Triều có câu: “Viên nhã phạm dĩ tự tuy, ý tiền tu chi sở úc (援雅範以自綏、懿前修之所勖, nương phong độ để tự yên, đức tu trước nên cố gắng).” Hay trong tác phẩm Quế Lâm Sương (桂林霜), phần Hoàn Trung (完忠), của Tưởng Sĩ Thuyên (蔣士銓, 1725-1784) nhà Thanh lại có câu: “Cửu ngưỡng hồng danh, hạnh chiêm nhã phạm (久仰鴻名、幸瞻雅範, lâu ngưỡng tiếng thơm, may nhìn phong cách).”
(豐儀、丰儀): thể hiện phong độ uy nghi. Như trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1456) quyển 55, bài Đại Minh Lô Sơn Ngũ Nhũ Phong Pháp Vân Thiền Tự Tiền Trung Hưng Tào Khê Từ Pháp Hám Sơn Đại Sư Tháp Minh (大明廬山五乳峰法雲禪寺前中興曹溪嗣法憨山大師塔銘), có đoạn: “Phục như Tào Khê, đương niên chi thất thập hữu bát, lạp chi lục thập, thị vi Thiên Khải Quý Hợi, tiên ư huyền hồ giả nhất nhật nhi thị tịch yên, sư phong nghi từ mãn, thần tình ngưng định, vọng chi tợ A La Hán (復如曹溪、當年之七十有八、臘之六十、是為天啟癸亥、先於懸弧者一日而示寂焉、師丰儀慈滿、神情凝定、望之似阿羅漢, lại như Tào Khê, năm ấy là bảy mươi tám tuổi, Hạ Lạp sáu mươi, nhằm vào năm Quý Hợi [1623] niên hiệu Thiên Khải [đời vua Hy Tông nhà Minh], trước ngày nhà vua sanh con trai thì thị tịch vậy; sư có phong thái từ bi, thần tình định tĩnh, nhìn vào giống như A La Hán).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.34 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập