Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Phi tích »»
(緇衣): hay truy y, còn gọi là hắc y (黑衣), mặc y (墨衣), tức áo nhuộm màu đen, pháp y màu đen, là y phục thường dùng của tăng lữ. Từ này còn được dùng để chỉ cho tăng lữ, đồng nghĩa với chuy lưu (緇流), chuy môn (緇門), chuy đồ (緇徒); đối nghĩa với bạch y (白衣, áo trắng), được dùng cho cư sĩ tại gia. Chư tăng thuộc Thiền Tông thường dùng loại y màu đen này. Dưới thời nhà Tống (宋, 420-479) có vị tăng Huệ Lâm (慧琳) thường hay mặc áo đen tham nghị việc triều chính, được Khổng Khải (孔凱) gọi là Hắc Y Tể Tướng (黑衣宰相). Hay hai vị tăng Huệ Dữ (慧與) và Huyền Sướng (玄暢) ở Trúc Lâm Tự (竹林寺), Kinh Châu (荊州), sống vào đầu nhà Tề (齊, 479-502) được gọi là Hắc Y Nhị Kiệt (黑衣二傑). Cho nên, từ truy y trở thành tên gọi chuyên dùng cho vị Sa Môn (沙門). Trong Đại Tống Tăng Sử Lược (大宋僧史略) của Tán Ninh (讚寧) quyển Thượng trích dẫn phần Khảo Công Ký (考工記), có đoạn giải thích về truy y có màu sắc như thế nào: “Vấn: 'Truy y giả, sắc hà trạng mạo ?' Đáp: 'Tử nhi thiển hắc, phi chánh sắc dã' (問、緇衣者、色何狀貌、答、紫而淺黑、非正色也, Hỏi: 'Truy y, màu sắc của nó có hình dáng thế nào ?' Đáp: 'Màu tía mà đen nhạt, không phải thuần đen').” Như trong câu 5 trong 12 câu thỉnh Cô Hồn tương truyền do Thi Sĩ Tô Đông Pha (蘇東坡, 1036-1101) sáng tác, có đoạn: “Nhất tâm triệu thỉnh: Xuất trần thượng sĩ, Phi tích cao tăng, tinh tu Ngũ Giới tịnh nhân, phạm hạnh Tỳ Kheo Ni chúng, hoàng hoa thúy trúc, không đàm bí mật chơn thuyên, bạch cổ lê nô, tùng diễn khổ không diệu kệ. Ô hô ! Kinh song lãnh tẩm tam canh nguyệt, Thiền thất hư minh bán dạ đăng. Như thị truy y Thích tử chi lưu, nhất loại cô hồn đẳng chúng (一心召請、出塵上士、飛錫高僧、精修五戒淨人、梵行比丘尼眾、黃花翠竹、空談秘密眞詮、白牯黧奴、徒演苦空妙偈、嗚呼、經窗冷浸三更月、禪室虛明半夜燈、如是緇衣釋子之流、一類孤魂等眾, Một lòng triệu thỉnh: ly trần thượng sĩ, chứng đạt cao tăng, chuyên tu Năm Giới tịnh nhân, các Tỳ Kheo Ni phạm hạnh, hoa vàng trúc biếc, chơn pháp bí mật luận không, trâu trắng mèo đen, nhọc thuyết khổ không diệu kệ. Than ôi ! Trăng canh ba qua cửa lạnh thấm, đèn nửa khuya Thiền thất ảo mờ. Như vậy dòng tu sĩ mặc áo thâm đen, một loại cô hồn các chúng).” Hoặc trong bài thơ Vô Đề (無題) của vua Trần Thái Tông (陳太宗, tại vị 1225-1258) Việt Nam có câu: “Nhất úng tao khang khúc nhưỡng thành, kỷ đa trí giả một thông minh, phi duy độc phá truy lưu giới, bại quốc vong gia tự thử sinh (一甕糟糠麴釀成、幾多智者沒聰明、非惟獨破緇流戒、敗國亡家自此生, một vò bã rượu ủ men thành, bao người trí tuệ chẳng thông minh, chẳng riêng phá giới tu hành kẻ, bại nước mất nhà tự đây sinh).” Tuy nhiên, trong Thủy Kinh Chú (水經注) quyển 6 của Li Đạo Nguyên (酈道元, ?-527) nhà Bắc Ngụy (北魏, 386-534), gọi các đạo sĩ hái thuốc là “Truy phục tư huyền chi sĩ (緇服思玄之士, hạng người mặc áo đen và tư duy những điều huyền nhiệm).” Như vậy, chúng ta có thể biết được rằng màu đen là phục sắc của tôn giáo từ ngày xưa, không phải chỉ riêng Phật Giáo. Cả Thích Giáo lẫn Đạo Giáo phần lớn đều giống nhau, chỉ khác nhau ở mũ đội trên đầu. Cuối cùng, mũ vàng là loại chuyên dụng của đạo sĩ, áo đen là biệt hiệu của tăng sĩ; và dần dần y phục màu đen trở thành phục sắc chính của tu sĩ Phật Giáo. Trong Bắc Sử (北史) quyển 2, Thượng Đảng Cang Túc Vương Hoán Truyện (上黨剛肅王煥傳) có chi tiết cho hay rằng: “Sơ Thuật thị ngôn: 'Vong cao giả, hắc y, do thị tự Thần Võ Hậu mỗi xuất môn bất dục kiến tang môn, vi hắc y cố dã' (初術氏言、亡高者黑衣、由是自神武后每出門不欲見桑門、為黑衣故也, ban đầu họ Thuật bảo rằng: 'Người mất tuổi cao thì mặc áo đen, do vậy từ khi Thần Võ Hậu mỗi lần ra cổng thành thì chẳng muốn thấy tăng sĩ, vì họ mặc áo đen').” Qua đó, chúng ta biết rằng nhà vua kỵ gặp Sa Môn Phật Giáo, chứ không phải đạo sĩ. Sau này Chu Võ Đế (周武帝, 560-578) nhân lời sấm ngữ này mà cấm tu tăng sĩ mặc sắc phục màu đen, và ra lịnh đổi thành màu vàng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân vì sao ngày nay tu sĩ Việt Nam mặc y phục màu vàng. Sắc phục hiện tại của tu sĩ Phật Giáo các nước tập trung chủ yếu ở 4 màu: vàng đậm, vàng, đen, xám. Trong Lương Hoàng Sám (梁皇懺) quyển 3 có câu: “Nguyện Phật nhật dĩ đương không, chiếu u đồ chi khổ thú, cưu Tam Học chi truy lưu, lễ tam thiên chi Đại Giác, ngã tâm khẩn khẩn, Phật đức nguy nguy, ngưỡng khấu hồng từ, minh huân gia bị (願佛日以當空、照幽途之苦趣、鳩三學之緇流、禮三千之大覺、我心懇懇、佛德巍巍、仰叩洪慈、冥熏加被, nguyện trời Phật thường trên không, chiếu tối tăm chốn nẻo khổ, chuyên Tam Học bậc tu hành, lạy ba ngàn đấng Đại Giác, tâm con khẩn thiết, đức Phật vời vợi, ngưỡng lạy ơn từ, thầm thương gia hộ).”
(覺靈): linh hồn đã giác ngộ, hay đã tìm thấy con đường; từ này được dùng cho các vị xuất gia đã viên tịch. Chữ giác (s, p: bodhi, 覺) ở đây có âm dịch là Bồ Đề (菩提), là trí tuệ chứng ngộ diệu lý Niết Bàn; cựu dịch là đạo (道), tân dịch là giác. Như trong Thiền Uyển Thanh Quy (禪苑清規, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1245) quyển 7, phần Vong Tăng (亡僧), có đoạn dùng từ giác linh này cho vị tu sĩ qua đời: “Dụng biểu vô thường, ngưỡng bằng tôn chúng, phụng vị một cố mỗ nhân Thượng Tọa, tư tợ giác linh vãng sanh Tịnh Độ (用表無常、仰憑尊眾、奉爲歿故某人上坐、資助覺靈往生淨土, thể hiện vô thường, ngưỡng mong đại chúng, kính vì Thượng Tọa … đã qua đời, trợ giúp giác linh vãng sanh Tịnh Độ).” Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 6, phần Vong Tăng (亡僧), còn cho biết rằng: “Bài thượng thư vân: 'Tân viên tịch mỗ giáp Thượng Tọa giác linh' (牌上書云、新圓寂某甲上座覺靈, trên bài vị ghi rằng: 'Giác linh Thượng Tọa … mới viên tịch').” Hay trong Tế Điên Đạo Tế Thiền Sư Ngữ Lục (濟顚道濟禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1361) cũng có đoạn rằng: “Cung duy viên tịch Tử Hà Đường Thượng Tánh Không Đại Hòa Thượng Bổn Công giác linh (恭惟圓寂紫霞堂上性空大和尚本公覺靈, kính nghĩ giác linh Bổn Công Đại Hòa Thượng Tánh Không Tử Hà Đường Thượng đã viên tịch).” Ngay cả trong văn thỉnh 12 loại cô hồn của Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083), đoạn thỉnh các tu sĩ quá cố cũng dùng từ giác linh này: “Nhất tâm triệu thỉnh, xuất trần thượng sĩ, Phi tích cao tăng, tinh tu Ngũ Giới tịnh nhân, Phạm hạnh Tỳ Kheo Ni chúng, …, như thị chuy y Thích tử chi lưu, nhất loại giác linh đẳng chúng (一心召請、出塵上士、飛錫高僧、精修五戒淨人、梵行比丘尼眾…如是緇衣釋子之流、一類覺靈等眾, một lòng triệu thỉnh, xuất trần thượng sĩ, vân du cao tăng, ròng tu Năm Giới tịnh nhân, Phạm hạnh Tỳ Kheo Ni chúng, …, như vậy áo đen tu sĩ các dòng, một loại giác linh các chúng).”
(s: khakkhara, khakharaka, 錫杖): âm dịch là Khích Khí La (隙棄羅), Khế Khí La (喫棄羅), Ngật Cát La (吃吉羅), Ngật Khí La (吃棄羅); còn gọi là Thanh Trượng (聲杖), Thiền Trượng (禪杖), Minh Trượng (鳴杖), Trí Trượng (智杖), Đức Trượng (德杖), Kim Tích (金錫); gọi tắt là Trượng (杖); là một trong 18 vật thường dùng của vị Tỳ Kheo, là vật dụng thường mang đi trên đường. Nguyên lai, Tích Trượng được dùng để xua đuổi rắn độc, côn trùng, v.v. Hoặc khi đi khất thực, vị Tỳ Kheo chấn rung cây Tích Trượng, làm cho ở xa cũng nghe biết; và đời sau nó trở thành một trong những pháp khí. Trong quyển Hạ của Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi (大比丘三千威儀, Taishō Vol. 24, No. 1470), có giải thích rõ nguyên do cầm Tích Trượng như thế nào: “Nhất giả vi địa trùng cố, nhị giả vi niên lão cố, tam giả vi phần vệ cố (一者爲地虫故、二者爲年老故、三者爲分衛故, thứ nhất vì côn trùng dưới đất, thứ hai vì tuổi già, thứ ba vì để bảo vệ).” Tích Trượng được sử dụng không những chỉ để xua đuổi côn trùng độc hại, mà còn để báo cho biết khi đi khất thực, hay làm vật chống đỡ cho người lớn tuổi, già yếu. Trong quyển Hạ của Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi còn nêu rất rõ 25 điều cần phải biết đối vị Tỳ Kheo cầm Tích Trượng như “xuất nhập kiến Phật tượng, bất đắc sử đầu hữu thanh (出入見佛像、不得使頭有聲, khi ra vào thấy tượng Phật thì không được làm cho đầu trượng phát ra tiếng vang)”, “bất đắc trì trượng nhập chúng (不得持杖入眾, không được mang trượng vào trong chúng)”, “tam sư dĩ trì trượng xuất, bất đắc phục trì trượng tùy xuất (三師已持杖出、不得復持杖隨出, khi ba thầy đã mang trượng đi ra rồi, không được lại cầm trượng đi theo ra)”, v.v. Cho nên, việc sử dụng Tích Trượng được chế định rất nghiêm cẩn, chứ không được lạm dụng. Trên đầu Tích Trượng có những vòng tròn lớn nhỏ bằng thiếc, khi lắc phát ra tiếng kêu leng keng, nên có tên gọi là Thanh Trượng (聲杖, gậy phát ra âm thanh). Nó được dùng đi khắp các nơi, nên được gọi là Phi tích (飛錫), Tuần Tích (巡錫); nếu dừng một nơi mà trụ thì gọi là Lưu Tích (留錫). Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2076) quyển 8, có ghi lại câu chuyện của Thiền Sư Ẩn Phong (隱峰) ở Ngũ Đài Sơn (五臺山). Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (元和, 806-820) nhà Đường, trên đường lên Ngũ Đài Sơn, lúc đi ngang qua Hoài Tây (淮西), Thiền Sư gặp quan quân triều đình và giặc cướp đang giao tranh lẫn nhau, bất phân thắng bại; để hóa giải họa hoạn này, Thiền Sư bèn ném cây trượng lên không trung, phi thân bay qua. Khi ấy tướng sĩ của hai bên ngước lên nhìn mà khiếp hãi tưởng như trong giấc mơ, không còn tâm trí đánh nhau nữa. Câu chuyện này trở thành nổi tiếng trong Thiền lâm với thuật ngữ Phi tích cao tăng (飛錫高僧, vị tăng đức độ cỡi trên Tích Trượng mà bay đi, hay vị tăng đi du hành đó đây). Trong Thiên Thai Tông và Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, khi có pháp hội, người ta thường dùng loại Tích Trượng ngắn, vừa chấn rung vừa tụng thần chú. Về nguồn gốc của Tích Trượng, Căn Bổn Nhất Thuyết Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 34 có giải thích rằng nhân sự việc vị Tỳ Kheo đến nhà người khất thực, gặp vài trở ngại như lên tiếng báo cho biết, hay gõ cửa, v.v., đều bị quở trách; nên Phật chế dùng Tích Trượng như “trượng đầu an hoàn, viên như trản khẩu, an tiểu hoàn tử, dao động tác thanh nhi vi cảnh giác (杖頭安鐶、圓如盞口、安小鐶子、搖動作聲而爲警覺, gắn vòng tròn trên đầu trượng, tròn như miệng chén, gắn vòng nhỏ, rung động tạo thành tiếng để báo cho biết).” Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 5, phần Tích Trượng cho biết rằng: “Phật cáo Tỳ Kheo, ưng thọ trì Tích Trượng, quá khứ vị lai hiện tại chư Phật giai chấp cố; hựu danh Trí Trượng, hựu danh Đức Trượng; chương hiển trí hành công đức bổn cố. Tích giả, khinh dã; y ỷ thị trượng trừ phiền não xuất Tam Giới cố. Tích minh dã, đắc trí minh cố. Tích tỉnh dã, tỉnh ngộ khổ không Tam Giới kết cứu cố. Nhị dịch lục hoàn thị Ca Diếp Phật chế, tứ dịch thập nhị hoàn thị Thích Ca Phật chế (佛告比丘、應受持錫杖、過去未來現在諸佛皆執故、又名智杖、又名德杖、彰顯智行功德本故、錫者、輕也、依倚是杖除煩惱出三界故、錫明也、得智明故、錫醒也、醒悟苦空三界結究故、二股六環是迦葉佛製、四股十二環是釋迦佛製, Phật dạy Tỳ Kheo nên thọ trì Tích Trượng, vì chư Phật trong quá khứ vị lai và hiện tại đều dùng đến; lại có tên là Trí Trượng, lại có tên là Đức Trượng; làm sáng tỏ gốc công đức của Trí và Hành. Tích nghĩa là nhẹ, vì nương tựa vào cây trượng này mà đoạn trừ phiền não, ra khỏi Ba Cõi. Tích nghĩa là sáng, vì đạt được trí tuệ sáng suốt. Tích nghĩa là tỉnh, vì tỉnh ngộ khổ không của Ba Cõi cứu cánh. Trượng có hai đầu sáu vòng là do Phật Ca Diếp chế ra; có bốn đầu 12 vòng là do Phật Thích Ca chế ra).” Trong Phật Thuyết Mục Liên Ngũ Bách Vấn Kinh Lược Giải (佛說目連五百問經略解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 750) quyển Hạ giải thích rằng: “Y bát nãi nhẫn nhục chi pháp khí, Tích Trượng biểu Như Lai chi Pháp Thân (衣缽乃忍辱之法器、錫杖表如來之法身, y bát là pháp khí của nhẫn nhục, Tích Trượng là Pháp Thân của Như Lai).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) cho biết rằng: “Quải tam sự Như Lai y, hướng nhân gian ứng cúng phước điền, thủ trì Tích Trượng hàng long hổ (掛三事如來衣、向人間應供作福田、手持錫杖降龍虎, mang áo Như Lai ba việc, hướng cuộc đời ruộng phước cúng dường, tay cầm Tích Trượng hàng rồng hổ).” Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) do Luật Sư Độc Thể (讀體, 1601-1679), vị cao tăng của Phái Thiên Hoa (千華派) thuộc Luật Tông Trung Quốc soạn, có bài kệ Xuất Tích Trượng (出錫杖, Lấy Tích Trượng) như sau: “Chấp trì Tích Trượng, đương nguyện chúng sanh, thiết đại thí hội, thị như thật đạo. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra (執持錫杖、當願眾生、設大施會、示如實道、唵、那㗚噆、那㗚噆、那栗吒缽底、那㗚帝、娜夜缽儜、吽癸吒, cầm giữ Tích Trượng, nguyện cho chúng sanh, thiết hội đại thí, chỉ đường như thật. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập