Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Thành công có nghĩa là đóng góp nhiều hơn cho cuộc đời so với những gì cuộc đời mang đến cho bạn. (To do more for the world than the world does for you, that is success. )Henry Ford
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Pháp Thân »»

(北斗): nói đủ là Bắc Đẩu Thất Tinh (北斗七星), tức 7 ngôi sao có hình cái muỗng tụ lại ở phương Bắc, cách xa Bắc Cực khoảng 30 độ, gồm Thiên Xu (天樞), Thiên Tuyền (天璇), Thiên Ki (天璣), Thiên Quyền (天權), Ngọc Hành (玉衡), Khai Dương (開陽) và Dao Quang (瑤光). Trong Thiên Văn, chùm sao này được gọi là Đại Hùng Tinh (大熊星), tên tục là Tham Lang Tinh (貪狼星), Cự Môn Tinh (巨門星), Lộc Tồn Tinh (祿存星), Văn Khúc Tinh (文曲星), Liêm Trinh Tinh (廉貞星), Võ Khúc Tinh (武曲星), và Phá Quân Tinh (破軍星), v.v. Theo quan niệm cổ đại, Thiên Xu được xem như là Chánh Tinh, chủ về dương đức; Thiên Tuyền là Pháp Tinh, chủ về âm hình; Thiên Ky là Lịnh Tinh, chủ về phạt hại; Thiên Quyền là Phạt Tinh, chủ về thiên lý; Thiên hành là Sát Tinh, chủ cả trung ương và bốn phương; Khai Dương là Nguy Tinh, chủ thiên thực ngũ cốc; và Dao Quang là Bộ Tinh, chủ về binh lính. Tôn Tinh Vương Pháp, Bắc Đẩu Pháp, Bắc Đẩu Hộ Ma Pháp, v.v., của Mật Giáo đều là pháp cầu đảo chùm sao này. Ngoài ra, trong Thiền môn có câu “Bắc Đẩu lí tàng thân (北斗裏藏身, ẩn thân trong sao Bắc Đẩu)” muốn ám chỉ thần thông diệu dụng của Thiền sư, giống như ẩn thân trong sao Bắc Đẩu. Trong Vân Môn Khuôn Chơn Thiền Sư Quảng Lục (雲門匡眞禪師廣錄) có đoạn rằng: “Vấn: 'Như hà thị thấu Pháp Thân cú ?' Sư vân: 'Bắc Đẩu lí tàng thân' (問、如何是透法身句、師云、北斗裏藏身, Hỏi rằng: 'Thế nào là câu thấu triệt Pháp Thân ?' Sư đáp: 'Ẩn thân trong sao Bắc Đẩu').”
(白象): voi trắng toàn thân, vì con voi có uy lực lớn nhưng tánh tình nhu thuận, cho nên khi vị Bồ Tát vào mẫu thai thường cỡi con voi trắng có sáu ngà hay hiện thân hình con voi trắng, biểu thị tánh của vị Bồ Tát khéo nhu hòa nhưng có oai lực vĩ đại. Bên cạnh đó, 6 ngà voi thể hiện tinh thần Lục Độ (六度), 4 chân là Tứ Như Ý (四如意). Bồ Tát Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢) cỡi con voi trắng 6 ngà cũng thí dụ cho oai lực vô song như vậy. Như trong Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát (普賢菩薩勸發品) thứ 28 của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka,妙法蓮華經) có giải thích rằng: “Thị nhân nhược tọa, tư duy thử kinh, nhĩ thời ngã phục thừa bạch tượng vương, hiện kỳ nhân tiền, kỳ nhân nhược ư Pháp Hoa Kinh, sở hữu vong thất nhất cú nhất kệ, ngã đương giáo chi, dữ cọng độc tụng, hoàn linh thông lợi (是人若坐、思惟此經、爾時我復乘白象王、現其人前、其人若於法華經、有所忘失一句一偈、我當敎之、與共讀誦、還令通利, người ấy nếu ngồi, suy nghĩ kinh này, lúc bấy giờ ta lại cỡi vua voi trắng, hiện trước mặt người đó, nếu người đó đối với Kinh Pháp Hoa, bị sai mất một câu một bài kệ, ta sẽ chỉ cho, cùng với người đó đọc tụng, khiến được thông lợi).” Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō 3, 624) quyển 1 có đoạn rằng: “Nhĩ thời, Bồ Tát quán giáng thai thời chí, tức thừa lục nha bạch tượng phát Đâu Suất cung; vô lượng chư thiên tác chư kỷ nhạc, thiêu chúng danh hương, tán thiên diệu hoa, tùy tùng Bồ Tát (爾時、菩薩觀降胎時至、卽乘六牙白象發兜率宮、無量諸天作諸伎樂、燒眾名香、散天妙花、隨從菩薩, lúc bấy giờ, Bồ Tát quán sát đã đến lúc giáng xuống bào thai, liền cỡi con voi trắng sáu ngà từ trên cung trời Đâu Suất xuống; vô lượng các vị trời trỗi những thứ âm nhạc, đốt các loại hương thơm, rãi hoa trời tuyệt diệu, theo Bồ Tát xuống)”. Bên cạnh đó, Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀, Taishō 46, 14) quyển 2 có giải thích rằng: “Ngôn lục nha bạch tượng giả, thị Bồ Tát vô lậu lục thần thông; nha hữu lợi dụng như thông chi tiệp tật, tượng hữu đại lực, biểu Pháp Thân hà phụ, vô lậu vô nhiễm, xưng chi vi bạch (言六牙白象者、是菩薩無漏六神通、牙有利用如通之捷疾、象有大力、表法身荷負、無漏無染、稱之爲白, voi trắng sáu ngà là vị Bồ Tát có sáu thần thông vô lậu; ngà có mũi nhọn có thể xuyên qua rất nhanh; voi có sức mạnh phi thường, thể hiện cho Pháp Thân gánh vác nặng; không bị rỉ ra, không bị nhiễm ô, cho nên gọi nó là trắng)”.
(s: saṃbhoga-kāya, 報身): chỉ cho thân quả báo của Phật; còn gọi là Báo Phật (報佛), Báo Thân Phật (報身佛), Thọ Pháp Lạc Phật (受法樂佛); hoặc được dịch là Thọ Dụng Thân (受用身), Thực Thân (食身), Ứng Thân (應身); là một trong 3 thân (Pháp Thân, Ứng Thân và Hóa Thân) và 4 thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân và Hóa Thân) của Phật; tức là thân Phật có quả báo nhân vị vô lượng nguyện hạnh, vạn đức viên mãn. Đây cũng là thân kết quả của sự báo ứng các nguyện hạnh đầy đủ của vị Bồ Tát mới phát tâm tu tập cho đến tròn đầy Mười Địa. Như A Di Đà Phật, Dược Sư Như Lai, Lô Xá Na Phật, v.v., đều là Báo Thân Phật. Báo Thân lấy Đại Trí (大智, tức trí tuệ không phân biệt của bậc Thánh), Đại Định (大定, nghĩa là không tác ý) và Đại Bi (大悲, tâm từ bi có thể giúp cứu bạt nỗi khổ của chúng sanh) làm thể; có đầy đủ vô lượng sắc tướng, muôn công đức của Thập Lực (s: daśa-bala, p: dasa-bala, 十力, Mười Lực), Tứ Vô Úy (s: catur-vaiśāradya, p: catu-vesārajja, 四無畏, Bốn Vô Úy), v.v. Theo Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 9 cho biết rằng đức Phật co hai thân là Pháp Tánh Thân (法性身, Thân Pháp Tánh) và Phụ Mẫu Sanh Thân (父母生身, thân do cha mẹ sanh ra). Pháp Tánh Thân thì biến khắp cùng hư không, tướng hảo trang nghiêm, có vô lương hào quang sáng rực và vô lượng âm thanh. Quyển 30 cùng điển tịch này còn nêu rõ rằng đức Phật lại có hai thân là Chơn Thân (眞身) và Hóa Thân. Chơn Thân thì cùng khắp hư không, âm thanh thuyết pháp của thân này cũng biến khắp mười phương vô lượng thế giới, nhưng chỉ có vị Bồ Tát ở địa vị Thập Trụ (十住) mới có thể lấy trí lực phương tiện không thể nghĩ bàn mà nghe được. Quyển 33 lại nêu ra hai loại thân khác là Pháp Tánh Sanh Thân (法性生身) và Tùy Thế Gian Thân (隨世間身). Pháp Tánh Sanh Thân thường có vô lượng vô số không thể tính đếm các vị Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ theo hầu. Thông thường thân này chỉ cho Thật Báo Thân (實報身) của Phật. Đối với nội chứng cũng như ngoại dụng của Báo Thân, căn cứ trên nghĩa thọ dụng, Thiên Thai học giả chia Báo Thân thành Tự Thọ Dụng Báo Thân (自受用報身) và Tha Thọ Dụng Báo Thân (他受用報身); rồi căn cứ trên quốc độ cư trú của Báo Thân mà phân thành Chơn Báo Thân Độ (眞報身土) và Ảnh Hiện Báo Thân Độ (影現報身土). Chơn Báo Thân Độ chính là nơi chư vị Bồ Tát thị hiện trên mặt đất, là cõi nước Báo Thân để dùng phương tiện giáo hóa, truyền đạo. Thọ Dụng Thân (受用身) của Pháp Tướng Tông và Duy Thức Tông đồng nghĩa với thân này. Đại Thừa Đồng Tánh Kinh (大乘同性經, Taishō Vol. 16, No. 673) quyển Thượng cho rằng thành Phật nơi cõi uế độ tương đối là Hóa Thân, thành Phật nơi cõi Tịnh Độ là Báo Thân. Trong Phật Tam Thân Tán (佛三身讚, Taishō Vol. 32, No. 1678) có bài kệ về Báo Thân rằng: “Ngã kim khể thủ Báo Thân Phật, trạm nhiên an trú đại Mâu Ni, ai mẫn hóa độ Bồ Tát chúng, xứ hội như nhật nhi phổ chiếu, Tam Kỳ tích tập chư công đức, thỉ năng viên mãn tịch tĩnh đạo, dĩ đại âm thanh đàm diệu pháp, phổ linh hoạch đắc bình đẳng quả (我今稽首報身佛、湛然安住大牟尼、哀愍化度菩薩眾、處會如日而普照、三祇積集諸功德、始能圓滿寂靜道、以大音聲談妙法、普令獲得平等果, con nay cúi lạy Báo Thân Phật, sáng trong an trú đức Mâu Ni, xót thương hóa độ chúng Bồ Tát, khắp chốn như trời chiếu cùng khắp, ba đời tích tập các công đức, mới thể tròn đầy đạo vắng lặng, lấy âm thanh lớn bàn pháp mầu, khiến cho đạt được bình đẳng quả).” Hay trong Triệu Luận Lược Chú (肇論略註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 54, No. 873) quyển 5 có giải thích rằng: “Dĩ tam thế chư Phật khoáng kiếp tu nhân, chứng thử nhất tâm chi thể, danh vi Pháp Thân; dĩ thù quảng đại chi nhân, danh vi Báo Thân; tùy cơ ích vật, danh vi Hóa Thân; nhất thiết chư Phật giai cụ Tam Thân; Pháp Thân vi thể, Hóa Thân vi dụng, hữu cảm tức hiện, vô cảm tức ẩn (以三世諸佛曠劫修因、證此一心之體、名爲法身、以酬廣大之因、名爲報身、隨機益物、名爲化身、一切諸佛皆具三身、法身爲體、化身爲用、有感卽現、無感卽隱, vì ba đời các đức Phật muôn kiếp tu nhân, chứng thể nhất tâm này, nên gọi là Pháp Thân; để báo ứng nhân to lớn này, nên gọi là Báo Thân; tùy cơ duyên mà làm lợi ích muôn loài, nên gọi là Hóa Thân; hết thảy các đức Phật đều có đủ Ba Thân; Pháp Thân làm thể, Hóa Thân làm dụng, có cảm tức hiển hiện, không cảm thì ẩn tàng).” Trong Tứ Phần Luật Sưu Huyền Ký (四分律搜玄錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 41, No. 732) quyển 1 cho biết rằng: “Báo Thân danh Lô Xá Na (報身名盧舍那, Báo Thân có tên gọi là Lô Xá Na).” Vì vậy, có câu cúng dường “Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật (圓滿報身盧舍那佛).”
(本阿彌光悅, Honami Kōetsu, 1556-1637): nhà thư pháp, nghệ thuật và là nhà làm đồ gốm danh tiếng, sống dưới thời đại Giang Hộ, xuất thân Kyoto, rất sở trường trong việc giám định về đao kiếm; được xem như là Tổ của Dòng Quang Duyệt (光悅流). Ông có theo học Thư Đạo với Tôn Triều Pháp Thân Vương (尊朝法親王). Ông là một trong 3 cây bút tài tình, gồm Tùng Hoa Đường Chiêu Thừa (松華堂昭乘, Shūkadō Shōjō), Cận Vệ Tam Miệu Viện (近衛三藐院, Konoe Sammyakuin, tức Cận Vệ Tín Duẫn [近衛信尹, Konoe Nobutada]) và ông. Bên cạnh đó, ông còn rất giỏi về làm nghề gốm sứ, cũng như điêu luyện về Trà Đạo.
(眞言宗, Shingon-shū): tông phái của Nhật Bản, do Không Hải Đại Sư (空海大師, Kūkai Daishi) sáng lập nên với tư cách là vị khai tổ. Đối tượng lễ bái của tông này là Đại Nhật Như Lai (s: Vairocana, 大日如來), do vì Pháp Thân của đức Đại Nhật Như Lai biến mãn khắp hết thảy pháp giới, nên vớiý nghĩa đó thì đối tượng lễ bái của tông này trở thành hết thảy tồn tại. Chơn Ngôn Tông hay còn gọi là Chơn Ngôn Mật Giáo, là đối với Hiển Giáo, tức đối ứng với vị giáo chủ của Hiển Giáo là Ứng Hóa Thân (應化身), và thay vào đó giáo chủ của Mật Giáo là Pháp Thân (法身), vì thế giáo thuyết của tông này là tự nội chứng của Pháp Thân để đối xứng với giáo thuyết của Hiển Giáo là tùy cơ. Đối ứng với Hiển Giáo cho rằng thời gian thành Phật là rất lâu dài, Mật Giáo chủ trương rằng trong hiện đời này có thể thành Phật. Đây chính là Tức Thân Thành Phật. Phương pháp đó là quán niệm chư tôn Mạn Đà La, xướng tụng chơn ngôn của chư tôn bằng miệng, và tay thì kết ấn của chư tôn. Đây được gọi là Tam Mật Du Già Hành (三密瑜伽行). Đối với Mật Tông thì vị giáo chủ là Đại Nhật Như Lai, rồi kế đến là Long Mãnh (龍猛, tức Long Thọ), Long Trí (龍智), Kim Cang Trí (金剛智), Bất Không (不 空), Huệ Quả (惠果), và Không Hải (空海). Theo tổng kết của Bộ Văn Hóa (bản năm 1997), hiện tại trên toàn quốc Chơn Ngôn Tông có rất nhiều chùa và nhiều phân phái khác nhau như sau: (1) Cao Dã Sơn Chơn Ngôn Tông (高野山眞言宗) có 3615 ngôi, (2) Chơn Ngôn Tông Đề Hồ Phái (眞言宗醍醐派) có 1094 ngôi, (3) Chơn Ngôn Tông Đông Tự Phái (眞言宗東寺派) có 85 ngôi, (4) Chơn Ngôn Tông Tuyền Dũng Tự Phái (眞言宗泉涌寺派) có 63 ngôi, (5) Chơn Ngôn Tông Sơn Giai Phái (眞言宗山階派) có 134 ngôi, (6) Chơn Ngôn Tông Ngự Thất Phái (眞言宗御室派) có 798 ngôi, (7) Chơn Ngôn Tông Đại Giác Tự Phái (眞言宗大覺寺派) có 353 ngôi, (8) Chơn Ngôn Tông Thiện Thông Tự Phái (眞言宗善通寺派) có 262 ngôi, (9) Chơn Ngôn Tông Trí Sơn Phái (眞言宗智山派) có 2893 ngôi, (10) Chơn Ngôn Tông Phong Sơn Phái (眞言宗豐山派) có 2656 ngôi, (11) Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗) có 208 ngôi, (12) Chơn Ngôn Tông Thất Sanh Tự Phái (眞言宗室生寺派) có 54 ngôi, (13) Tín Quý Sơn Chơn Ngôn Tông (信貴山眞言宗) có 191 ngôi. Một số ngôi chùa trung tâm nổi tiếng của tông phái này là Kim Cang Phong Tự (金剛峯寺, Kongōbu-ji, Wakayama-ken) Tổng Bản Sơn của Cao Dã Sơn Chơn Ngôn Tông (高野山眞言宗); Đông Tự (東寺, Tō-ji, tức Giáo Vương Hộ Quốc Tự [敎王護國寺], Kyōto-shi), Tổng Bản Sơn của Đông Tự Chơn Ngôn Tông (東寺眞言宗); Thiện Thông Tự (善通寺, Zentsū-ji, Kagawa-ken), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Thiện Thông Tự Phái (眞言宗善通寺派); Tùy Tâm Viện (隨心院, Zuishin-in, Kyōto-shi), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Thiện Thông Tự Phái; Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji, Kyōto-shi), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Đề Hồ Phái (眞言宗醍醐派); Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji, Kyōto-shi), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Ngự Thất Phái (真言宗御室派); Đại Giác Tự (大覺寺, Daikaku-ji, Kyōto-shi), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Đại Giác Tự Phái (眞言宗大覺寺派); Tuyền Dũng Tự (泉涌寺, Sennyū-ji, Kyōto-shi), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Tuyền Dũng Tự Phái (眞言宗泉涌寺派); Khuyến Tu Tự (勸修寺, Kanjū-ji, Kyōto-shi), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Sơn Giai Phái (眞言宗山階派); Triều Hộ Tôn Tử Tự (朝護孫子寺, Chōgosonshi-ji, Nara-ken), Tổng Bản Sơn của Tín Quý Sơn Chơn Ngôn Tông (信貴山眞言宗); Trung Sơn Tự (中山寺, Nakayama-dera, Hyōgo-ken), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Trung Sơn Tự Phái (眞言宗中山寺派); Thanh Trừng Tự (清澄寺, Seichō-ji, Hyōgo-ken), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tam Bảo Tông (眞言三寶宗); Tu Ma Tự (須磨寺, Suma-dera, Hyōgo-ken), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Tu Ma Tự Phái (眞言宗須磨寺派); Trí Tích Viện (智積院, Chishaku-in, Kyōto-shi), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Trí Sơn Phái (眞言宗智山派); Trường Cốc Tự (長谷寺, Hase-dera, Nara-ken), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Tông Phong Sơn Phái (眞言宗豐山派); Căn Lai Tự (根來寺, Negoro-ji, Wakayama-ken), Tổng Bản Sơn của Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗); Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji, Nara-ken), Tổng Bản Sơn của Chơn Ngôn Luật Tông (眞言律宗); Bảo Sơn Tự (寶山寺, Hōzan-ji, Nara-ken), Đại Bản Sơn của Chơn Ngôn Luật Tông, v.v.
(s: bhūta-tathatā, tathatā, 眞如): chơn nghĩa là chơn thật, không hư vọng; như là như thường, bất biến. Chơn như là bản thể chân thật trùm khắp vũ trụ vạn vật, là chân lý vĩnh cửu bất biến, căn nguyên của hết thảy vạn hữu. Từ này còn được gọi là Như Như (如如), Như Thật (如實), Pháp Giới (法界), Pháp Tánh (法性), Thật Tế (實際), Thật Tướng (實相), Như Lai Tạng (如來藏), Pháp Thân (法身), Phật Tánh (佛性), Tự Tánh Thanh Tịnh Thân (自性清淨身), Nhất Tâm (一心), Bất Tư Nghì Giới (不思議界). Trong các Phật điển Hán dịch thời kỳ đầu, Chơn Như được dịch là Bản Vô (本無). Nếu nghiên cứu kỹ, các tông phái dùng từ này với nghĩa khác nhau. Theo A Hàm Kinh (阿含經), lý pháp của Duyên Khởi là chân lý vĩnh viễn bất biến, nên gọi đó là Chơn Như. Lại nữa, căn cứ vào thuyết Cửu Vô Vi (九無爲, 9 loại Vô Vi) do Hóa Địa Bộ (s: Mahīśāsaka, 化地部) trong Dị Bộ Tông Luân Luận (異部宗輪論), có Thiện Pháp Chơn Như (善法眞如), Bất Thiện Pháp Chơn Như (不善法眞如), Vô Ký Pháp Chơn Như (無記法眞如), Đạo Chi Chơn Như (道支眞如), Duyên Khởi Chơn Như (緣起眞如), v.v. Theo chủ trương của Phật Giáo Đại Thừa, bản tánh của tất cả tồn tại như người và pháp đều vô ngã, vượt qua các tướng sai biệt vốn có; nên gọi là Chơn Như. Tỷ dụ sự tự tại của Pháp Thân Như Lai là Chơn Như. Theo Phật Địa Kinh Luận (佛地經論) quyển 7, Chơn Như là thật tánh của tất cả vạn tượng; tướng của nó tuy có nhiều loại khác nhau, nhưng thể của nó cùng một vị, cùng với các pháp không một cũng không khác, vượt ra ngoài những phạm trù của ngôn ngữ, tư duy. Từ quan điểm xa lìa những sai khác, hư ngụy, Chơn Như, nó được gọi là Giả Danh Chơn Như (假名眞如). Hay nếu là nơi nương tựa của tất cả các điều thiện, nó có tên là Pháp Giới. Nếu là chỗ sở ngộ của trí vô phân biệt, nó có tên là Thắng Nghĩa (勝義). Về các tên gọi khác nhau của Chơn Như, Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經) quyển 360, có nêu 12 từ như Chơn Như, Pháp Tánh, Bất Hư Vọng Tánh (不虛妄性), Bình Đẳng Tánh (平等性), Ly Sanh Tánh (離生性), Pháp Định (法定), Pháp Trú (法住), Thật Tế, Hư Không Giới (虛空界) và Bất Tư Nghì Giới. Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (阿毘達磨雜集論) quyển 2 có liệt ra 6 từ như Chơn Như, Không Tánh (空性), Vô Tướng (無相), Thật Tế, Thắng Nghĩa, Pháp Giới. Pháp Hoa Huyền Nghĩa (法華玄義) quyển 8 cũng nêu lên 14 từ khác nhau như Thật Tướng, Diệu Hữu (妙有), Chơn Thiện Diệu Sắc (眞善妙色), Thật Tế, Tất Cánh Không (畢竟空), Như Như, Niết Bàn (涅槃), Hư Không (虛空), Phật Tánh, Như Lai Tạng (如來藏), Trung Thật Lý Tâm (中實理心), Phi Hữu Phi Vô Trung Đạo (非有非無中道), Đệ Nhất Nghĩa Đế (第一義諦), Vi Diệu Tịch Diệt (微妙寂滅). Theo Thành Duy Thức Luận (成唯識論) quyển 10, Pháp Tướng Tông lập ra 10 loại Chơn Như khác nhau, tùy theo cấp độ giác ngộ sâu cạn của vị Bồ Tát, gồm: Biến Hành Chơn Như (變行眞如), Tối Thắng Chơn Như (最勝眞如), Thắng Lưu Chơn Như (勝流眞如), Vô Nhiếp Thọ Chơn Như (無攝受眞如), Loại Vô Biệt Chơn Như (類無別眞如), Vô Nhiễm Tịnh Chơn Như (無染淨眞如), Pháp Vô Biệt Chơn Như (法無別眞如), Bất Tăng Giảm Chơn Như (不增減眞如), Trí Tự Tại Sở Y Chơn Như (智自在所依眞如) và Nghiệp Tự Tại Đẳng Sở Y Chơn Như (業自在等所依眞如). Còn Địa Luân Tông thì chủ trương tự thể của A Lại Da Thức (s: ālaya-vijñāna, 阿賴耶識) thứ 8 là Tự Tánh Thanh Tịnh Tâm (自性清淨心) và đó là Chơn Như. Thức này do bị Vô Minh huân tập, nên xuất hiện các hiện tượng ô nhiễm, thanh tịnh, v.v. Hoa Nghiêm Tông lại chủ trương “bản thể là hiện tượng”, có nghĩa rằng Chơn Như vốn là vạn pháp và vạn pháp cũng là Chơn Như. Cho nên, tông này nêu ra 2 loại Chơn Như: Nhất Thừa Chơn Như (一乘眞如, gồm Biệt Giáo Chơn Như [別敎眞如] và Đồng Giáo Chơn Như [同敎眞如]) và Tam Thừa Chơn Như (三乘眞如, gồm Đốn Giáo Chơn Như [頓敎眞如] và Tiệm Giáo Chơn Như [漸敎眞如]). Trong khi đó, Thiên Thai Tông thì dựa trên thuyết Tánh Cụ (性具, tánh có đầy đủ các pháp) mà cho rằng bản thân Chơn Như xưa nay vốn đầy đủ các pháp ô nhiễm, thanh tịnh, thiện ác, v.v. Từ đó, tự tánh thanh tịnh của chư Phật được gọi là Vô Cấu Chơn Như (無垢眞如), hay Xuất Triền Chơn Như (出纒眞如); còn thể tánh của chúng sanh bị phiền não làm cho cấu nhiễm, nên gọi là Hữu Cấu Chơn Như (有垢眞如), hoặc Tại Triền Chơn Như (在纒眞如); cả có tên là Lưỡng Cấu Chơn Như (兩垢眞如). Tổ Giác Tiên (覺先, 1880-1936), người khai sáng An Nam Phật Học Hội (安南佛學會) ở miền Trung và cũng là vị tổ khai sơn Chùa Trúc Lâm tại Huế, có làm bài thơ rằng: “Phù sanh ký thác chơn như mộng, đáo xứ năng an tiện thị gia (浮生寄托眞如夢、到處能安便是家, phù sanh tạm gởi chơn như mộng, đến chốn khéo an ấy là nhà).”
(s: Mahāvairocana, Vairocana, 大日如來): âm dịch là Ma Ha Tỳ Lô Giá Na (摩訶毘盧遮那), dịch là Đại Biến Chiếu Như Lai (大遍照如來), Biến Chiếu Như Lai (遍[徧]照如來). Về danh nghĩa, ma ha (摩訶) có nghĩa là to lớn, nhiều, hơn cả. Tỳ (毘) là phổ biến, quảng bác, rộng rãi, cao hiển. Lô giá na (盧遮那) là quang minh, sáng tỏa, mỹ lệ. Cho nên Ma Ha Tỳ Lô Giá Na còn có các tên gọi khác nhau như Tối Cao Hiển Quảng Minh Nhãn Tạng Như Lai (最高顯廣明眼藏如來, Kim Cang Đảnh Nghĩa Quyết [金剛頂義決], Bất Không [s: Amoghavajra, 不空] soạn, Taishō No. 39), Vô Lượng Vô Biên Cứu Cánh Như Lai (無量無邊究竟如來, Lý Thú Kinh [理趣經], Kim Cang Trí [s: Vajrabodhi, 金剛智] dịch, Taishō No. 8), Quảng Bác Thân Như Lai (廣博身如來, Thí Chư Ngạ Quỷ Pháp [施諸餓鬼法], Bất Không dịch, Taishō No. 21), Nhất Thiết Pháp Tự Tại Mâu Ni (一切法自在牟尼, Đại Nhật Kinh Sớ [大日經疏] 18, Nhất Hành [一行, 683-727] ghi, 20 quyển, Taishō No. 39), v.v. Đây là đấng giáo chủ bổn tôn trung tâm tuyệt đối của Mật Giáo, được xem như thể hiện toàn bộ chân lý của vũ trụ. Trong Đại Nhật Kinh Sớ giải thích rằng ánh sáng trí tuệ của Ngài trừ tối tăm, tỏa sáng khắp tất cả, là ánh sáng lớn không thể nào so sánh với thần mặt trời có phân biệt ngày đêm, phương hướng, tỏa chiếu khắp hết thảy mọi nơi, hoạt động từ bi của Ngài liên tục, vĩnh viễn bất diệt; vì vậy mới thêm vào chữ “đại (s: mahā, 大)” để thể hiện sự hơn hẳn, vượt trội lên tất cả. Đấng Đại Nhật Như Lai như vậy lấy thật tướng của vũ trụ làm Pháp Thân, hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều xuất sanh từ đức Phật này, và tất cả mọi chuyển động đều là hiển hiện cái đức của đấng Như Lai này. Đại Nhật Kinh (s: Mahāvairocanābhisaṃbodhi-vikurvitādhiṣṭhāna-vaipulya-sūtrendra-rāja nāma dharmaparyāya, 大日經) cũng như Kim Cang Đảnh Kinh (s: Sarvatathāgatatattvasaṃgrahanāmamahāyāna-sūtra, 金剛頂經) là những kinh điển thuyết về cách thức hiển hiện các đức ấy trong mối quan hệ với rất nhiều đấng bổn tôn khác; đồ hình thể hiện Ngài là hai bộ Mạn Trà La của Thai Tạng Giới (胎藏界) và Kim Cang Giới (金剛界). Mật hiệu của Ngài là Biến Chiếu Như Lai. Về hình tượng, với tính cách là đấng Như Lai nhưng hình là Bồ Tát. (1) Kim Cang Giới Đại Nhật (金剛界大日): hình tháp, chủng tử là vaṃ, āḥ, oṃ; là đấng trung tôn của 8 hội, ngoài Lý Thú Hội (理趣會) vốn lấy Kim Cang Tát Đỏa (金剛薩埵) làm đấng chủ tôn trong 9 hội, thuyết về kinh điển của hệ Kim Cang Đảnh Kinh. Trong quyển 3 của Kim Cang Đảnh Du Già Trung Lược Xuất Niệm Tụng Kinh (金剛頂瑜伽中略出念誦經, 4 quyển, Kim Cang Trí dịch, Taishō No. 18) có dạy rằng nên nghĩ tưởng đức Tỳ Lô Giá Na Phật, Ngài ngồi ngay trung ương của đàn, ngồi kiết già với oai đức lớn, sắc trắng như con thiên nga, hình như mặt trăng trong lành, hết thảy tướng hảo đều tròn đầy; trên đầu Ngài đội mũ báu, tóc rũ xuống, áo trời bằng tơ mỏng nhẹ buông trên vai. Trong quyển Trung của Chư Phật Cảnh Giới Nhiếp Chân Thật Kinh (諸佛境界攝眞實經, 3 quyển, Bát Nhã [般若] dịch, Taishō No. 18) cũng có giải thích rằng trên đảnh đầu Ngài có mũ 5 thứ báu, trong mũ báu có 5 vị Hóa Phật ngồi kiết già; quán như vậy xong rồi, hãy bắt Kiên Lao Kim Cang Quyền Ấn (堅牢金剛拳印), Bồ Đề Dẫn Đạo Đệ Nhất Trí Ấn (菩提引導第一智印); nhờ gia trì ấn này mà có thể thọ ký quyết định chắc chắn chứng đắc vô thượng Bồ Đề. (2) Thai Tạng Giới Đại Nhật (胎藏界大日): hình Ngũ Luân Tháp (五輪塔) không có trang sức, chủng tử āḥ, a, khaṃ, ma; là đấng chủ tôn trung tâm của Trung Đài Bát Diệp Viện (中台八葉院), được thuyết trong hệ Đại Nhật Kinh; trong quyển 1 của Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh (大毘盧遮那成佛神變加持經, 7 quyển, gọi tắt là Đại Nhật Kinh, Taishō No. 18, Thiện Vô Úy [善無畏, 637-765] và Nhất Hành [一行, 683-727] cọng dịch) có đoạn rằng đấng Đại Nhật Thắng Tôn xuất hiện, sắc vàng ròng rực rỡ, trên đầu đội mũ búi tóc; có ánh sáng cứu thế viên mãn, xa lìa nhiệt não, trú trong Tam Muội. Trong Đại Nhật Kinh Sớ quyển 4 cũng giải thích thêm rằng Ngài lấy chữ A để chuyển thành thân của Đại Nhật Như Lai, giống như sắc màu vàng kim của Diêm Phù Đàn Tử Ma (閻浮檀紫摩), như tượng Bồ Tát, khắp thân phóng đủ loại hào quang. Ấn tướng của Ngài là Pháp Giới Định Ấn (法界定印) nhằm thuyết về sự xa lìa nhiệt não và trú trong Tam Muội. (3) Tứ Diện Đại Nhật (四面大日): trong Lược Xuất Niệm Tụng Kinh (中略出念誦經) quyển 1 có giải thích rằng từ ý nghĩa hiển đắc Tứ Trí của Như Lai nội chứng, đức Phật này thể hiện không y cứ vào phương diện nào cả. Đấng bổn tôn chính của Tháp Du Kỳ (瑜祇塔) trên Cao Dã Sơn cũng dựa trên cơ sở của đấng Tứ Diện Đại Nhật. Tại Nhật Bản, hiện tồn rất nhiều tôn tượng bằng tranh cũng như gỗ khắc của đức Đại Nhật Như Lai này.
(s, p: mahāmuni, 大聖): từ tôn xưng đối với chư Phật, Bồ Tát cũng như các vị Đại Thanh Văn, khác với từ thánh nhân của thế tục; như Đại Thánh Phổ Hiền Bồ Tát (大聖普賢菩薩), Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (大聖文殊師利菩薩), Đại Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát (大聖觀自在菩薩), Đại Thánh Bát Động Minh Vương (大聖不動明王), Đại Thánh Hoan Hỷ Thiên (大聖歡喜天), v.v. Trong Hán Tạng có các kinh như Đại Thánh Diệu Cát Tường Bồ Tát Thuyết Trừ Tai Giáo Lịnh Pháp Luân (大聖妙吉祥菩薩說除災敎令法輪, Taishō No. 966), Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Tán Phật Pháp Thân Lễ (大聖文殊師利菩薩讚佛法身禮, Taishō No. 1195), v.v. Từ này cũng được dùng trong Đạo Giáo như trong Thái Thượng Huyền Linh Bắc Đẩu Bổn Mạng Diên Sanh Chơn Kinh (太上玄靈北斗本命延生眞經) có câu: “Niệm thử Đại Thánh Bắc Đẩu Thất Nguyên Chơn Quân danh hiệu, đương đắc tội nghiệp tiêu trừ (念此大聖北斗七元眞君名號、當得罪業消除, niệm danh hiệu của vị Đại Thánh Bắc Đẩu Thất Nguyên Chơn Quân này sẽ được tiêu trừ tội nghiệp).”
(檀度): Đàn là từ viết tắt của Đàn Na (s, p: dāna, 檀那), nghĩa là bố thí; Độ là ý dịch của từ Ba La Mật (s, p: pāramitā, 波羅蜜), nghĩa là Đáo Bỉ Ngạn (到彼岸, đạt đến bờ bên kia của Niết Bàn). Cho nên, Đàn Độ là Bố Thí Ba La Mật, một trong 6 hạnh tu của vị Bồ Tát. Nếu thực hành trọn vẹn hạnh bố thí, các hạnh kia đều được thâu nhiếp. Như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh Tập Giải (大般涅槃經集解, Taishō No. 1763) quyển 4 có câu: “Nhược Đàn Độ tất thành, thị tắc trưởng dưỡng tương lai Pháp Thân dã (若檀度必成、是則長養將來法身也, nếu Bố Thí thành tựu, ắt sẽ nuôi lớn Pháp Thân của tương lai vậy).” Hay trong Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ Kinh (妙法聖念處經, Taishō No. 722) quyển 4 cũng có dạy rằng: “Nhược phục hữu nhân, tu tập Đàn Độ, ư đương lai thế, tài vật cụ túc, ly chư tổn hoại (若復有人、修習檀度、於當來世、財物具足、離諸損壞, nếu lại có người, tu tập bố thí, trong đời tương lai, lìa các tổn thất).”
(s: maṇḍa, sarpir-maṇḍa, p: maṇḍa, sappi-maṇḍa, 醍醐):
(1) chỉ loại dầu tinh chất được chế thành từ ván sữa; màu vàng trắng, đem làm bánh, rất ngọt và béo;
(2) chỉ cho một loại rượu ngon;
(3) là một trong 5 vị, tức sữa, cạo sữa, ván sữa sống, ván sữa chín và đề hồ; nên có tên gọi là Đề Hồ Vị (醍醐味);
(4) vì Đề Hồ là vị ngon nhất trong các loại sữa, nên Phật Giáo dùng để chỉ Niết Bàn, Phật tánh, giáo lý chân thật. Trong kinh điển Hán dịch của Phật Giáo Trung Quốc thời kỳ đầu, Đề Hồ có nghĩa là “bản chất, tinh túy.”
Ngoài ra, Đề Hồ còn được dùng như là một phương thuốc chữa bệnh; như trong chương Tây Vức (西域) của Ngụy Thư (魏書) có đoạn: “Tục tiễn phát tề mi, dĩ Đề Hồ đồ chi, dục dục nhiên quang trạch, nhật tam tháo thấu, nhiên hậu ẩm thực (俗剪髮齊眉、以醍醐塗之、昱昱然光澤、日三澡漱、然後飲食, có tục lệ cắt tóc xén lông mày, lấy đề hồ thoa lên, hong nắng ánh sáng, một ngày tắm giặt ba lần, sau đó mới ăn uống).” Quyển 596 của Toàn Đường Văn (全唐文), bài Tống Thái Chiểu Hiếu Liêm Cập Đệ Hậu Quy Mân Cận Tỉnh Tự (送蔡沼孝廉及第後歸閩覲省序) của Âu Dương Chiêm (歐陽詹, 756-798) lại có đoạn rằng: “Phanh nhũ vi đề hồ, đoán kim vi càn tương, dự kỳ phanh đoán dĩ biến hóa (烹乳爲醍醐、鍛金爲乾將、予期烹鍛以變化, nấu sữa thành Đề Hồ, nung vàng làm kiếm tốt, chờ đợi lúc nấu và rèn biến hóa).” Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh (大乘理趣六波羅蜜多經) quyển 1 có giải thích rằng: “Khế Kinh như nhũ, điều phục như lạc, Đối Pháp Giáo giả như bỉ sanh tô, Đại Thừa Bát Nhã do như thục tô, Tổng Trì Môn giả thí như Đề Hồ. Đề Hồ chi vị, nhũ, lạc, tô trung vi diệu đệ nhất, năng trừ chư bệnh, linh chư hữu tình thân tâm an lạc. Tổng Trì Môn giả, Khế Kinh đẳng trung tối vi đệ nhất, năng trừ trọng tội, linh chư chúng sanh giải thoát sanh tử, tốc chứng Niết Bàn an lạc Pháp Thân (契經如乳、調伏如酪、對法敎者如彼生酥、大乘般若猶如熟酥、總持門者譬如醍醐。醍醐之味、乳、酪、酥中微妙第一、能除諸病、令諸有情身心安樂。總持門者、契經等中最爲第一、能除重罪、令諸眾生解脫生死、速證涅槃安樂法身, Khế Kinh như sữa, điều phục như cạo sữa, giáo lý Đối Pháp giống như ván sữa sống, Bát Nhã Đại Thừa như ván sữa chín, Tổng Trì Môn ví như Đề Hồ. Vị của Đề Hồ vi diệu số một trong các loại sữa, cạo sữa, ván sữa; có thể trừ các bệnh, khiến cho thân tâm chúng hữu tình được an lạc. Tổng Trì Môn là số một trong Khế Kinh, v.v., có thể trừ các tội nặng, khiến các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, Pháp Thân an lạc).” Do vì Đề Hồ được xem như là giáo lý tối thượng, Phật tánh, v.v.; cho nên xuất hiện thuật ngữ “Đề Hồ Quán Đảnh (醍醐灌頂)” để ví dụ cho việc lấy giáo pháp tối thượng giúp người hành trì để chuyển hóa vô minh, phiền não và đạt được mát mẻ, an lạc. Như trong bài thơ Hành Lộ Nan (行路難) của Cố Huống (顧況, 725-814) có câu: “Khởi tri quán đảnh hữu Đề Hồ, năng sử thanh lương đầu bất nhiệt (豈知灌頂有醍醐、能使清涼頭不熱, sao biết quán đảnh có Đề Hồ, thể khiến mát trong không nóng).” Hay trong bài Ta Lạc Phát (嗟落髮) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) cũng có câu: “Hữu như Đề Hồ quán, tọa thọ thanh lương lạc (有如醍醐灌、坐受清涼樂, lại như rưới Đề Hồ, ngồi thọ vui mát mẻ).” Lại như trong bài Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh Tự (大乘本生心地觀經序) của vua Hiến Tông (憲宗, tại vị 805-820) nhà Đường có đoạn: “Tỉ phi duyệt chi giả Cam Lồ sái ư tâm điền, hiểu ngộ chi giả Đề Hồ lưu ư tánh cảnh (俾披閱之者甘露灑於心田、曉悟之者醍醐流於性境, người đọc kỹ nó như Cam Lồ rưới nơi ruộng tâm, người hiểu ngộ được nó như Đề Hồ chảy vào cảnh giới tánh).” Bên cạnh đó, trong bài Thật Tế Tự Cố Tự Chủ Hoài Uẩn Phụng Sắc Tặng Long Xiển Đại Pháp Sư Bi Minh (實際寺故寺主懷惲奉敕贈隆闡大法師碑銘) của Đổng Hạo (董浩) nhà Thanh cũng có đoạn: “Tri dữ bất tri, ngưỡng Đề Hồ ư cú kệ, thức dữ bất thức, tuân pháp nhũ ư ba lan (知與不知、仰醍醐於句偈、識與不識、詢法乳於波瀾, biết và không biết, kính Đề Hồ từng câu kệ, hiểu và không hiểu, tin sữa pháp nơi sóng cả).” Ngay như trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 31 có câu: “Na Sa Tăng nhất văn Tôn Ngộ Không tam cá tự, tiện hảo tợ Đề Hồ quán đảnh, Cam Lồ tư tâm (那沙僧一聞孫悟空三個字、便好似醒醐灌頂、甘露滋心, Sa Tăng một khi nghe được ba chữ Tôn Ngộ Không, tức thì giống như nước Đề Hồ rưới đầu, Cam Lồ rửa tâm).” Trong bài tán Kinh Pháp Hoa cũng có đề cập đến Đề Hồ như: “Hầu trung Cam Lồ quyên quyên nhuận, khẩu nội đề hồ đích đích lương (喉中甘露涓涓潤、口內醍醐滴滴涼, dưới cổ Cam Lồ rả rích nhỏ, trong miệng Đề Hồ giọt giọt tươi).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập