Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Hãy lắng nghe trước khi nói. Hãy suy ngẫm trước khi viết. Hãy kiếm tiền trước khi tiêu pha. Hãy dành dụm trước khi nghỉ hưu. Hãy khảo sát trước khi đầu tư. Hãy chờ đợi trước khi phê phán. Hãy tha thứ trước khi cầu nguyện. Hãy cố gắng trước khi bỏ cuộc. Và hãy cho đi trước khi từ giã cuộc đời này. (Before you speak, listen. Before you write, think. Before you spend, earn. Before you retire, save. Before you invest, investigate. Before you critisize, wait. Before you pray, forgive. Before you quit, try. Before you die, give. )Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Pháp Vân »»

(眞淨克文, Shinjō Kokubun, 1025-1102): vị tăng của Phái Hoàng Long (黃龍派) thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, xuất thân Văn Hương (閿郷), Thiểm Phủ (陜府, Tỉnh Hồ Nam), họ là Trịnh (鄭), hiệu là Vân Am (雲庵), và tùy theo chỗ ở của ông cũng như Thiền sư hiệu mà có các tên gọi khác nhau như Lặc Đàm Khắc Văn (泐潭克文), Bảo Phong Khắc Văn (寳峰克文) và Chơn Tịnh Khắc Văn (眞淨克文). Ngay từ nhỏ ông đã kiệt xuất, nên cha ông có ý cho ông đi du học. Nhân nghe lời thuyết pháp của Bắc Tháp Tư Quảng (北塔思廣) ở Phục Châu (復州, Tỉnh Hồ Bắc), ông phát tâm theo hầu hạ vị này, và được đặt cho tên là Khắc Văn. Năm lên 25 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới. Ban đầu ông học các kinh luận, nhưng khi biết có Thiền thì ông ngao du lên phương Nam, và vào năm thứ 2 (1065) niên hiệu Trị Bình (治平), ông nhập hạ an cư trên Đại Quy Sơn (大潙山). Tại đây nhân nghe một vị tăng tụng câu kệ của Vân Môn Văn Yển (雲門文偃), ông hoát nhiên đại ngộ, rồi đến tham vấn Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南) ở Tích Thúy (積翠) và kế thừa dòng pháp của vị này. Trong số môn hạ của Hoàng Long, ông là người có cơ phong mẫn nhuệ nên thông xưng là Văn Quan Tây (文關西). Vào năm thứ 5 (1072) niên hiệu Hy Ninh (熙寧), ông đến Cao An (高安), thể theo lời thỉnh cầu của vị Thái Thú Tiền Công (錢公), ông đến trú trì hai ngôi chùa Động Sơn Tự (洞山寺) và Thánh Thọ Tự (聖壽寺) trong vòng 12 năm. Sau đó, ông lại lên Kim Lăng (金陵), được Thư Vương (舒王) quy y theo và khai sơn Báo Ninh Tự (報寧寺). Ông còn được ban cho hiệu là Chơn Tịnh Đại Sư (眞淨禪師). Không bao lâu sau, ông lại quay trở về Cao An, lập ra Đầu Lão Am (投老庵) và sống nhàn cư tại đây. Sau 6 năm, ông đến trú tại Quy Tông Tự (歸宗寺) trên Lô Sơn (廬山). Tiếp theo, thể theo lời thỉnh cầu của Tể Tướng Trương Thương Anh (張商英), ông lại chuyển đến sống ở Lặc Đàm (泐潭). Cuối cùng ông trở về sơn am ẩn cư và vào ngày 16 tháng 10 năm đầu (1102) niên hiệu Sùng Ninh (崇寧), ông thị tịch, hưởng thọ 78 tuổi đời và 52 hạ lạp. Cùng với Hối Đường Tổ Tâm (晦堂祖心) và Đông Lâm Thường Thông (東林常聰), ông đã tạo dựng nên cơ sở phát triển cho Phái Hoàng Long (黃龍派) thuộc Lâm Tế Tông. Đệ tử của ông có những nhân vật kiệt xuất như Đâu Suất Tùng Duyệt (兜率從悅), Thọ Ninh Thiện Tư (壽寧善資), Động Sơn Trí Càn (洞山致乾), Pháp Vân Cảo (法雲杲), Báo Từ Tấn Anh (報慈進英), Thạch Đầu Hoài Chí (石頭懷志), Lặc Đàm Văn Chuẩn (泐潭文準), Văn Thù Tuyên Năng (文殊宣能), Huệ Nhật Văn Nhã (慧日文雅), Động Sơn Phạn Ngôn (洞山梵言), Thượng Phong Huệ Hòa (上封慧和), Cửu Phong Hy Quảng (九峰希廣), v.v. Trước tác của ông để lại có Vân Am Chơn Tịnh Thiền Sư Ngữ Lục (雲庵眞淨禪師語錄) 6 quyển, còn đệ tử Giác Phạm Huệ Hồng (覺範慧洪) thì soạn ra cuốn Vân Am Chơn Tịnh Hòa Thượng Hành Trạng (雲庵眞淨和尚行狀).
(s: Maheśvara, p: Mahissara, 大自在天): âm dịch là Ma Hê Thủ La (摩醯首羅), Ma Hê Y Thấp Phạt La (摩醯伊濕伐羅), tên gọi khác của vị thần Thấp Bà (s: Śiva, 濕婆) trong Ấn Độ Giáo. Vị thần này ngày xưa đã cùng với thần Tỳ Nữu Noa (s: Viṣṇu, 毘紐拏) hiện hữu dưới trời Phạm Thiên (s: Braḥma, 梵天), nhưng sau đó cả ba đều có cùng ngôi vị ngang nhau. Trong Ấn Độ Giáo, Đại Tự Tại Thiên được xem như là vị thần của thế giới tối cao, sáng tạo ra vạn vật, thế giới vũ trụ. Trong Phật Giáo, vị thần này cũng được trọng thị, được xem như là vị thánh trú trên cõi Ngũ Tịnh Cư Thiên (五淨居天) trên cả sắc giới, đặc biệt là ở cõi cao nhất Sắc Cứu Cánh Thiên (s: Akaniṣṭha, 色究竟天, âm dịch là A Ca Nị Tra Thiên [阿迦膩吒天]). Ngoài ra, Đại Thừa Phật Giáo xem vị trời này là vị thánh ở cảnh giới Pháp Vân Địa (法雲地) cao nhất trong 10 Địa của vị Bồ Tát. Vị Bồ Tát ở cảnh địa thứ 10 này được xem như là sẽ thành Phật và trở thành vua của Ma Hê Thủ La Thiên. Cõi này được gọi là Tịnh Cư Ma Hê Thủ La (淨居摩醯首羅), khác với Tỳ Xá Xà Ma Hê Thủ La (s: Piśāca maheśvara, 毘舍闍摩醯首羅) do ngoại đạo lập nên. Về hình tượng, vị này thường có 3 mắt 6 cánh tay, cỡi con trâu trắng, và cũng có trường hợp 2 tay, 10 tay hay 18 tay. Vị trời này còn có những tên gọi khác như Thương Yết La (s: Śaṅkara, 商掲羅), Lô Na La (s: Rudra, 嚕捺羅), Y Xa Na (s: Īśāna, 伊賖那), Thú Chủ (s: Paśupati, 獸主), Ma Ha Đề Bà (s: Mahādeva, 摩訶提婆), v.v. Ngoài ra, trong Trí Độ Luận (智度論) cũng có trường hợp xem Tự Tại Thiên và Đại Tự Tại Thiên như nhau.
(等覺): tên gọi khác của đức Phật, còn gọi là Đẳng Chánh Giác (等正覺), một trong 10 đức hiệu của Phật. Đẳng (等) nghĩa là bình đẳng; giác (覺) tức là giác ngộ; sự giác ngộ của chư Phật là bình đẳng, nhất như, nên được gọi là Đẳng Giác. Như trong Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 10 có cho biết rằng: “Chư Phật đẳng cố, danh vi Đẳng Giác (諸佛等故、名爲等覺, các đức Phật bình đẳng nên có tên là Đẳng Giác).” Hay như trong Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sanh Kệ Bà Tẩu Bàn Đầu Bồ Tát Tạo Tinh Chú (無量壽經優婆提舍願生偈婆藪槃頭菩薩造幷註, tức Tịnh Độ Luận Chú [淨土論註], Vãng Sanh Luận Chú [往生論註], Taishō Vol. 40, No. 1819) quyển Thượng cũng giải thích rằng: “Dĩ chư pháp đẳng cố, chư Như Lai đẳng, thị cố chư Phật Như Lai danh vi Đẳng Giác (以諸法等故、諸如來等、是故諸佛如來名爲等覺, vì các pháp bình đẳng, nên các Như Lai bình đẳng, vì vậy các đức Phật Như Lai có tên gọi là Đẳng Giác).” Trong 52 vị của giai vị Đại Thừa, vị Bồ Tát ở giai vị thứ 51 được gọi là Đẳng Giác, là địa vị tối cao của Bồ Tát. Nghĩa là khi đầy đủ ba kỳ trăm kiếp tu hành, Bồ Tát của Biệt Giáo thì đoạn tận 11 phẩm vô minh, Bồ Tát của Viên Giáo thì đoạn tận 41 phẩm vô minh, sẽ chứng đắc Phật quả Diệu Giác; công đức trí tuệ của vị ấy ngang hàng với Diệu Giác; nên được có tên là Đẳng Giác, hay gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ (一生補處, ý chỉ một kiếp kế tiếp sẽ thành Phật), Kim Cang Tâm (金剛心, tâm kiên cố như kim cương, có thể phá tan phiền não), Hữu Thượng Sĩ (有上士, đức Phật Diệu Giác thì được gọi là Vô Thượng Sĩ, bậc Đẳng Giác thì có tên như vậy), Vô Cấu Địa (無垢地, đạt đến cảnh giới không cấu nhiễm), v.v. Như trong Tứ Giáo Nghi (四敎儀, Taishō Vol. 46, No. 1929) quyển 10 có đoạn rằng: “Nhược vọng Pháp Vân danh chi vi Phật, vọng Diệu Giác danh Kim Cang Tâm Bồ Tát, diệc danh Vô Cấu Địa Bồ Tát (若望法雲名之爲佛、望妙覺名金剛心菩薩、亦名無垢地菩薩, nếu hướng về quả vị Pháp Vân Địa thì gọi đó là Phật, hướng về Diệu Giác thì gọi là Bồ Tát Kim Cang Tâm, cũng có tên là Bồ Tát Vô Cấu Địa).” Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀, Taishō Vol. 46, No. 1911) quyển 1 khẳng định rằng: “Cứu cánh tức Bồ Đề giả, Đẳng Giác nhất chuyển nhập ư Diệu Giác (究竟卽菩提者、等覺一轉入於妙覺, cứu cánh tức Bồ Đề nghĩa là Đẳng Giác một lần chuyển nhập vào Diệu Giác).”
(憨山德清, Kanzan Tokusei, 1546-1623): tự là Trừng Ấn (澄印), hiệu Hám Sơn (憨山), xuất thân Kim Tiêu (金椒), Kim Lăng (金陵, Nam Kinh), họ Thái (蔡). Năm 13 tuổi, ông theo học với Vĩnh Ninh (永寧) ở Báo Ân Tự (報恩寺) vùng Kim Lăng. Đến năm 19 tuổi, ông xuất gia và thọ Cụ Túc giới, rồi tham học Thiền với Vân Cốc Pháp Hội (雲谷法會) ở Thê Hà Tự (栖霞寺), kế đến tham vấn Pháp Quang (法光) ở Phục Ngưu Sơn (伏牛山), đạt được huyền chỉ sâu xa. Sau đó, ông chọn Ngũ Đài Sơn (五臺山) làm nơi tĩnh tu cho mình. Vào năm thứ 9 (1581) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), ông thiết lập đại hội trên Ngũ Đài Sơn, chiêu tập 500 vị đại đức tăng. Đến năm thứ 14 cùng niên hiệu trên, nhân dịp Thái Hậu quy y, bà cho sáng lập Hải Ấn Tự (海印寺) ở Lao Sơn (牢山) và ban tặng Đại Tạng Kinh; thế nhưng khi mắc tội với vua Thần Tông, ông cũng bị tống giam vào ngục thất ở Lôi Châu (雷州, Tỉnh Quảng Đông). Vào năm thứ 24, ông đến trú ở Tào Khê (曹溪), phục hưng các ngôi Thiền Đường nơi đây, rồi truyền giới, giảng kinh và chế ra quy cũ Thiền môn. Đến năm thứ 43, ông khai sáng Pháp Vân Thiền Tự (法雲禪寺) ở Ngũ Nhũ Phong (五乳峰). Vào năm thứ 2 (1622) niên hiệu Thiên Khải (天啓), ông trở về lại Tào Khê, và năm sau thì thị tịch, hưởng thọ 78 tuổi đời và 59 hạ lạp. Trước tác của ông có rất nhiều như bộ Ngữ Lục (語錄) 12 quyển, Mộng Du Toàn Tập (夢遊全集) 55 quyển, Quán Lăng Già Kinh Ký (觀楞伽經記), Hoa Nghiêm Cương Yếu (華嚴綱要), Lăng Nghiêm Thông Nghĩa (楞嚴通義), Viên Giác Kinh Trực Giải (圓覺經直解), Kim Cang Kinh Quyết Nghi (金剛經決疑), v.v. Ông chủ xướng pháp môn Niệm Phật và Khán Thoại Thiền, cùng với Châu Hoằng (袾宏), Chơn Khả (眞可), Trí Húc (智旭) được gọi là Tứ Đại Thích Gia (四大釋家, 4 vị tu sĩ vĩ đại) cuối thời nhà Minh. Ngô Ứng Thật (呉應實) và Tiền Khiêm Ích (錢謙益) soạn bài minh bia tháp cho ông và trong khoảng niên hiệu Thuận Trị (順治, 1644-1661) nhà Thanh, ông được ban tặng thụy hiệu là Hoằng Giác Thiền Sư (弘覺禪師).
(金枝): cành vàng, từ quý xưng con cháu đế vương, đặc biệt chỉ cho con gái nhà quyền quý; vì vậy thường xuất hiện từ “kim chi ngọc diệp (金枝玉葉, cành vàng lá ngọc).” Trong Dật Chu Thư (逸周書), phần Võ Cảnh (武儆), có đoạn: “Vương cáo mộng, Bính Thìn xuất kim chi (王告夢、丙辰出金枝, nhà vua báo cho biết giấc mộng rằng vào giờ Bính Thìn sinh ra cành vàng).” Hay trong Hưởng Thái Miếu Nhạc Chương (享太廟樂章), phần Hy Tông Vũ (懿宗舞) lại có câu: “Kim chi phồn mậu, ngọc diệp diên trường (金枝繁茂、玉葉延長, cành vàng sum sê, lá ngọc dài tốt).” Trong Lịch Triều Thích Thị Tư Giám (歷朝釋氏資鑑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 76, No. 1517) quyển 12 cũng có đoạn: “Kim chi nhi chi chi đĩnh tú, ngọc diệp nhi diệp diệp tương thừa, pháp luân đại chuyển ư Chi Na, đế nhật trường huy ư Chấn Đán (金枝而枝枝挺秀、玉葉而葉葉相承、法輪大轉於支那、帝日長輝於震旦, cành vàng mà cành cành tươi tốt, lá ngọc mà lá lá liền nhau, xe pháp vận chuyển nơi Chi Na [Trung Hoa], trời vua sáng tỏ chốn Chấn Đán [Trung Hoa]).” Trong bài hát Giọt Lệ Đài Trang có câu: “Ngày xưa ai lá ngọc cành vàng, ngày xưa ai quyền quý cao sang.”
(佛國惟白, Bukkoku Ihaku, ?-?): vị tăng của Vân Môn Tông Trung Quốc, sống vào cuối thời Bắc Tống, pháp từ của Pháp Vân Pháp Tú (法雲法秀). Ông đã từng trú trì ở Pháp Vân Tự (法雲寺) thuộc Biện Kinh (汴京). Ông được vua Triết Tông và Huy Tông quy y theo, được ban cho thụy hiệu là Phật Quốc Thiền Sư (佛國禪師). Vào tháng 8 năm đầu (1101) niên hiệu Kiến Trung Tĩnh Quốc (建中靖國), ông soạn bộ Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄) 30 quyển, được nhà vua ban ngự chế lời tựa và cho nhập vào Đại Tạng. Đến cuối đời ông chuyển đến Thiên Đồng Sơn (天童山). Ngoài ra ông còn viết bộ Đại Tạng Cương Mục Chỉ Yếu Lục (大藏綱目指要錄) 8 quyển.
(豐儀、丰儀): thể hiện phong độ uy nghi. Như trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1456) quyển 55, bài Đại Minh Lô Sơn Ngũ Nhũ Phong Pháp Vân Thiền Tự Tiền Trung Hưng Tào Khê Từ Pháp Hám Sơn Đại Sư Tháp Minh (大明廬山五乳峰法雲禪寺前中興曹溪嗣法憨山大師塔銘), có đoạn: “Phục như Tào Khê, đương niên chi thất thập hữu bát, lạp chi lục thập, thị vi Thiên Khải Quý Hợi, tiên ư huyền hồ giả nhất nhật nhi thị tịch yên, sư phong nghi từ mãn, thần tình ngưng định, vọng chi tợ A La Hán (復如曹溪、當年之七十有八、臘之六十、是為天啟癸亥、先於懸弧者一日而示寂焉、師丰儀慈滿、神情凝定、望之似阿羅漢, lại như Tào Khê, năm ấy là bảy mươi tám tuổi, Hạ Lạp sáu mươi, nhằm vào năm Quý Hợi [1623] niên hiệu Thiên Khải [đời vua Hy Tông nhà Minh], trước ngày nhà vua sanh con trai thì thị tịch vậy; sư có phong thái từ bi, thần tình định tĩnh, nhìn vào giống như A La Hán).”
(光宅寺, Kōtaku-ji): hiện tọa lạc ở phía Đông Nam Huyện Giang Nam (江南縣), Phủ Giang Ninh (江寧府), Tỉnh Giang Tô (江蘇省, Nam Kinh), còn gọi là Huệ Trạch Tự (慧宅寺). Vào năm đầu (502) niên hiệu Giám Nguyên (監元), có thuyết cho là năm thứ 3 cùng niên hiệu, vua Lương Võ Đế (梁武帝) cải đổi tư gia cũ của mình thành chùa, cho đúc tượng đại Phật bằng đồng vàng an trí tại đây, thỉnh Pháp Vân (法雲)―một trong 3 vị đại Pháp Sư nhà Lương―làm trú trì và định ra quy chế tăng sĩ. Kể từ khi Pháp Vân giảng Pháp Hoa Kinh (法華經), tên gọi Quang Trạch Tự được mọi người trong khắp thiên hạ biết đến; chính Thiên Thai Trí Khải (天台智顗) cũng đã từng giảng Pháp Hoa Kinh, Nhân Vương Kinh (仁王經) tại chùa này vào năm thứ 3 (583) niên hiệu Khai Hoàng (開皇). Đây là ngôi danh lam bảo sát của Giang Nam vào thế kỷ thứ 6.
(僧正, Sōjō): tên gọi của một chức Tăng quan, có nghĩa là tự sửa mình cho đúng, giúp người khác làm cho đúng, chấp chưởng việc chỉnh đốn những việc làm sai trái của Tăng lữ, thống lãnh giáo đoàn Phật Giáo. Chức này tương đương với chức Sa Môn Thống (沙門統) dưới thời Bắc Triều. Phần Lập Tăng Chánh (立僧正) trong quyển Trung của Đại Tống Tăng Sử Lược (大宋僧史略) do Tán Ninh (贊寧) nhà Tống soạn, có ghi rằng chữ “chánh (正)” của Tăng Chánh đồng nghĩa với chữ “chính (政, làm cho đúng)”. Người nhận chức Tăng Chánh đầu tiên là Tăng Bích (僧碧) nhà Tiền Tần (前秦, 334~394). Trong khoảng thời gian niên hiệu Thăng Minh (昇明), vua Thuận Đế (順帝, tại vị 477~479) nhà Tống suy cử Pháp Trì (法持) làm chức quan này; rồi trong khoảng thời gian niên hiệu Đại Minh (大明), Đạo Ôn (道溫) được bổ nhiệm làm Tăng Chánh của Đô Ấp (都邑, tức Kiến Khang [建康]). Tiếp theo, vua Võ Đế (武帝, tại vị 502~549) nhà Lương bổ nhiệm Pháp Siêu (法超) làm Tăng Chánh của Đô Ấp; rồi đến năm thứ 6 (525) niên hiệu Phổ Thông (普通) thì cử Pháp Vân (法雲) làm Đại Tăng Chánh (大僧正), và Huệ Lịnh (慧令) làm Tăng Chánh. Vào đầu thời Bắc Tống (北宋, 960~1127), triều đình cho đặt chức Tăng Chánh ở mỗi châu, tuyển chọn những người tài ba, đức hạnh để đảm đương trọng trách này. Tại Nhật Bản, chức tăng quan này được chế ra vào năm 624 đời Suy Cổ Thiên Hoàng (推古天皇, Suiko Tennō, tại vị 592-628), có 3 loại là Tăng Chánh (僧正), Tăng Đô (僧都) và Luật Sư (律師). Riêng Tăng Chánh và Tăng Đô lại chia thành Đại Tăng Chánh (大僧正), Đại Tăng Đô (大僧都), Thiếu Tăng Chánh (少僧正) và Thiếu Tăng Đô (少僧都). Về sau chức Tăng Chánh này lại được phân làm ba cấp là Đại, Chánh, Quyền; Đại Tăng Chánh là tương đương với Đại Nạp Ngôn (大納言), Chánh Tăng Chánh là Trung Nạp Ngôn (中納言) và Quyền Tăng Chánh là Tham Giảng (參講).
(僧旻, Sōbin, 467-527): vị tăng sống dưới thời nhà Lương thuộc Nam Triều, người vùng Phú Xuân (富春), Quận Ngô (呉郡, thuộc Phú Dương [富陽], Triết Giang [浙江]), họ Tôn (孫), cùng với Pháp Vân (法雲) và Trí Tàng (智藏) được gọi là Ba Vị Pháp Sư Lớn của nhà Lương. Năm 7 tuổi, ông xuất gia, đến trú tại Hổ Kheo Tây Sơn Tự (虎丘西山寺), theo Tăng Hồi (僧回) học 5 bộ kinh. Đến năm 13 tuổi, ông đi theo Tăng Hồi đến sống tại Bạch Mã Tự (白馬寺) vùng Kiến Nghiệp (建業), sau đó chuyển sang Trang Nghiêm Tự (莊嚴寺) ở Nam Kinh (南京) và thường hầu hạ Đàm Cảnh (曇景). Ông sống an bần, hiếu học, tinh tấn tu tập, thông hiểu các kinh, lại có sở trường về Thành Thật Luận (成實論), là một trong những luận sư nổi danh của Thành Thật Tông thời Nam Bắc Triều. Vào năm thứ 10 (492) niên hiệu Vĩnh Minh (永明), ông tuyên giảng Thành Thật Luận ở Hưng Phước Tự (興福寺), chúng đạo tục đến nghe rất đông, cho nên tiếng tăm của ông vang khắp đó đây. Vương Trung Bảo (王仲寳) ở Lang Da (瑯琊), Trương Tư Quang (張思光), v.v., là những học giả đương thời, đều có thâm giao với ông. Đến cuối thời nhà Tề, loạn lạc xảy ra khắp nơi, nên ông lánh nạn ở Từ Châu (徐州), nhưng không bao lâu sau thì được thỉnh đến nhà Ngô, rộng mở pháp tịch tuyên giảng kinh luận. Vào năm thứ 6 (507) niên hiệu Thiên Giám (天監), ông soạn Chú Bát Nhã Kinh (注般若經), nhà vua ban sắc chỉ cho 5 vị pháp sư trong kinh thành giảng kinh, trong số đó ông là người được nhà vua đãi ngộ cao nhất. Bên cạnh đó, ông còn vâng mệnh giảng Kinh Thắng Man (勝鬘經) tại Huệ Luân Điện (惠輪殿), khi ấy nhà vua thân lâm đến pháp tịch nghe giảng. Không bao lâu sau, ông lại phụng sắc chỉ cùng với Tăng Lượng (僧亮), Tăng Hoảng (僧晃), Lưu Hiệp (劉勰), v.v., khoảng 30 người tập trung tại Định Lâm Tự (定林寺) soạn bộ Chúng Kinh Yếu Sao (眾經要鈔) 88 quyển. Đến năm đầu (527) niên hiệu Đại Thông (大通), ông thị tịch, hưởng thọ 61 tuổi. Nhà vua rất đau lòng thương tiếc, ban sắc lệnh an táng tại khu mộ địa của Khai Thiện Tự (開善寺) thuộc Chung Nam Sơn (鍾南山). Đệ tử của ông có Trí Học (智學), Huệ Khánh (慧慶), v.v. Một số trước tác ông để lại hơn 100 quyển như Luận Sớ Tạp Tập (論疏雜集), Tứ Thanh Chỉ Quy (四聲指歸), Thi Phổ Quyết Nghi (詩譜決疑), v.v. Đặc biệt, bộ Thành Thật Luận Nghĩa Sớ (成實論義疏) 10 quyển rất nổi tiếng.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập