Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Như Mẫn »»
(s: poṣadha, upavasatha, upoṣadha, upavāsa, p: uposatha, posatha, 布薩): âm dịch là Ưu Ba Bà Tố Đà (優波婆素陀), Ưu Bà Ta (優婆娑), Bố Tát Đà Bà (布薩陀婆), Bố Sái Tha (布灑他), Bố Sa Tha (布沙他), Ổ Ba Bà Sa (鄔波婆沙), Bô Sa Đà (逋沙陀), Bao Sái Đà (褒灑陀), Ổ Bô Sa Tha (鄔逋沙他); ý dịch là Trưởng Tịnh (長淨), Trưởng Dưỡng (長養), Tăng Trưởng (增長), Thiện Túc (善宿), Tịnh Trú (淨住), Trường Trú (長住), Cận Trú (近住), Cọng Trú (共住), Đoạn (斷), Xả (捨), Trai (齋), Đoạn Tăng Trưởng (斷增長), hay Thuyết Giới (說戒). Nghĩa là vào mỗi nữa tháng, chư vị Tỳ Kheo cùng sống chung tập trung tại một trú xứ nhất định, hoặc tại Bố Tát Đường (s: uposathāgāra, 布薩堂, còn gọi là Nhà Thuyết Giới), cung thỉnh vị Tỳ Kheo hành trì giới luật tinh chuyên thuyết giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa (s: prātimokṣa, p: pātimokkha, 波羅提木叉), để phản tỉnh, xem xét lại trong nữa tháng vừa qua bản thân có tuân thủ đúng với giới bổn hay không. Nếu có người phạm giới, thì sẽ sám hối ngay trước đại chúng, giúp cho chúng tăng có thể an trụ lâu trong tịnh giới, làm tăng trưởng thiện pháp và công đức. Nếu như hàng Phật tử tại gia, vào trong 6 ngày trai mà thọ trì Bát Quan Trai Giới (s: aṣṭāṅga-samanvāgatopavāsa, p: aṭṭhaṅga-samannāgata uposatha, aṭṭhaṅgika uposatha, 八關齋戒), cũng được gọi là Bố Tát, nghĩa là có thể làm cho tăng trưởng thiện pháp. Hình thức Bố Tát vốn phát xuất từ nguồn gốc tế lễ từ thời Phệ Đà (s: Veda, 吠陀) của Ấn Độ; tức là ngày trước lễ Tế Đầu Tháng (s: darśā-māsa, 新月祭) và Tế Giữa Tháng (s: paurṇa-māsa, 滿月祭), người ta cử hành một lễ cúng tế dự bị, được gọi là Bố Tát. Chủ yếu vào ngày cúng tế này, mọi người không ăn, an trú trong giới pháp thanh tịnh, khiến cho cả thân lẫn tâm đều được trong sạch. Về sau, truyền thống này được truyền thừa đến thời đức Phật, nhóm ngoại đạo Ni Kiền Tử (s: Nirgrantha-putra, Nirgrantha-jñātaputra, p: Nigaṇtha-putta, 尼乾子) cũng thường tập trung tại một trú xứ nào đó, tác pháp hành trì 4 giới như không ăn, v.v. Đức Thế Tôn cũng cho phép Tăng chúng tiến hành pháp sự này; cho nên hình thức Bố Tát của Phật Giáo vốn căn cứ vào tập quán nói trên. Theo như sự chế định của Phật, vào dịp này chúng tăng nên tụng toàn bộ giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa; và nếu gặp các duyên nạn thì có thể tụng một phần của giới bổn cũng được. Tứ Phần Luật (四分律) quyển 58 phân Bố Tát thành 4 loại là: (1) Tam Ngữ Bố Tát (三語布薩); (2) Thanh Tịnh Bố Tát (清淨布薩), (3) Thuyết Ba La Đề Mộc Xoa Bố Tát (說波羅提木叉布薩) và (4) Tự Tứ Bố Tát (自恣布薩). Trong khi đó, Ngũ Phần Luật (五分律) quyển 18 lại phân làm 5 loại khác là: (1) Tâm Niệm Khẩu Ngôn Bố Tát (心念口言布薩), (2) Hướng Tha Thuyết Tịnh Bố Tát (向他說淨布薩), (3) Quảng Lược Thuyết Giới Bố Tát (廣略說戒布薩), (4) Tự Tứ Bố Tát (自恣布薩) và (5) Hòa Hợp Bố Tát (和合布薩). Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙) quyển 16 thì liệt kê 9 loại là: (1) Thập Tứ Nhật Bố Tát (十四日布薩), (2) Thập Ngũ Nhật Bố Tát (十五日布薩), (3) Hòa Hợp Bố Tát (和合布薩), (4) Tăng Bố Tát (僧布薩), (5) Chúng Bố Tát (眾布薩), (6) Nhất Nhân Bố Tát (一人布薩), (7) Thuyết Ba La Đề Mộc Xoa Bố Tát (說波羅提木叉布薩), (8) Tịnh Bố Tát (淨布薩) và (9) Sắc Bố Tát (敕布薩). Ngay như ngày Bố Tát, các kinh điển cũng nêu lên khác nhau. Như Đại Thiên Nại Lâm Kinh (大天捺林經) của Trung A Hàm (中阿含經) quyển 14, Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經) quyển 16, v.v., cho rằng mỗi tháng vào 6 ngày trai giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 thì tiến hành Bố Tát. Tứ Phần Luật quyển 58 thì cho rằng mồng 1, 14, 15 là những ngày Bố Tát. Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 13 thì giải thích ngày mồng 1, mồng 8, 14, 16, 23, 29. Nhìn chung, mỗi tháng 3 lần Bố Tát, dần dần sinh ra quy định mỗi nữa tháng một lần. Hơn nữa, từ xưa phong trào Bố Tát và ăn chay vốn đã rất thịnh hành tại Trung Quốc, Nhật Bản cũng như Việt Nam. Trong Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi (大比丘三千威儀, Taishō No. 1470) quyển Thượng có đoạn rằng: “Bố Tát giả, Tần ngôn tịnh trú, nghĩa ngôn trưởng dưỡng Tỳ Kheo hòa hợp; nhược tác bách nhất Yết Ma, nhi bất tri hòa hợp, thị danh bất tri Bố Tát (布薩者、秦言淨住、義言長養比丘和合、若作百一羯磨、而不知和合、是名不知布薩, Bố Tát, Tàu dịch là tịnh trú [an trú trong thanh tịnh], nghĩa là nuôi lớn sự hòa hợp của chúng Tỳ Kheo; nếu thực hành trăm lẽ một pháp Yết Ma mà không biết hòa hợp, có nghĩa là không biết Bố Tát).” Hay như trong Thọ Thập Thiện Giới Kinh (受十善戒經, Taishō No. 1486 ) giải thích rằng: “Kim ư tam thế chư Phật, A La Hán tiền, Hòa Thượng tăng tiền, chí thành phát lộ, Ngũ Thể đầu địa, sám hối chư tội, thị danh hành Bố Tát pháp (今於三世諸佛、阿羅漢前、和上僧前,至誠發露,五體投地,懺悔諸罪,是名行布薩法, nay đối trước ba đời chư Phật, trước A La Hán, trước Hòa Thượng tăng, chí thành bộc bạch, năm vóc gieo đất, sám hối các tội, ấy gọi là hành pháp Bố Tát).” Trong Nhập Bố Tát Đường Thuyết Kệ Văn Đẳng (入布薩堂說偈文等, Taishō No. 2852) có bài Thanh Tịnh Diệu Kệ Văn (清淨妙偈文) rằng: “Thanh tịnh như mãn nguyệt, thanh tịnh ưng Bố Tát, thân khẩu nghiệp thanh tịnh, nhĩ nãi đồng Bố Tát (清淨如滿月、清淨應布薩、身口業清淨、爾乃同布薩, trong sạch như trăng rằm, trong sạch nên Bố Tát, nghiệp thân miệng trong sạch, ngươi hãy cùng Bố Tát).”
(維那, Ino): còn gọi là Kỷ Cương (紀綱). Trong tòng lâm, vị này đốc thúc, giám thị sự tu hành của chúng tăng và xem xét toàn bộ công việc trong tự viện. Khi đại chúng tụng kinh, vị này có trách nhiệm hướng dẫn và thủ xướng cho mọi người, cho nên được gọi là Duyệt Chúng (悅眾). Duy (維) nghĩa là bao trùm như mạng lưới, cho nên nó có nghĩa là quản lý tăng chúng; Na (那) là từ được lấy từ âm đọc Yết Ma Đà Na (s: karmadāna, 羯磨陀那); cho nên từ Duy Na bao hàm chung nghĩa của tiếng Hán và Phạn. Nguồn gốc của nó vốn là tên gọi chức vị được đặt ra trong nội bộ tăng đoàn ở Ấn Độ. Trong phần Bát Pháp Trung Ngọa Cụ Pháp (八法中臥具法) 7 của Thập Tụng Luật (十頌律) 23 có đoạn rằng: “Phật tại Xá Vệ Quốc, nhĩ thời Kỳ Đà lâm trung tăng phường trung, vô Tỳ Kheo tri thời hạn xướng thời, vô nhân đả kiền trĩ, vô nhân tảo sái đồ trị giảng đường thực xứ, vô nhân thứ đệ tương tục phu sàng tháp, vô nhân giáo tịnh quả thái, vô nhân khán khổ tửu trung trùng, ẩm thực thời vô nhân hành thủy, chúng tán loạn ngữ thời, vô nhân đàn chỉ, thị sự bạch Phật, Phật ngôn, ưng lập Duy Na (佛在舍衛國、爾時祇陀林中僧坊中、無比丘知時限唱時、無人打揵稚、無人掃灑塗治講堂食處、無人次第相續敷床榻、無人敎淨果菜、無人看苦酒中蟲、飲食時無人行水、眾散亂語時、無人彈指、是事白佛、佛言、應立維那, Khi đức Phật tại nước Xá Vệ, lúc bấy giờ trong chúng tăng tại rừng Kỳ Đà không có vị Tỳ Kheo báo cho biết thời khắc, không có người đánh kiền chùy, không người quét dọn, lau chùi giảng đuờng và nơi ăn uống, không người lần lượt thay nhau sắp dọn giường nằm, không người chỉ bảo rửa sạch rau quả, không người nhìn thấy con trùng trong rượu đắng, khi ăn uống không có người đem nước đến, khi chúng tăng nói chuyện tán loạn lại không có người khảy móng tay giữ im lặng; cho nên việc này được trình lên đức Phật. Phật dạy rằng nên lập ra chức Duy Na).” Vì vậy, đức Phật đã chế ra chức vụ này để chỉnh lý và quản chưởng những công việc lặt vặt của chúng tăng. Tại Trung Quốc, chức này được thiết lập như chức Tăng Quan và trong chế độ Tăng Quan trung ương dưới thời Diêu Tần (姚秦), có chức Duyệt Chúng. Tăng Thiên (僧遷) là người đầu tiên được bổ nhiệm chức vụ này. Vào thời Bắc Ngụy, tên trung ương có đặt Chiêu Huyền Tào (昭玄曹) làm chức Sa Môn Thống (沙門統) với tư cách là Trưởng Quan để thống lãnh Phật Giáo toàn quốc. Còn vị Phó Quan quản lý sự việc của các ban liên quan đến Phật Giáo chính là [Đô] Duy Na ([都]維那) của trung ương và Duy Na ở các địa phương. Trong Thiền Tông, đây là chức vụ vô cùng quan trọng chịu trách nhiệm quản chưởng hết thảy hành động, oai nghi tế hạnh, lui tới của chúng tăng. Nó được liệt vào một trong Lục Tri Sự (六知事, sáu vị Tri Sự). Đối với các tông phái khác, chức Duy Na có bổn phận dẫn dắt đại chúng khi hành lễ pháp sự, xướng hô hồi hướng, v.v. Phòng ở của vị Duy Na được gọi là Duy Na Liêu (維那寮) hay Kỷ Cương Liêu (紀綱寮).
có tên gọi khác như Mạnh Thu (孟秋), Thủ Thu (首秋), Thượng Thu (上秋), Qua Thu (瓜秋), Tảo Thu (早秋), Tân Thu (新秋), Triệu Thu (肇秋), Lan Thu (蘭秋), Lan Nguyệt (蘭月), Thân Nguyệt (申月), Xảo Nguyệt (巧月), Qua Nguyệt (瓜月), Lương Nguyệt (涼月), Tương Nguyệt (相月), Văn Nguyệt (文月), Thất Tịch Nguyệt (七夕月), Nữ Lang Hoa Nguyệt (女郎花月), Văn Phi Nguyệt (文披月), Đại Khánh Nguyệt (大慶月), Tam Âm Nguyệt (三陰月), Di Tắc (夷則), Sơ Thương (初商), Mạnh Thương (孟商), Qua Thời (瓜時), Tố Thu (素秋), Sơ Thu (初秋), Sương Nguyệt (霜月), Trung Nguyệt (中月), Triệu Nguyệt (肇月). Một số câu hay cho tháng Bảy như vân thu Hạ sắc (雲收夏色, mây thâu sắc màu mùa Hè), nguyệt động Thu thanh (月動秋聲, trăng làm động tiếng Thu), kim phong đãng thử (金風蕩暑, gió Thu quét phăng đi hơi nóng), ngọc luật minh Thu (玉律鳴秋, nhạc ngọc vang vọng mùa Thu), kiểu nguyệt như sương (皎月如霜, trăng sáng như sương), Thu khai ngọc vũ (秋開玉宇, Thu mở nhà ngọc), luật ứng thanh cao (律應清高, nhạc vận thanh cao), thủy thiên nhất sắc (水天一色, nước và trời cùng một sắc màu), phong nguyệt song thanh (風月雙清, gió và trăng đều trong suốt), tam canh thử thối (三更暑退, ba canh oi bức thối lui), nhất chẩm lương sanh (一枕涼生, bên gối hưởng gió mát). Một số từ dùng cho Thất Tịch (七夕) như nhân gian khất xảo (人間乞巧, mọi người xin trí tuệ khôn ngoan), thiên thượng giai kỳ (天上佳期, thời kỳ tốt trên trời). Một số từ dùng cho tháng Bảy nhuận như song tinh nhất hội (雙星一會, hai sao cùng gặp nhau), nhất nhuận quy dư (一閏歸餘, một lần nhuận vẫn còn dư). Một số từ dùng cho truy điệu vào tháng này như thiền thanh đề mộ (蟬聲啼暮, tiếng ve khóc chiều), cùng vận bi Thu (蛩韻悲秋, tiếng dế buồn mùa Thu).
(禪子): tên gọi khác của người tin Phật, tăng lữ, hay chỉ cho người hành Thiền. Như trong bài thơ Văn Chung (聞鐘) của tăng Kiểu Nhiên (皎然, ?-?) nhà Đường có câu: “Vĩnh dạ nhất Thiền tử, linh nhiên tâm cảnh trung (永夜一禪子、泠然心境中, suốt đêm một Thiền khách, an nhiên tâm cảnh trong).” Hay trong Ngốc Am Phổ Trang Thiền Sư Ngữ Lục (呆菴普莊禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1418) quyển 1, phần Vân Cư Ngữ Lục (雲居語錄), có đoạn: “Thiền tử lâm xuyên hóa đạo quy, nhập môn nhất tiếu triển song mi, phá vi trần xuất đại kinh quyển, đả cổ chùy chung báo chúng tri (禪子臨川化導歸、入門一笑展雙眉、破微塵出大經卷、打鼓椎鐘報眾知, Thiền giả đến sông hóa đạo về, mỉm cười vào cửa dương hàng mi, phá bụi trần tung bao kinh quyển, đánh trống rung chuông báo chúng hay).” Hoặc trong Liễu Am Thanh Dục Thiền Sư Ngữ Lục (了菴清欲禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1414) quyển 7, bài Thứ Vận Tống Mãn Trấn Thành Khang Tứ Thượng Nhân (次韻送滿鎭成康四上人), lại có đoạn: “Thiền tử tâm như mãn nguyệt minh, định càn khôn cú hợp tướng trình, tam thiên lí ngoại thân huề thủ, cửu khúc Hoàng Hà triệt để thanh (禪子心如滿月明、定乾坤句合相呈、三千里外親攜手、九曲黃河徹底清, Thiền tăng tâm như trăng sáng tinh, định càn khôn câu hợp tướng trình, ba ngàn dặm ngoài cùng tay nắm, chín khúc Hoàng Hà tận đáy trong).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập