Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Phán Quan »»

(地府): còn gọi là Âm Tào Địa Phủ (陰曹地府), chỉ dưới lòng đất, tên gọi khác của Địa Ngục. Tại Trung Quốc, phần lớn các điển tịch thần thoại cổ đại cũng như của Phật Giáo đều có đề cập đến tên gọi Âm Tào Địa Phủ. Người dân Trung Quốc chia thế giới vạn vật làm hai cực: đó là học thuyết âm dương, là thành phần quan trọng của học thuyết cổ đại Trung Quốc; như Trời (dương) và Đất (âm), nam (dương) và nữ (âm), mặt trời (dương) và mặt trăng (âm). Hơn nữa, tại Trung Quốc còn có học thuyết Ba Cõi: trên trời, con người và địa ngục. Họ cho rằng mỗi con người đều có linh hồn, 3 hồn hay 7 hồn. Sau khi con người chết đi, trước hết sẽ đọa xuống cõi Âm Tào Địa Phủ để chịu sự xét xử, thọ nhận quả báo, hình phạt; được vị Phán Quan cõi âm là Diêm La Vương (閻羅王) phán xét. Nếu ai trên dương gian làm việc thiện, tu nhân tích đức, sẽ đắc đạo thành tiên, sanh về cõi trời, được trường sanh bất tử. Nếu người chuyên làm việc ác, sẽ bị trừng phạt trong 18 tầng Địa Ngục dưới Âm Phủ. Người trung quốc xưa cho rằng trên trời có Ngọc Hoàng Thượng Đế chưởng quản, ở phương Tây có Phật Tổ Như Lai, trên đời có Hoàng Đế cai trị; còn cõi âm thì có Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) cũng như các vua khác chủ quản. Theo truyền thuyết, người chưởng quan tối cao cõi Địa Phủ là Thiên Tề Nhân Thánh Đại Đế (天齊仁聖大帝), cai quản toàn thể sanh linh vạn vật. Kế đến là Bắc Âm Phong Đô Đại Đế (北陰酆都大帝). Sau đó có các Quỷ Đế (鬼帝, vua quỷ) ở 5 phương: Đông Phương Quỷ Đế Thái Uất Lũy (東方鬼帝蔡鬱壘), còn gọi là Thần Trà (神荼), cai quản Quỷ Môn Quan (鬼門關) ở Đào Chỉ Sơn (桃止山); Tây Phương Quỷ Đế Triệu Văn Hòa (西方鬼帝趙文和), còn gọi là Vương Chân Nhân (王真人), cai quản Ba Trủng Sơn (嶓塚山); Bắc Phương Quỷ Đế Trương Hành (北方鬼帝張衡), còn gọi là Dương Vân (楊雲), cai quản La Phong Sơn (羅酆山); Nam Phương Quỷ Đế Đỗ Tử Nhân (南方鬼帝杜子仁), cai quản La Phù Sơn (羅浮山); Trung Ương Quỷ Đế Chu Khất (中央鬼帝週乞), còn gọi là Khể Khang (稽康), cai quản Bão Độc Sơn (抱犢山). Bên dưới là 6 vị trời La Phong (羅酆), tức là những vị Thủ Cung Thần (守宮神), gồm: Trụ Tuyệt Âm Thiên Cung (紂絕陰天宮), Thái Sát Lượng Sự Tông Thiên Cung (泰煞諒事宗天宮), Minh Thần Nại Phạm Võ Thành Thiên Cung (明晨耐犯武城天宮), Điềm Chiêu Tội Khí Thiên Cung (恬昭罪氣天宮), Tông Linh Thất Phi Thiên Cung (宗靈七非天宮), Cảm Ty Liên Uyển Lũ Thiên Cung (敢司連宛屢天宮). Tuy nhiên, truyền thuyết cho rằng chốn Âm Tào Địa Phủ là do Thập Điện Diêm La Vương (十殿閻羅王) thống quản: Tần Quảng Vương (秦廣王), Sở Giang Vương (楚江王), Tống Đế Vương (宋帝王), Ngũ Quan Vương (五官王), Diêm La Vương (閻羅王), Bình Đẳng Vương (平等王), Thái Sơn Vương (泰山王), Đô Thị Vương (都市王), Biện Thành Vương (卞城王), Chuyển Luân Vương (轉輪王). Dưới Thập Điện Diêm La Vương còn có các vị thần khác như Thủ Tịch Phán Quan Thôi Phủ Quân (首席判官崔府君), Chung Khôi (鍾魁), Hắc Bạch Vô Thường (黑白無常), Ngưu Đầu Mã Diện (牛頭馬面), Mạnh Bà Thần (孟婆神), v.v.
(閻魔十殿): còn gọi là Diêm Vương Thập Điện (閻王十殿), Thập Điện Diêm Vương (十殿閻王), Thập Điện Minh Vương (十殿冥王), Thập Điện Từ Vương (十殿慈王). Nguyên lai chỉ có một vị Diêm Vương, nhưng sau khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, tín ngưỡng về Diêm Vương có ảnh hưởng to lớn đối với hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở đây, trải qua nhiều biến hóa, Hán hóa sắc thái và cuối cùng quan niệm này trở thành Thập Điện Diêm Vương. Kinh điển ban đầu của Phật Giáo không có đề cập đến Thập Điện Diêm Vương. Tỷ dụ như theo Cấm Độ Tam Muội Kinh (禁度三昧經), Diêm Vương chỉ quản hạ 5 vị quan, gồm: Tiên Quan (鮮官) chuyên ngăn cấm sát sanh, Thủy Quan (水官) chuyên ngăn cấm trộm cắp, Thiết Quan (鐵官) chuyên ngăn cấm tà dâm, Thổ Quan (土官) chuyên ngăn cấm nói lời hai lưỡi và Thiên Quan (天官) cấm việc uống rượu. Hơn nữa, trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 33, bộ sử truyện nổi tiếng của Phật Giáo Trung Quốc, có ghi rằng: “Trên đời truyền tụng rằng Hòa Thượng Đạo Minh (道明和尚) nhà Đường thần du xuống Địa Phủ, thấy có 15 hạng người thuộc hạ (của Diêm Vương), từ đó lưu truyền trên thế gian.” Như vậy, thuộc hạ của Diêm Vương đã biến thành 15 người. Danh hiệu của Thập Điện Diêm Vương xuất hiện đầu tiên trong Dự Tu Thập Ngũ Sanh Thất Kinh (預修十五生七經), Diêm Vương Kinh (閻王經), v.v. Căn cứ Ngọc Lịch Bảo Giám (玉曆寶鑑), 10 ngôi điện do Linh Bảo Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (靈寳十方救苦天尊) hóa thành, được 10 vị Diêm Ma (s: Yama, 閻魔) cai quản, gồm:
(1) Tần Quảng Vương (秦廣王, Qín-guàng, hay Tần Quảng Vương Tương [秦廣王蔣]), còn gọi là Thái Tố Diệu Quảng Chơn Quân (泰素妙廣眞君), cai quản ngôi điện thứ nhất, do Đông Phương Thiên Tôn (東方天尊) hóa thành, sống ở Huyền Minh Cung (玄冥宮), chịu trách nhiệm trông coi về sanh tử của của con người và quản lý toàn bộ việc cát hung của cõi u minh, ngày sinh của ông là mồng 2 tháng 2 âm lịch; quỷ Phán Quan của cõi này sống ngoài tảng đá Ốc Tiêu (沃焦[礁]) trong biển lớn; hướng chánh Tây của điện này là con đường tối om dẫn đến Huỳnh Tuyền (黃泉); nếu người làm ác thì sau khi chết sẽ bị nhập vào đài cao bên phải của điện này tên là Nghiệt Kính Đài (孽鏡台); đài cao 1 trượng, treo hướng về phía Đông, phía trên có 7 chữ lớn “Nghiệt Kính Đài tiền vô hảo nhân (孽鏡台前無好人, Trước Nghiệt Kính Đài không người tốt)”; sau khi được chiếu soi ở Nghiệt Kính Đài xong, tội nhân sẽ được phê giải xuống ngôi điện thứ hai để chịu ngục hình thọ khổ tùy theo tội nặng hay nhẹ.
(2) Sở Giang Vương (楚江王, Chŭ-jiāng, hay Sở Giang Vương Lệ [楚江王厲]), còn gọi là Âm Đức Định Hưu Chơn Quân (陰德定休眞君), cai quản ngôi điện thứ hai, do Nam Phương Thiên Tôn (南方天尊) hóa thành, sống tại Phổ Minh Cung (普明宮) dưới đáy biển sâu, chịu trách nhiệm trông coi Hoạt Đại Địa Ngục (活大地獄, địa ngục sống lâu), Hàn Băng Địa Ngục (寒冰地獄, địa ngục băng lạnh) và Bác Y Đình (剥衣亭, nhà cởi áo) và 16 địa ngục bên dưới như Hắc Vân Sa (黑雲沙), Phẩn Niệu Nê (糞尿泥), Ngũ Xoa (五叉), Cơ Ngạ (飢餓), Khát (渴), Nùng Huyết (膿血), Đồng Phủ (銅斧), Đa Đồng Phủ (多銅斧), Thiết Khải (鐵鎧), U Lượng (幽量), Kê (雞), Hôi Hà (灰河), Chước Tiệt (斫截), Kiếm Diệp (劍葉), Hồ Lang (狐狼), Hàn Băng (寒冰). Ngày sinh của ông là mồng 3 tháng 3 âm lịch.
(3) Tống Đế Vương (宋帝王, Sòng-dì, hay Tống Đế Vương [宋帝王餘]), còn gọi là Động Minh Phổ Tĩnh Chơn Quân (洞明普靜眞君), cai quản ngôi điện thứ ba, do Tây Phương Thiên Tôn (西方天尊) hóa thành, sống ở Trụ Tuyệt Cung (紂絕宮), chịu trách nhiệm trông coi Hắc Thằng Địa Ngục (s: Kālasūtra-naraka, 黒繩地獄, địa ngục có sợi dây thừng đen), những ai bị kiện tụng, không vâng lời các bậc trưởng thượng, không thương mạng dân, sĩ thứ thấy lợi mà quên nghĩa, chồng bất nghĩa, vợ không thuận, từng thọ ân huệ mà phụ bạc, nô bộc phản gia chủ, hay phạm tội vượt ngục, trốn quân dịch, v.v., sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục này. Ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 2 âm lịch;
(4) Ngũ Quan Vương (五官王, Wŭ-guān, hay Ngũ Quan Vương Lữ [五官王呂]), còn gọi là Huyền Đức Ngũ Linh Chơn Quân (玄德五靈眞君), cai quản ngôi điện thứ tư, do Bắc Phương Thiên Tôn (北方天尊) hóa thành, sống ở Thái Hòa Cung (太和宮), chịu trách nhiệm trông coi Hợp Đại Địa Ngục (s: Saṅgāta-naraka, 合大地獄, địa ngục hợp lại thành to lớn) và Huyết Trì Địa Ngục (血池地獄, địa ngục có hồ máu) cùng với 16 địa ngục nhỏ như Trì (池), Mâu Liên Trúc Thiêm (蝥鏈竹籤), Phí Thang Kiêu Thủ (沸湯澆手), Chưởng Bạn Lưu Dịch (掌畔流液), Đoạn Cân Dịch Cốt (斷筋剔骨), Yển Kiên Loát Bì (堰肩), Tỏa Phu (鎖膚), Tồn Phong (蹲峰), Thiết Y (鐵衣), Mộc Thạch Thổ Ngõa (木石土瓦), Kiếm Nhãn (劍眼), Phi Hôi Tắc Khẩu (飛灰塞口), Quán Dược (灌藥), Du Hoạt Điệt (油滑跌), Thích Chủy (剌嘴), Toái Thạch Mai Thân (碎石埋身). Những ai thường hay lừa dối sẽ bị đọa xuống địa ngục này; ngày sinh của ông là 18 tháng 2 âm lịch.
(5) Diêm Ma Vương (閻魔王, Yama-rāja, Yán-mó, còn gọi là Diêm La Vương [閻羅王], Diêm Ma Vương Thiên Tử Bao [閻魔王天子包]), còn gọi là Tối Thánh Diệu Linh Chơn Quân (最聖耀靈眞君), cai quản ngôi điện thứ năm, nguyên trước kia trông coi ngôi điện thứ nhất, nhưng vì đồng tình với tội nhân ở đây, nên bị chuyển xuống đây, do Đông Bắc Phương Thiên Tôn (東北方天尊) hóa thành, sống ở Củ Luân Cung (糾倫宮), chịu trách nhiệm trông coi Khiếu Hoán Địa Ngục (s: Raurava-naraka, 叫喚地獄, địa ngục la hét) và 16 địa ngục nhỏ khác; ngày sinh của ông là mồng 8 tháng giêng âm lịch.
(6) Biện Thành Vương (卞城王, Biàn-chéng, hay Biện Thành Vương Tất [卞城王畢]), còn gọi là Bảo Túc Chiêu Thành Chơn Quân (寶肅昭成眞君), cai quản ngôi điện thứ sáu, do Đông Nam Phương Thiên Tôn (東南方天尊) hóa thành, sống ở Minh Thần Cung (明晨宮), chịu trách nhiệm trông coi Đại Khiếu Hoán Địa Ngục (s: Mahāraurava-naraka, 大叫喚地獄, địa ngục la hét lớn) và Uổng Tử Thành (枉死城, thành chết oan uổng) cũng như 16 địa ngục nhỏ khác như Thường Quỵ Thiết Sa (常跪鐵砂), Thỉ Nê Tẩm Thân (屎泥浸身), Ma Tồi Lưu Huyết (磨摧流血), Kiềm Chủy (鉗嘴), Cát Thận Thử Giảo (割腎鼠咬), Cức Cương Hoàng Toản (棘綱蝗鑽), Đối Đảo Nhục Tương (碓搗肉漿), Liệt Bì Kỵ Lôi (裂皮曁擂), Hàm Hỏa Bế Hầu (銜火閉喉), Tang Hỏa Hồng (桑火烘), Phẩn Ô (糞污), Ngưu Điêu Mã Táo (牛雕馬躁), Phi Khiếu (緋竅), Đầu Thoát Xác (頭脫殼), Yêu Trảm (腰斬), Bác Bì Tuyên Thảo (剝皮揎草). Những ai đã từng chửi mắng trời và hướng về phương Bắc mà tiểu tiện sẽ bị đọa xuống nơi này; ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 3 âm lịch.
(7) Thái Sơn Vương (泰山王, Tài-shān, hay Thái Sơn Vương Đổng [泰山王董]), còn gọi là Thái Sơn Huyền Diệu Chơn Quân (泰山玄妙眞君), cai quản ngôi điện thứ bảy, do Tây Nam Phương Thiên Tôn (西南方天尊) hóa thành, sống ở Thần Hoa Cung (神華宮), chịu trách nhiệm trông coi Nhiệt Não Địa Ngục (s: Tapana-naraka, 熱惱地獄, địa ngục đau khổ vì nóng) và 16 địa ngục nhỏ khác như Tuất Tự Thôn (卹自吞), Liệt Hung (冽胸), Địch Thối Hỏa Bức (笛腿火逼), Quyền Kháng Phát (權抗發), Khuyển Giảo Hĩnh Cốt (犬咬脛骨), Úc Thống Khốc Cẩu (燠痛哭狗), Tắc Đảnh Khai Ngạch (則頂開額), Đảnh Thạch Tồn Thân (頂石蹲身), Đoan Bảo Thượng Hạ Trác Giảo (端鴇上下啄咬), Vụ Bì Trư Tha (務皮豬拖), Điếu Giáp Túc (吊甲足), Bạt Thiệt Xuyên Tai (拔舌穿腮), Trừu Tràng (抽膓), Loa Đạp Miêu Tước (騾踏貓嚼), Lạc Thủ Chỉ (烙手指), Du Phủ Cổn Phanh (油釜滾烹). Những ai chế thuốc từ xương người chết và xa lánh người thân sẽ bị đọa xuống nơi này; ngày sinh của ông là 27 tháng 3 âm lịch.
(8) Đô Thị Vương (都市王, Dōu-shì, hay Đô Chủ Vương Hoàng [都主王黃]), còn gọi là Phi Ma Diễn Hóa Chơn Quân (飛魔演化眞君), cai quản ngôi điện thứ tám, do Thượng Phương Thiên Tôn (上方天尊) hóa thành, sống ở Bích Chơn Cung (碧眞宮), chịu trách nhiệm trông coi Đại Nhiệt Não Địa Ngục (s: Mahātapana-naraka, 大熱惱地獄, địa ngục đau khổ vì nóng lớn) và 16 địa ngục nhỏ như Xa Băng (車崩), Muộn Oa (悶鍋), Toái Quả (碎剮), Khổng Tiểu (孔小), Tiễn Chu (翦朱), Thường Thanh (常圊), Đoạn Chi (斷肢), Chích Tủy (炙髓), Ba Tràng (爬膓), Phần (焚), Khai Sanh (開瞠), Quả Hung (剮胸), Phá Đảnh Khiêu Xỉ (破頂撬齒), Cát (割), Cương Xoa (鋼叉). Ngày sinh của ông là mồng 1 tháng 4 âm lịch.
(9) Bình Đẳng Vương (平等王, Píng-dĕng, hay Đối Đẳng Vương Lục [對等王陸]), còn gọi là Vô Thượng Chánh Độ Chơn Quân (無上正度眞君), cai quản ngôi điện thứ chín, do Tây Bắc Phương Thiên Tôn (西北方天尊) hóa thành, sống ở Thất Phi Cung (七非宮), chịu trách nhiệm trông coi A Tỳ Địa Ngục (s: Avīci-naraka, 阿鼻地獄, tức Địa Ngục Vô Gián) và 16 địa ngục nhỏ khác như Sao Cốt Chước Thân (敲骨灼身), Trừu Cân Lôi Cốt (抽筋擂骨), Nha Thực Tâm Can (鴉食心肝), Cẩu Thực Tràng Phế (狗食膓肺), Thân Tiễn Nhiệt Du (身濺熱油), Não Cô Bạt Thiệt Bạt Xỉ (腦箍拔舌拔齒), Thủ Não Điền (取腦填), Chưng Đầu Quát Não (蒸頭刮腦), Dương Súc Thành Diêm (羊搐成鹽), Mộc Giáp Đảnh (木夾頂), Ma Tâm (磨心), Phí Thang Lâm Thân (沸湯淋身), Hoàng Phong (黃蜂), Hiết Câu (蠍鉤), Nghĩ Chú Ngao Đam (蟻蛀熬眈), Tử Xích Độc Xà Toản (紫赤毒蛇鑽). Ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 4 âm lịch.
(10) Chuyển Luân Vương (轉輪王, Zhuàn-lún, hay Chuyển Luân Vương Tiết [轉輪王薛]), còn gọi là Ngũ Linh Uy Đức Chơn Quân (五靈威德眞君), cai quản ngôi điện thứ mười, do Hạ Phương Thiên Tôn (下方天尊) hóa thành, sống ở Túc Anh Cung (肅英宮); ngày sinh của ông là 17 tháng 4 âm lịch. Ông chuyên trông coi các hồn quỷ được áp giải đến từ các điện khác, phân biệt, quyết định tôi phước nặng nhẹ của tội nhân, phân phát đi khắc các bộ châu, tìm đất và loại để cho vong hồn đầu thai. Ông còn có nhiệm vụ xem xét việc thiện ác của tội nhân để thông tri cho cấp trên, thẩm định thọ mạng ngắn dài cũng như tội phước thay đổi của tội nhân. Quá trình khảo tra rất nghiêm mật, cuối cùng mới cho tội nhân cầu vàng, cầu ngọc, cầu đá, cầu gỗ hay Cầu Nại Hà (奈河橋, Nại Hà Kiều) và tống lên cho đầu thai vào 6 đường. Nếu như ở trên đời làm các việc thiện, khi sanh ra sẽ được trời người kính ngưỡng; sau khi chết đi cũng được quỷ thần cung kính; lúc ấy tự thân Chuyển Luân Vương cũng thân hành dẫn các sứ thần đến nghinh đón. Cho nên dân gian có câu rằng: “Tích thiện chi gia hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia hữu dư ương (積善之家有餘慶、積不善之家有餘殃, Nhà tích lũy việc thiện thì có nhiều điều tốt đẹp, nhà không tích lũy việc thiện thì có nhiều tai ương).”
Từ cuối thời nhà Đường trở đi, tín ngưỡng Thập Điện Diêm Vương trở nên thịnh hành. Thông thường, trong Miếu Thành Hoàng ở các địa phương có thiết lập Diêm Vương Điện (閻王殿) để thờ Thập Điện Diêm Vương. Tại các tự viện Phật Giáo, hai bên phải trái của bàn thờ Địa Tạng Bồ Tát cũng có thờ Thập Điện Diêm Vương. Tín ngưỡng Thập Điện Diêm Vương cũng được du nhập vào Việt Nam và vẫn còn lưu hành cho đến ngày hôm nay. Như trong các lòng văn sớ dâng cúng cầu siêu, thường có đề cập đến Minh Vương (冥王, tức Diêm Vương), Diêm Ma Thập Điện như: “Tư lâm Đại Tường chi trai tuần, chánh trị khôn phủ đệ thập điện, Chuyển Luân Minh Vương án tiền trình quá (茲臨大祥之齋旬、正値坤府第十殿、轉輪冥王案前呈過, Nay gặp lúc tuần chay dịp Đại Tường, đúng vào điện thứ mười, xin trình trước án Chuyển Luân Minh Vương)”, hay “Cung phụng: Diện Nhiên Đại Sĩ, uy quang khắc đáo ư kim tiêu; Địa Tạng từ tôn, thần lực đại chương ư thử dạ; Diêm Ma Thập Điện, chiếu khai Thập Bát Địa Ngục chi môn; Tả Hữu Phán Quan, thiêu tận ức kiếp luân hồi chi tịch; tỷ Lục Đạo Tứ Sanh chi vi mạng, khô mộc phùng xuân; sử cửu huyền thất tổ chi sảng linh, đồng đăng giác ngạn (恭奉、面燃大士、威光刻到於今霄。地藏慈尊、神力大彰於此夜。閻魔十殿、照開十八地獄之門。左右判官、燒盡億刼輪廻之籍。俾六道四生之微命、枯木逢春。使九玄七祖之爽靈、同登覺岸, Cúi xin: Diện Nhiên Đại Sĩ, ánh sáng oai lực đến đêm nay; Địa Tạng từ bi, thần lực hiển bày vào tối này. Diêm Ma Mười Điện, mở Mười Tám địa ngục cửa tung; Phán Quan phải trái, đốt sạch hồ sơ luân hồi muôn kiếp; cho mạng nhỏ của Bốn Loài Sáu Đường, cây khô gặp xuân; khiến hương linh của cửu huyền thất tổ, cùng lên bờ giác)”, v.v.
(行譴大王): theo quan niệm tín ngưỡng dân gian của Trung Quốc, có 12 vị Đại Vương Hành Khiển, được gọi là Thập Nhị Hành Khiển Đại Vương (十二行譴大王), cai quản nhân gian. 12 vị ứng với 12 Chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Các Đại Vương này còn được gọi là đương (kim) niên chi thần (當[今]年之神, vị thần của năm nay). Mỗi vị có trách nhiệm thống nhiếp thế gian trong vòng 1 năm, xem xét mọi chuyện tốt xấu của từng người, từng gia đình, từng thôn xã, cho đến từng quốc gia để luận tội và trình tấu lên Ngọc Hoàng Thượng Đế. Bên cạnh mỗi vị Đại Vương, thường có một vị Phán Quan trợ lý. Trong số 12 vị này, có rất nhân đức, độ lượng; có vị cương trực và cũng có vị rất nghiêm khắc. Tương truyền rằng có năm xảy ra loạn lạc, chiến tranh, mất mùa, thiên tai, v.v., cũng do các vị Đại Vương Hành Khiển gây ra để trừng phạt nhân gian. Tên gọi các vị Đại Vương Hành Khiển và Phán Quan như sau:
(1) Năm Tý: Chu Vương Hành Khiển Đại Vương (周王行譴), Thiên Ôn Hành Binh Chi Thần, Lý Tào Phán Quan;
(2) Năm Sửu: Triệu Vương Hành Khiển (趙王行譴), Tam Thập Lục Phương Hành Binh Chi Thần, Tiêu Tào Phán Quan;
(3) Năm Dần: Ngụy Vương Hành Khiển (魏王行譴), Mộc Tinh Chi Thần, Tiêu Tào Phán Quan;
(4) Năm Mão: Trịnh Vương Hành Khiển (鄭王行譴), Thạch Tinh Chi Thần, Liễu Tào Phán Quan;
(5) Năm Thìn: Sở Vương Hành Khiển (楚王行譴), Hỏa Tinh Chi Thần, Biểu Tào Phán Quan;
(6) Năm Tỵ: Ngô Vương Hành Khiển (呉王行譴), Thiên Hải Chi Thần, Hứa Tào Phán Quan;
(7) Năm Ngọ: Tần Vương Hành Khiển (秦王行譴), Thiên Hao Chi Thần, Nhân Tào Phán Quan;
(8) Năm Mùi: Tống Vương Hành Khiển (宋王行譴), Ngũ Đạo Chi Thần, Lâm Tào Phán Quan;
(9) Năm Thân: Tề Vương Hành Khiển (齊王行譴), Ngũ Miếu Chi Thần, Tống Tào Phán Quan;
(10) Năm Dậu: Lỗ Vương Hành Khiển (魯王行譴), Ngũ Nhạc Chi Thần, Cựu Tào Phán Quan;
(11) Năm Tuất: Việt Vương Hành Khiển (越王行譴), Thiên Bá Chi Thần, Thành Tào Phán Quan;
(12) Năm Hợi: Lưu Vương Hành Khiển (劉王行譴), Ngũ Ôn Chi Thần, Nguyễn Tào Phán Quan.
Một trong những ý nghĩa quan trọng của Lễ Giao Thừa là vì tục lệ Việt Nam chúng ta tin rằng mỗi năm có một vị Hành Khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để cung tiễn vị cũ ra đi và nghênh đón vị mới đến. Sở dĩ Lễ Giao Thừa được thiết cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút vị cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã; thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì cả.
(五道將軍): tên gọi vị thần của Đạo Giáo, trợ thủ quan trọng của Đông Nhạc Đại Đế (東岳大帝), chủ tể cõi Địa Ngục. Truyền thuyết ông chưởng quản việc sanh tử của con người, có chức phận tương đương với vị Phán Quan của Diêm Vương (閻王). Trong tác phẩm Hàn Cầm Hổ Thoại Bổn (韓擒虎話本) nhà Đường có câu: “Ngũ Đạo Tướng Quân, thân phi hoàng kim truy giáp, đảnh đới phụng sí, cao thanh xướng dạ (五道將軍、身披黃金錙甲、頂戴鳳翅、高聲唱諾, Ngũ Đạo Tướng Quân, thân mang áo giáp nặng hoàng kim, đầu đội cánh phụng, lớn tiếng xướng dạ).” Lại có thuyết cho rằng Ngũ Đạo Tướng Quân (五盜將軍, chữ đạo [盜, trộm, cắp] ở đây khác với đạo [道, con đường] ở trên) là thần trộm cắp, nên nếu nằm mộng thấy vị thần này thì không tốt.
(五方蠻雷使者): tên gọi vị sứ giả bộ hạ của Lôi Tổ trong Lôi Bộ. Từ này thấy xuất hiện trong Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn Ngọc Xu Bảo Kinh (九天應元雷聲普化天尊玉樞寶經) của Đạo Giáo: “Cửu Thiên Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Lôi Bộ Binh Sứ Giả, Mạc Trám Phán Quan, phát hiệu thi lịnh, tật như phong hỏa (九天雷公將軍、五方雷公將軍、八方雲雷將軍、五方蠻雷使者、雷部兵使者、莫賺判官、發號施令、疾如風火, Cửu Thiên Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Lôi Bộ Binh Sứ Giả, Mạc Trám Phán Quan ban hành hiệu lịnh, nhanh như gió lửa).” Hay trong Tử Vi Huyền Đô Lôi Đình Ngọc Kinh (紫微玄都雷霆玉經) cũng có đoạn rằng: “Bắc Cực Tử Vi Đại Đế thống lãnh Tam Giới, chưởng ác Ngũ Lôi; Thiên Bồng Quân, Thiên Du Quân, Dực Thánh Quân, Huyền Võ Quân phân ty lãnh trị; Thiên Cương Thần, Hà Khôi Thần, thị vi chiêu lôi hịch đình chi ty; Cửu Thiên Lưu Kim Hỏa Linh Đại Tướng Quân, Thiên Đinh Lực Sĩ, Lục Đinh Ngọc Nữ, Lục Giáp Tướng Quân, thị vi tiết độ lôi đình chi sứ; Cửu Thiên Khiếu Mạng Phong Lôi Sứ Giả, Lôi Lịnh Sứ Giả, Hỏa Lịnh Đại Tiên Hỏa Bá, Phong Lịnh Hỏa Lịnh Phong Bá, Tứ Mục Hạo Ông, Thương Nha Phích Lịch Đại Tiên, thị vi nhiếp hạt lôi đình chi thần; Hỏa Bá Phong Đình Quân, Phong Hỏa Nguyên Minh Quân, Lôi Quang Nguyên Thánh Quân, Vũ Sư Trượng Nhân Tiên Quân, thị vi lôi đình phong vũ chi chủ; trung hữu Tam Ngũ Thiệu Dương Lôi Công Hỏa Xa Thiết Diện Chi Thần, trung hữu Phụ Phong Mãnh Lại Ngân Nha Diệu Mục Tiên Hỏa Luật Lịnh Đại Thần, Lang Nha Mãnh Lại Đại Phán Quan, Ngũ Lôi Phi Tiệp Sứ Giả, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Bát Phương Vân Lôi Đại Tướng, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Tam Giới Man Lôi Sứ Giả, Cửu Xã Man Lôi Sứ Giả, thật ty kỳ lịnh, dụng Tán Kì quyền (北極紫微大帝統禦三界、掌握五雷、天蓬君、天猷君、翊聖君、玄武君分司領治、天罡神、河魁神、是爲召雷檄霆之司、九天流金火鈴大將軍、天丁力士、六丁玉女、六甲將軍、是爲節度雷霆之使、九天嘯命風雷使者、雷令使者、火令大仙火伯、風令火令風伯、四目皓翁、蒼牙霹靂大仙、是爲攝轄雷霆之神、火伯風霆君、風火元明君、雷光元聖君、雨師丈人仙君、是爲雷霆風雨之主、中有三五邵陽雷公火車鐵面之神、中有負風猛吏銀牙耀目飆火律令大神、狼牙猛吏大判官、五雷飛捷使者、五方雷公將軍、八方雲雷大將、五方蠻雷使者、三界蠻雷使者、九社蠻雷使者、實司其令、用贊其權, Bắc Cực Tử Vi Đại Đế thống lãnh Ba Cõi, chưởng quản Ngũ Lôi; Thiên Bồng Quân, Thiên Du Quân, Dực Thánh Quân, Huyền Võ Quân phân chia các ban mà thống trị; Thiên Cương Thần, Hà Khôi Thần là các thần quản lý việc kêu sấm gọi sét; Cửu Thiên Lưu Kim Hỏa Linh Đại Tướng Quân, Thiên Đinh Lực Sĩ, Lục Đinh Ngọc Nữ, Lục Giáp Tướng Quân là sứ điều chỉnh sấm sét; Cửu Thiên Khiếu Mạng Phong Lôi Sứ Giả, Lôi Lịnh Sứ Giả, Hỏa Lịnh Đại Tiên Hỏa Bá, Phong Lịnh Hỏa Lịnh Phong Bá, Tứ Mục Hạo Ông, Thương Nha Phích Lịch Đại Tiên là thần cai quản sấm sét; Hỏa Bá Phong Đình Quân, Phong Hỏa Nguyên Minh Quân, Lôi Quang Nguyên Thánh Quân, Vũ Sư Trượng Nhân Tiên Quân là chủ tể quản lý gió mưa, sấm sét; trong đó có Thần Tam Ngũ Thiệu Dương Lôi Công Hỏa Xa Thiết Diện, trong đó lại có Phụ Phong Mãnh Lại Ngân Nha Diệu Mục Tiên Hỏa Luật Lịnh Đại Thần, Lang Nha Mãnh Lại Đại Phán Quan, Ngũ Lôi Phi Tiệp Sứ Giả, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Bát Phương Vân Lôi Đại Tướng, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Tam Giới Man Lôi Sứ Giả, Cửu Xã Man Lôi Sứ Giả thật sự thi hành lịnh của Bắc Cực Tử Vi Đại Đế để tán dương quyền lực Người).”
(普庵印肅, 1115-1169), còn gọi là Phổ Am Thiền Sư (普庵[菴]禪師), Phổ Am Tổ Sư (普庵祖師); trong dân gian vẫn thường gọi là Phổ Án (普唵). Ngài là bậc cao tăng của Lâm Tế Tông, pháp từ của Mục Am Pháp Trung (牧庵法忠), sanh vào năm thứ 5 (1115) niên hiệu Chính Hòa (政和) đời vua Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1125) nhà Tống; xuất thân Nghi Xuân (宜春), Viên Châu (袁州); họ là Dư (余), dung mạo rất kỳ khôi, thiên tánh mẫn tuệ. Khi hạ sanh ông, mẫu thân mộng thấy ánh sáng tỏa khắp bầu trời, hoa sen sanh trên lối đi. Lúc còn nhỏ, Phổ Am mộng thấy một vị dị tăng chỉ vào ngực ông mà bảo rằng: “Ngươi ngày kia sẽ tỉnh ngộ.” Tỉnh dậy, ông đem câu chuyện ấy kể cho mẹ nghe, người mẹ bèn vạch ngực ông ra xem thì quả nhiên có một điểm màu hồng như trái đào. Vào năm 1134 (Thiệu Hưng [紹興] 4), lúc 20 tuổi, ông xuất gia với Thiền Sư Thọ Long Hiền (壽隆賢); rồi đến năm 1141 (Thiệu Hưng 11) mới được xuống tóc và năm sau thì thọ giới ở Khai Nguyên Tự (開元寺), Viên Châu (袁州). Vào năm 1143 (Thiệu Hưng 13), ông đến dạo chơi Hồ Tương (湖湘), tham yết Thiền Sư Yết Mục Am Pháp Trung (牧庵法忠), được vị này khai thị cho nên tỉnh ngộ. Sau ông trở về Thọ Long Viện (壽隆院). Đến năm 1153 (Thiệu Hưng 23), năm lên 39 tuổi, ông được thỉnh làm Trú Trì Từ Hóa Tự (慈化寺) ở Nghi Xuân, Giang Tây (江西). Ông thường mặc áo vải thô sơ, lưng chưa hề chấm chiếu, chuyên tâm Thiền định, nhân một hôm đọc đến đoạn “đạt bổn tình vong, tri tâm thể hợp (達本情忘、知心體合, đạt gốc tình quên, biết tâm thể hợp)” trong Kinh Hoa Nghiêm thì hoát nhiên tỉnh ngộ. Vào năm 1169 (Càn Đạo [乾道] 5, đời vua Hiếu Tông [孝宗, tại vị 1162-1189] nhà Nam Tống), ông tắm rửa, viết bài kệ, ngồi xếp bằng viên tịch. Bộ Phổ Am Ấn Túc Thiền Sư Ngữ Lục (普菴印肅禪師語錄), 3 quyển, của ông hiện được thâu lục trong bộ Vạn Tân Toản Tục Tạng Kinh (卍新纂續藏經, Vol. 69, No. 1356). Do vì khi còn tại thế, có rất nhiều truyền thuyết linh nghiệm về ông, sau khi qua đời, Thiền Sư Phổ Am được mọi người tín ngưỡng, trở thành một vị thần thánh của Phật Giáo chuyên tiêu tai, giải ách. Như vào năm 1156 (Thiệu Hưng 26), một hôm nọ Thiền Sư mở pháp hội, mọi người đến tham dự rất đông; vì vậy quan phủ cho người đến điều tra xem thử hư thực thế nào, nhưng đột nhiên cuồng phong, mưa lớn, trên trời hiện ra một con rồng lớn, nên quan phủ không dám điều tra, bèn quay trở về. Lại có hôm nọ, đáp ứng lời mời của người tín đồ tên Trần Thiên Chương (陳天章), cử hành pháp sự tại tư gia của người này, nhưng chỉ sai chúng tăng tụng một bộ Kinh Kim Cang. Nhân đó, Trần Thiên Chương không vui lòng, vì vậy Thiền Sư Phổ Am phải tụng thêm một bộ Kinh Kim Cang nữa. Về sau, Trần Thiên Chương bị chết sấp giữa đường, rồi ba ngày sau thì tái sanh lại, tự cho là ông bị dẫn xuống Địa Phủ, Phán Quan quở trách ông rằng: “Sao nhà ngươi lại bất kính với Thiền Sư Phổ Am, rồi bắt tụng thêm biến Kinh Kim Cang.” Sau đó, Trần Thiên Chương lại mang một xâu tiền đèn dầu cúng cho Thiền Sư và nhân đó Thiền Sư viết lên lên lưng ông bốn chữ “thí tài công cứ (施財功據, công đức bố thí tiền tài)”. Sau khi Trần Thiên Chương qua đời, trong một gia đình họ Cam (甘) hạ sanh một đứa bé, trên lưng đứa bé ấy xuất hiện dấu tích bốn chữ như vậy. Tương truyền Thiền Sư rất sùng kính Kinh Kim Cang, từng dùng máu mình viết bộ kinh này trong vòng 5 năm trường và sau đó được tôn thờ tại Từ Hóa Tự. Bộ kinh này cùng với bài văn bia Kim Cang Kinh của thi hào Tô Đông Pha (蘇東坡, 1036-1101) ở Huệ Lực Tự (慧力寺), Lâm Giang (臨江), được xem như là hai bảo vật vô giá về Kinh Kim Cang của Giang Tây. Vào năm 1300 (Đại Đức [大德] 4, đời vua Thành Tông [成宗, tại vị 1294-1307] nhà Nguyên), ông được ban cho thụy hiệu là Đại Đức Huệ Khánh (大德慧慶); rồi đến năm 1420 (Vĩnh Lạc [永樂] 18, đời vua Thành Tổ [成祖, tại vị 1402-1424] nhà Minh), ông lại được phong thêm hiệu là Phổ Am Chí Thiện Hoằng Nhân Viên Thông Trí Tuệ Tịch Cảm Ứng Từ Tế Chơn Giác Chiêu Huống Huệ Khánh Hộ Quốc Tuyên Giáo Đại Đức Bồ Tát (普庵至善弘仁圓通智慧寂感妙應慈濟眞覺昭貺慧慶護國宣敎大德菩薩). Tại các tự viện của Lâm Tế Tông, thường có thờ Thần Vị của Thiền Sư Phổ Am để hàng phục yêu ma. Do vì ông có tính thần dị, có các đạo sĩ không thuộc Phật Giáo lại tôn sùng ông là Tổ Sư, xưng hiệu là Phổ Án Giáo Chủ (普唵敎主) của Phổ Am Phái (普庵派) hay Phổ Án Phái (普唵派). Tượng của ông có nhiều loại khác nhau như tượng Tỳ Kheo, Đạo Sĩ, Tướng Quân, Đế Vương, v.v. Thậm chí như những người chuyên về ngư nghiệp, thuyền hải cũng thường tôn thờ Thần Vị của Thiền Sư Phổ Am trên thuyền của họ để cầu bình an trên sông nước; nên ông còn được xem như là người có công năng như Hải Thần vậy. Theo truyền thuyết của dân gian, nếu lấy giấy màu hồng, vàng viết lên 8 chữ “Phổ Am đáo thử bách vô cấm kỵ (普庵到此百無禁忌, Phổ Am đến đây, trăm điều không còn cấm kỵ nữa)”, rồi dán trong nhà thì có thể cải thiện được vấn đề phong thủy; hay mang nơi thân mình thì có thể xua đuổi điều xấu và mang lại điều lành. Trong lúc sinh tiền, ông thường làm những điều linh nghiệm như bẻ cây trị bệnh, chặt cây ma quái, cầu mưa, v.v. Hơn nữa, ông lại rất tinh thông Phạn văn, từng lấy Phạn văn phiên âm thành chú, người đời gọi đó là Phổ Am Chú (普庵咒). Thần chú này có thần lực làm cho an định mười phương và tòng lâm, nên thường được tụng tại các tự viện vào mỗi dịp đầu và giữa tháng. Thậm chí thần chú này còn có công năng xua đuổi các loài muỗi, trùng, rắn rít, v.v. Trong khoảng niên hiệu Vạn Lịch (萬曆, 1573-1620) nhà Minh, Thiền Sư Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615) mới đưa thần chú này vào bản Chư Kinh Nhật Tụng (諸經日誦).
(十八地獄): còn gọi là Thập Bát Tằng Địa Ngục (十八層地獄), Thập Bát Trùng Địa Ngục (十八重地獄), Thập Bát Nê Lê (十八泥犁). Theo truyền thuyết dân gian Trung Quốc, vua Diêm La (閻羅) là đứng đầu các địa ngục, 18 vị thuộc hạ Phán Quan Theo chủ quản 18 tầng địa ngục. Sau khi truyền vào nước này, Phật Giáo đã lấy tư tưởng này để dùng và giải thích về các tầng địa ngục. Mười Tám Tầng Địa Ngục trong Thập Bát Nê Lê Kinh (十八泥犁地獄) do An Thế Cao (安世高) nhà Đông Hán dịch, lấy sự dài ngắn, tội hình, đẳng cấp, sự nhẹ nặng trong thời gian thọ tội để bài liệt thành. Mỗi địa ngục so với địa ngục trước tăng thêm nỗi khổ lên 20 lần, tăng tuổi thọ thêm 1 lần. Mười Tám Tầng Địa Ngục này có âm dịch Phạn văn như: Quang Tựu Cư (光就居), Cư Hư Thối Lược (居虛倅略), Tang Cư Đô (桑居都), Lâu (樓), Phòng Tốt (房卒), Thảo Ô Ti Thứ (草烏卑次), Đô Lô Nan Đán (都盧難旦), Bất Lô Bán Hô (不盧半呼), Ô Cánh Đô (烏竟都), Nê Lô Đô (泥盧都), Ô Lược (烏略), Ô Mãn (烏滿), Ô Tạ (烏藉), Ô Hô (烏呼), Tu Kiện Cư (須健居), Mạt Đô Can Trực Hô (末都干直呼), Khu Thông Đồ (區通途), Trần Mạc (陳莫). Chữ “tầng (層)” trong Mười Tám Tầng Địa Ngục không phải chỉ cho phương trên dưới về mặt không gian, mà đối với thời gian cũng như hình pháp vốn bất đồng, cho nên nó có ý nghĩa về mặt thời gian nhiều hơn. Tầng địa ngục thứ nhất lấy tuổi thọ con người 3750 năm là 1 ngày, 30 ngày là 1 tháng, 12 tháng là 1 năm, tội quỷ chịu hình phạt ở chốn địa ngục này đến 1 vạn năm (tức 135 ức năm trên cõi người). Thời gian thọ hình phạt ở các tầng địa ngục sau thì lấy thời gian thọ hình ở đia ngục trước tăng lên gấp hai lần. Thuyết về Mười Tám Tầng Địa Ngục vốn phát xuất từ Bà La Môn Giáo của Ấn Độ ngày xưa và về sau có những thay đổi khác. Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (觀佛三昧海經) quyển 5 có nêu rõ 18 loại địa ngục (s: naraka, niraya, p: niraya, 地獄) nhỏ như A Tỳ Địa Ngục (阿鼻地獄), 18 Địa Ngục Lạnh (十八寒地獄, Thập Bát Hàn Địa Ngục), 18 Địa Ngục Tối Tăm (十八黑闇地獄, Thập Bát Hắc Ám Địa Ngục), 18 Địa Ngục Nóng Ít (十八小熱地獄, Thập Bát Tiểu Nhiệt Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vòng Tròn Đao (十八刀輪地獄, Thập Bát Đao Luân Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vòng Tròn Kiếm (十八劍輪地獄, Thập Bát Kiếm Luân Địa Ngục), 18 Địa Ngục Xe Lửa (十八火車地獄, Thập Bát Hỏa Xa Địa Ngục), 18 Địa Ngục Phân Sôi (十八沸屎地獄, Thập Bát Phí Thỉ Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vạc Nước Sôi (十八鑊湯地獄, Thập Bát Hoạch Thang Địa Ngục), 18 Địa Ngục Sông Tro (十八灰河地獄, Thập Bát Hôi Hà Địa Ngục), 18 Địa Ngục Đá Nhọn (十八尖石地獄, Thập Bát Tiêm Thạch Địa Ngục), 18 Địa Ngục Hang Thép (十八鐵窟地獄, Thập Bát Thiết Quật Địa Ngục), 18 Địa Ngục Uống Nước Đồng (十八飲銅地獄, Thập Bát ẩm Đồng Địa Ngục), v.v. Trong Lương Thư (梁書) có kể câu chuyện Lưu Tát Hà (劉薩河) người Hồ do bị bệnh nặng mà chết, nhưng 10 ngày sau thì sống lại và ông tự cho rằng đã đi qua 18 tầng địa ngục. Như vậy, đến thời nhà Lương, tín ngưỡng về 18 tầng địa ngục đã rất thịnh hành và lưu truyền trong dân gian Trung Quốc. Ngoài ra, tên gọi của 18 tầng địa ngục này có khác nhau tùy theo các thư tịch kinh điển. Theo Gián Địa Ngục Kinh (間地獄經), 18 tầng địa ngục là Nê Lê Địa Ngục (泥犁地獄), Đao Sơn Địa Ngục (刀山地獄, Địa Ngục Núi Đao), Phí Sa Địa Ngục (沸沙地獄, Địa Ngục Cát Sôi), Phí Thỉ Địa Ngục (沸屎地獄, Địa Ngục Phân Sôi), Hắc Thân Địa Ngục (黑身地獄, Địa Ngục Thân Đen), Hỏa Xa Địa Ngục (火車地獄, Địa Ngục Xe Lửa), Hoạch Thang Địa Ngục (鑊湯地獄, Địa Ngục Vạc Nước Sôi), Thiết Sàng Địa Ngục (鐵床地獄, Địa Ngục Giưòng Sắt), Cái Sơn Địa Ngục (蓋山地獄, Địa Ngục Vung Núi), Hàn Băng Địa Ngục (寒冰地獄, Địa Ngục Băng Lạnh), Bác Bì Địa Ngục (剝河地獄, Địa Ngục Lột Da), Súc Sanh Địa Ngục (畜生地獄, Địa Ngục Súc Sanh), Đao Binh Địa Ngục (刀兵地獄, Địa Ngục Đao Binh), Thiết Ma Địa Ngục (鐵磨地獄, Địa Ngục Mài Sắt), Băng Địa Ngục (冰地獄, Địa Ngục Băng), Thiết Sách Địa Ngục (鐵册地獄, Địa Ngục Sách Sắt), Thư Trùng Địa Ngục (蛆蟲地獄, Địa Ngục Con Giòi), Dương Đồng Địa Ngục (烊銅地獄, Địa Ngục Nấu Đồng). Trong Thủy Lục Toàn Đồ (水陸全圖) có Bạt Thiệt Địa Ngục (拔舌地獄, Địa Ngục Kéo Lưỡi), Tiễn Đao Địa Ngục (剪刀地獄, Địa Ngục Dao Cắt), Thiết Thọ Địa Ngục (鐵樹地獄, Địa Ngục Cây Sắt), Nghiệt Kính Địa Ngục (孽鏡地獄, Địa Ngục Kính Yêu), Chưng Lung Địa Ngục (蒸籠地獄, Địa Ngục Lồng Hơi Nóng), Đồng Trụ Địa Ngục (銅柱地獄, Địa Ngục Trụ Đồng), Đao Sơn Địa Ngục (刀山地獄, Địa Ngục Núi Đao), Băng Sơn Địa Ngục (冰山地獄, Địa Ngục Núi Băng), Du Oa Địa Ngục (油鍋地獄, Địa Ngục Nồi Dầu), Ngưu Kháng Địa Ngục (牛坑地獄, Địa Ngục Hầm Trâu), Thạch Áp Địa Ngục (壓石地獄, Địa Ngục Đá Đè), Thung Cữu Địa Ngục (舂臼地獄, Địa Ngục Cối Xay), Huyết Trì Địa Ngục (血池地獄, Địa Ngục Hồ Máu), Uổng Tử Địa Ngục (枉死地獄, Địa Ngục Chết Uổng), Trách Hình Địa Ngục (磔刑地獄, Địa Ngục Phanh Thây), Hỏa Sơn Địa Ngục (火山地獄, Địa Ngục Núi Lửa), Thạch Ma Địa Ngục (石磨地獄, Địa Ngục Mài Đá), và Đao Cứ Địa Ngục (刀鋸地獄, Địa Ngục Cưa Dao). Tại thành của Phong Đô Quỷ (酆都鬼), hai bên đại điện của Thiên Tử có chia thành Đông Địa Ngục và Tây Địa Ngục. Đông Địa Ngục gồm Ma Thôi Địa Ngục (磨推地獄, Địa Ngục Mài Kéo), Oạt Tâm Địa Ngục (挖心地獄, Địa Ngục Móc Tim), Hỏa Lạc Địa Ngục (火烙地獄, Địa Ngục Áp Lửa), Hàn Thủy Địa Ngục (寒水地獄, Địa Ngục Nước Lạnh), Đao Sơn Địa Ngục (刀山地獄, Địa Ngục Núi Đao), Xa Liệt Địa Ngục (車裂地獄, Địa Ngục Xe Nghiền), Thư Trùng Địa Ngục (蛆蟲地獄, Địa Ngục Con Giòi), Bác Bì Địa Ngục (剝皮地獄, Địa Ngục Lột Da). Tây Địa Ngục có Đối Thung Địa Ngục (碓舂地獄, Địa Ngục Cối Xay), Cứ Giải Địa Ngục (鋸解地獄, Địa Ngục Cưa Xẻ), Du Oa Địa Ngục (油鍋地獄, Địa Ngục Nồi Dầu), Bạt Thiệt Địa Ngục (拔舌地獄, Địa Ngục Kéo Lưỡi), Bổ Kinh Địa Ngục (補經地獄, Địa Ngục Vá Dây), Chuyển Luân Địa Ngục (轉輪地獄, Địa Ngục Chuyển Luân), Súc Sanh Địa Ngục (畜生地獄, Địa Ngục Súc Sanh) và Hoạch Thang Địa Ngục (鑊湯地獄, Địa Ngục Vạc Nước Sôi).
(天堂): hay Thiên Quốc (天國), chỉ cho trú xứ hay quốc độ trên trời, là cung điện của thiên chúng, đối lập với Địa Ngục. Theo đa số các tôn giáo cũng như triết học tâm linh đều công nhận đây là nơi tồn tại hình thức sinh mạng con người sau khi chết. Theo tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, Thiên Đường, Thiên Quốc, Thiên Giới (天界), Thần Giới (神界), v.v., đều cùng ngữ nghĩa với nhau, chỉ cho cảnh giới thần tiên do Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝) thống quản. Nhân gian tin rằng con người sau khi chết sẽ lên Trời, tổ tiên của mỗi cá nhân đều ở trên đó nhìn mình, và linh hồn tổ tiên luôn hộ trì, che chở cho con cháu mình dưới trần thế. Do đó, người Trung Quốc có truyền thống kính Trời và thờ cúng tổ tiên. Thần và người đều giữ đạo riêng của mình. Thần tiên có khả năng hạ phàm xuống cõi người. Theo Đạo Giáo, người nào đắc đạo, đều có thể thành thần tiên. Thái Bình Kinh (太平經), kinh thư trọng yếu của tôn giáo này, giải thích rằng: “Thượng thiện chi nhân, tử hậu Âm Tào Phán Quan trước thiện tịch chi văn, danh chi vi thiện nhân chi tịch, hành ngưỡng thiện, dữ thiên địa Tứ Thời Ngũ Hành hợp tín, chư thần tương ái … cọng tấn ư thiên thần (上善之人、死後陰曹判官著善籍之文、名之爲善人之籍、行仰善、與天地四時五行合信、諸神相愛…共進於天神, người mà lương thiện, sau khi chết Âm Tào Phán Quan viết văn sổ lương thiện, đó gọi là sổ người lương thiện; làm và kính trọng việc thiện, cùng hợp niềm tin với Bốn Thời, Ngũ Hành của trời đất, các thần đều thương … cùng phong làm thiên thần).” Thanh Thành (青城), nơi phát xuất Đạo Giáo Trung Quốc, được xem như là đô thành Thiên Quốc trên cõi thế. Cho nên tác phẩm Quảng Hoàng Đế Bản Hạnh Ký (廣黃帝本行記) có ghi rằng: “Thanh Thành, Thiên Quốc chi đô (青城、天國之都, Thanh Thành là kinh đô của Thiên Quốc).” Theo tín ngưỡng dân gian, Ngọc Hoàng Đại Đế là vua của các Thần; nhưng trong Đạo Giáo thì chức năng của Ngài là thừa mạng của Tam Thanh (三清), tức Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊), Đạo Đức Thiên Tôn (道德天尊, Thái Thượng Lão Quân [太上老君]) và Linh Bảo Thiên Tôn (靈寶天尊, Thượng Thanh Đại Đế [上清大帝]). Căn cứ vào tác phẩm Vân Cấp Thất Tiêm (雲笈七籤), phần Thiên Địa Bộ (天地部) cho biết rằng Trời có 36 tầng. Trong bài kệ thỉnh chuông chiều có câu: “Hồng chung sơ khấu, bảo kệ cao ngâm, thượng triệt Thiên Đường, hạ thông Địa Phủ (洪鐘初扣、寶偈高吟、上徹天堂、下通地府, chuông chùa mới đánh, kệ báu ngâm vang, trên thấu Thiên Đường, dưới thông Địa Phủ).” Cho nên, Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương Nhũ Ký (毗尼日用切要香乳記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1116) quyển Thượng có giải thích rằng: “Kim minh chung thời, trượng Tam Bảo uy lực, nhi linh thử thanh, thượng triệt Thiên Đường, hạ thông Địa Phủ, giai đắc văn dã (今鳴鐘時、仗三寶威力、而令此聲、上徹天堂、下通地府、皆得聞也, nay khi đánh chuông, nương nhờ oai lực Tam Bảo, mà có âm thanh này, trên thấu Thiên Đường, dưới thông Địa Phủ, thảy đều được nghe).” Trong Đạt Ma Đại Sư Huyết Mạch Luận (達磨大師血脈論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1218) có cho biết rằng: “Thiện ác lịch nhiên, nhân quả phân minh, Thiên Đường Địa Ngục chỉ tại nhãn tiền (善惡歷然、因果分明、天堂地獄只在眼前, thiện ác sáng tỏ, nhân quả rõ ràng, Thiên Đường Địa Ngục chỉ tại trước mắt).”
(宣敎使, Senkyōshi): tên một chức quan dưới thời đại Minh Trị. Với mục đích truyền bá, bố giáo giáo pháp tối thượng, vào ngày mồng 8 tháng 7 năm 1869 (Minh Trị [明治] 2), một số chức viên được quy định như Trưởng Quan (長官), Thứ Quan (次官), Giảng Nghĩa Sinh (講義生), Sử Sinh (史生), Phán Quan (判官), Chủ Điển (主典), Tuyên Giáo Sứ (宣敎使), v.v. Đến ngày mồng 9 tháng 10 cùng năm ấy, các chức Chánh Đại Tuyên Giáo (正大宣敎), Chánh Trung Tuyên Giáo (正中宣敎), Chánh Thiếu Tuyên Giáo (正少宣敎), Quyền Đại Tuyên Giáo (權大宣敎), Quyền Trung Tuyên Giáo (權中宣敎), Quyền Thiếu Tuyên Giáo (權少宣敎) được đổi thành Chánh Đại Bác Sĩ (正大博士), Chánh Trung Bác Sĩ (正中博士), Chánh Thiếu Bác Sĩ (正少博士), Quyền Đại Bác Sĩ (權大博士), Quyền Trung Bác Sĩ (權中博士), Quyền Thiếu Bác Sĩ (權少博士). Cuối cùng vào ngày 14 tháng 3 năm 1872 (Minh Trị 5), cơ quan này bị phế bỏ hoàn toàn.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập