Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Xuất »»
(白玉): loại ngọc quý màu trắng mỡ, rất hiếm có màu xanh nhạt, hay vàng sữa. Loại có chất lượng cao nhất xuất phát từ vùng Hòa Điền (和田), Tân Cương (新疆), Nội Mông. Dưới thời nhà Minh, Thanh của Trung Quốc, khi nói đến từ Bạch Ngọc, tức ám chỉ loại ngọc trắng của vùng Hòa Điền, Tân Cương. Hiện tại, ngoài loại ngọc màu trắng chúng ta thường thấy, còn có Tân Sơn Ngọc (新山玉), Mật Ngọc (密玉), Độc Sơn Ngọc (獨山玉), Thanh Hải Bạch Ngọc (青海白玉), cũng như Bạch Ngọc của Hàn Quốc, v.v. Đây là loại ngọc rất quý hiếm, có độ bền cao; nên thường được dùng để làm đồ trang sức, điêu khắc thành tượng Phật, xâu chuỗi, khám thờ, v.v. Câu “Bạch ngọc giai tiền, hàm thọ Đề Hồ chi vị (白玉階前、咸受醍醐之味)” ở trên có nghĩa là trước thềm ngọc trắng thọ nhận trọn vẹn vị Đề Hồ (diệu pháp). Trong bài cúng linh được chư tăng ở Huế thường dùng cũng có có câu với ý nghĩa tương tự như vậy: “Bạch Ngọc giai tiền văn diệu pháp, Huỳnh Kim điện thượng lễ Như Lai (白玉階前聞妙法、黃金殿上禮如來, Ngọc Trắng trước thềm nghe diệu pháp, vàng ròng trên điện lễ Như Lai).” Hơn nữa, trong hồi thứ 29 của Tây Du Ký (西遊記) cũng có đoạn: “Các đới tùy thân binh khí, tùy kim bài nhập triều, tảo đáo Bạch Ngọc giai tiền, tả hữu lập hạ (各帶隨身兵器、隨金牌入朝、早行到白玉階前、左右立下, mỗi người đều mang theo binh khí tùy thân, đem tấm kim bài vào triều, đi nhanh đến trước thềm Ngọc Trắng, đứng yên hai bên phải trái).”
(本覺寺, Hongaku-ji): ngôi chùa của Nhật Liên Tông, hiệu là Thường Tại Sơn (常在山), hiện tọa lạc tại Mishima-shi (三島市), Shizuoka-ken (靜岡縣). Tương truyền rằng ngôi chùa này do Nhất Thừa Phòng Nhật Xuất (一乘房日出) khai sáng vào năm 1424 (Ứng Vĩnh [應永] 31). Ông vốn là vị Tăng của Thiên Thai Tông, sau được Nhật Học (日學) ở Cửu Viễn Tự (久遠寺) tại Thân Diên Sơn (身延山) giáo hóa, nên ông cải hóa theo Nhật Liên Tông, rồi đến bố giáo ở các vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai), Y Đậu (伊豆, Izu).
(金山): núi vàng, từ này được dùng để ví dụ cho thân Phật; như trong Phẩm Tựa của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) có câu: “Thân sắc như kim sơn, đoan nghiêm thậm vi diệu (身色如金山、端嚴甚微妙, thân màu như núi vàng, đoan nghiêm thật vi diệu).” Hay trong Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 27, phẩm Hướng Bồ Đề Thọ (向菩提樹品), còn có câu: “Thử tất thiên quang tân Nhật Xuất, uy đức chiếu diệu như kim sơn, lân mẫn nhất thiết chư thiên nhân, tạm đáo thọ vương như sư tử (此必千光新日出、威德照耀如金山、憐愍一切諸天人、漸到樹王如師子, đây ắt hào quang trời mới mọc, oai đức chiếu tỏa như núi vàng, thương xót hết thảy các trời người, tạm đến dưới cây như sư tử).” Hoặc trong Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh (大方等陀羅尼經, Taishō Vol. 21, No. 1339) quyển 1, lại có đoạn: “Thế Tôn thân sắc như kim sơn, do như nhật quang chiếu thế gian, năng bạt nhất thiết chư khổ não, ngã kim khể thủ đại pháp vương (世尊身色如金山、猶如日光照世間、能拔一切諸苦惱、我今稽首大法王, Thế Tôn thân màu như núi vàng, giống như mặt trời chiếu thế gian, có thể bạt trừ các khổ não, con nay cúi lạy đấng pháp vương).” Kim sơn còn chỉ cho núi vàng bảy tầng ở chung quanh Tu Di Sơn (s, p: Sumeru, 須彌山).
(樂邦): hay Lạc Quốc (樂國), Cực Lạc Quốc (極樂國), chỉ cho thế giới an lạc của đức Phật A Di Đà (s: Amitābha, 阿彌陀). Như trong Lạc Bang Di Cảo (樂邦遺稿, Taishō No. 1969B) do Sa Môn Tông Hiểu (宗曉, 1151-1214) nhà Nam Tống biên soạn, có đề cập rằng: “Lương do Di Đà ngộ ngã tâm chi bảo sát, ngã tâm cụ Di Đà chi Lạc Bang, tuy viễn nhi cận bất ly nhất niệm, tuy cận nhi viễn quá thập vạn ức sát (良由彌陀悟我心之寶剎、我心具彌陀之樂邦、雖遠而近不離一念、雖近而遠過十萬億剎, đều do Di Đà làm cho ngộ cõi báu trong tâm ta, tâm ta có đủ cõi Lạc Bang của Di Đà, tuy xa mà gần, chẳng rời một niệm, tuy gần mà xa, quá mười vạn ức cõi nước).” Hay như trong Khuyến Tu Tịnh Độ Thi (勸修淨土詩) của Thật Hiền Tỉnh Am (實賢省庵, 1686-1734) nhà Thanh, tổ sư thứ 11 của Tịnh Độ Tông Trung Quốc, có câu: “Khổ hải vô biên hà Nhật Xuất, Lạc Bang hữu lộ kỉ thời hoàn (苦海無邊何日出、樂邦有路幾時還, biển khổ vô biên ngày nao thoát, Lạc Bang có lối lúc nào về).”
(南洲): tức Diêm Phù Đề (s: Jampudīpa, 閻浮提, hay Nam Thiệm Bộ Châu [南贍部洲]), chỉ nơi chúng ta đang cư trú; là châu lớn nằm ở trong biển mặn thuộc phía Nam Tu Di Sơn (s, p: Sumeru, 須彌山). Như trong Pháp Hoa Kinh Huyền Tán Yếu Tập (法華經玄贊要集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 34, No. 638) quyển 26 có đoạn: “Thử Nam Châu hữu tình hữu tam bất định, nhất vô lượng tuế, nhị vạn tuế, tam thập tuế (此南洲有情有三不定、一無量歲、二萬歲、三十歲, chúng hữu tình của Nam Thiệm Bộ Châu này có ba điều bất định; một là tuổi vô lượng, hai là 10.000 tuổi, ba là 10 tuổi).” Hay trong Tỳ Ni Quan Yếu (毗尼關要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 720) quyển 11 lại có đoạn: “Nhược Đông Châu Nhật Xuất, Bắc Châu nhật trung, Nam Châu bán dạ, Tây Châu nhật một (若東洲日出、北洲日中、南洲半夜、西洲日沒, nếu Đông Châu mặt trời ló dạng, thì Bắc Châu giữa ngày, Nam Châu nữa đêm, Tây Châu mặt trời lặn).”
(日朝, Nicchō, 1422-1500): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Nhật Triêu (日朝); thông xưng là Gia Hạ A Xà Lê (加賀阿闍梨); tự là Kính Trừng (鏡澄), hiệu Bảo Tụ Viện (寶聚院), Hành Học Viện (行學院); xuất thân vùng Shizuoka-ken (靜岡縣). Năm lên 8 tuổi, ông theo xuất gia với Nhật Xuất (日出) khi vị này đang trên đường giáo hóa ở địa phương Y Đậu (伊豆, Izu). Sau ông đến tu học ở Vô Lượng Thọ Tự (無量壽寺, tức Hỷ Đa Viện [喜多院]) của Thiên Thai Tông. Đến năm 1462, ông kế thừa làm trú trì đời thứ 11 của Cửu Viễn Tự (久遠寺), rồi dời chùa về vị trí hiện tại và chỉnh đốn chùa hoàn bị. Hơn nữa, ông còn thâu tập những di văn của Nhật Liên, rồi chú giải, mở ra những hội thuyết giảng hỏi đáp, và tận lực chấn hưng giáo học Tông môn. Trước tác của ông có rất nhiều như Ngự Thư Kiến Văn (御書見聞) 44 quyển, Nguyên Tổ Hóa Đạo Ký (元祖化道記) 2 quyển, Bổ Thí Tập (補施集) 112 quyển, Hoằng Kinh Dụng Tâm Ký (弘經用心記) 5 quyển, v.v.
(日澄, Nicchō, 1441-1510): học Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Nhật Trừng (日澄); thông xưng là Nhất Như Phòng (一如房), tự Khải Vận (啟運); hiệu là Viên Minh Viện (圓明院). Ông xuất gia theo Nhật Viên (日圓) ở Bổn Quốc Tự (本國寺) thuộc kinh đô Kyoto; rồi đến năm 39 tuổi thì sáng lập ra Viên Minh Tự (圓明寺) ở vùng Y Đậu (伊豆, Izu). Sau ông đến ẩn cư ở Diệu Pháp Tự (妙法寺) vùng Liêm Thương, thiết lập lớp học trong chùa này, và chuyên tâm trước tác cũng như giảng nghĩa Kinh Pháp Hoa. Ông đã từng viết bộ Pháp Hoa Khải Vận Sao (法華啟運抄), chủ xướng Tín Tâm Làm Gốc, và chủ trương tông học theo kiểu của giáo tổ. Hơn nữa, bộ Nhật Liên Thánh Nhân Chú Họa Tán (日蓮上人註畫讚) của ông đã gây ảnh hưởng rất lớn cho hậu thế. Trước tác của ông có Pháp Hoa Khải Vận Sao (法華啟運抄) 55 quyển, Bổn Tích Quyết Nghi Sao (本迹決疑抄) 2 quyển, Nhật Xuất Đài Ẩn Ký (日出台隱記) 2 quyển, Trợ Hiển Xướng Đạo Văn Tập (助顯唱道文集) 7 quyển, Nhật Liên Thánh Nhân Chú Họa Tán (日蓮上人註畫讚) 5 quyển.
(帆足萬里, Hoashi Banri, 1778-1852): Nho gia, và là nhà Lý học sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; thông xưng là Lí Cát (里吉); tự Bằng Khanh (鵬卿); hiệu là Ngu Đình (愚亭); thân phụ là quan Gia Lão (家老) của Phiên Nhật Xuất (日出藩, Hiji-han) thuộc Phong Hậu (豐後, Bungo). Ông theo học với Hiếp Ngu Sơn (脇愚山), môn nhân của Tam Phố Mai Viên (三浦梅園); rồi sau đó làm Giáo Thọ cho trường học của Phiên này. Vào năm 1832 (Thiên Bảo [天保] 3), ông làm chức quan Gia Lão và dốc sức cải cách nền chính trị của Phiên. Ông đã từng giao du với nhóm Trung Tỉnh Trúc Sơn (中井竹山, Nakai Chikuzan), Quy Tỉnh Nam Minh (龜井南冥, Kamei Nammei), Quảng Lại Đạm Song (廣瀨淡窻, Hirose Tansō); và tư tưởng cơ bản của ông là Nho học. Ông từng lấy tư tưởng Lý Học (Vật Lý) của Tam Phố Mai Viên làm cơ sở, có chí muốn truy cho tận cùng áo nghĩa ấy và nghiên cứu các sách vở khoa học của Hòa Lan. Từ khoảng 50 tuổi, ông bắt đầu học về khoa học tự nhiên của phương Tây, và viết các tác phẩm Cùng Lí Thông (窮理通), Y Học Khải Mông (醫學啟蒙), v.v. Các trước tác khác có Đông Tiềm Phu Luận (東潛夫論), Nhập Học Tân Luận (入學新論), v.v.
(永享の法難, Eikyō-no-hōnan): vụ đàn áp môn đồ Nhật Liên Tông ở vùng Liêm Thương vào năm 1436. Trước khi xảy ra vụ này, Nhật Xuất (日出) mở rộng phạm vi giáo hóa của ông rất mạnh ở Liêm Thương và hàng phục được các tông phái khác. Nhân đó, Tâm Hải (心海), vị Tăng ở Kim Cang Bảo Giới Tự (金剛寶戒寺) thuộc Thiên Thai Tông, mới nổi giận và khiêu khích luận tranh về giáo lý với Nhật Xuất. Cuộc luận tranh được tổ chức vào ngày 13 tháng 5 năm 1436, và được gọi là Cuộc Vấn Đáp Vĩnh Hưởng. Lúc ấy, đệ tử của Nhật Thân (日親) là Nhật Xuất cũng tham gia vào cuộc luận tranh này. Kết quả thì Tâm Hải bị bại trận. Nhật Xuất ghi lại tất cả sự việc này rồi đem trình lên cho người quản lãnh Liêm Thương lúc bấy giờ là Túc Lợi Trì Thị (足利持氏, Ashikaga Mochiuji), để tuyên xướng về Tông nghĩa của mình và can gián đừng gây tổn hại cho Tông môn ông nữa. Đương thời, chính Trì Thị cũng hay có sự bất hòa với Thượng Sam Hiến Thật (上杉憲實), người quản lãnh vùng Quan Đông (關東, Kantō) và rất được chính quyền Mạc Phủ tín nhiệm, đến nỗi Hiến Thật phải cử binh đánh Trì Thị. Phần Tâm Hải thì sau khi bị bại về tay Nhật Xuất, ông đã gởi thư kháng tố lên Trì Thị. Theo Truyền Đăng Sao (傳燈抄) của Nhật Thân, Trì Thị đã tịch thâu khoảng 16 ngôi chùa của Nhật Liên Tông ở vùng Liêm Thương; tu sĩ thì bị đày đi xứ xa, còn tín đồ thì bị chém đầu. Chủ yếu ông dùng thủ đoạn này để làm cho tín đồ sợ hãi, không còn chí hướng hành đạo nữa. Nhưng ngược lại khi nghe như vậy, khoảng 10 người đại diện cho tín đồ đã tập trung đứng dậy đấu tranh. Khi nghe vậy, Trì Thị mới hạ lệnh tha tội cho những người bị bắt.
(s: pravrajyā, p: pabbajjā, j: shukke, 出家): âm dịch là Ba Phệ Nễ Da (波吠儞耶), tức ra khỏi sinh hoạt gia đình thế tục, chuyên tâm tu tập tịnh hạnh của bậc Sa Môn (s: śramaṇa, p: samaṇa, 沙門). Từ này còn chỉ chung cho những người xuất gia, đồng nghĩa với Sa Môn, Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘); đối lập với từ tại gia (在家). Trong Quy Sơn Cảnh Sách Cú Thích Ký (溈山警策句釋記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1240) quyển Hạ giải thích xuất gia có 2 nghĩa: “Xuất gia hữu nhị, nhất xuất thế tục gia, túc ly trần tục, viễn tham tri thức; nhị xuất phiền não gia, đoạn vọng chứng chơn, đốn siêu Tam Hữu (出家有二、一出世俗家、足離塵俗、遠參知識、二出煩惱家、斷妄證眞、頓超三有, xuất gia có hai, một là ra khỏi nhà thế tục, chân xa lìa trần tục, đi xa tham vấn tri thức; hai là ra khỏi nhà phiền não, đoạn sai lầm chứng chân thật, vượt ra khỏi Ba Cõi).” Hay trong Tứ Thập Nhị Chương Kinh Chú (四十二章經註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 37, No. 669) lại giải thích xuất gia có 3 nghĩa: “Cát ái từ thân, thân xuất gia dã; thức tâm đạt bổn, tâm xuất gia dã. Xuất gia hữu tam, nhất từ thân, xuất thế tục gia; nhị ngộ đạo, xuất Ngũ Uẩn gia; tam chứng quả, xuất Tam Giới gia (割愛辭親、身出家也、識心達本、心出家也、出家有三、一辭親、出世俗家、二悟道、出五蘊家、三證果、出三界家, cắt yêu thương, từ cha mẹ là thân xuất gia; biết rõ tâm, đạt nguồn chơn là tâm xuất gia; xuất gia có ba, thứ nhất từ cha mẹ, ra khỏi nhà thế tục; thứ hai ngộ đạo, ra khỏi nhà Năm Uẩn; thứ ba chứng quả, ra khỏi nhà Ba Cõi).” Bên cạnh đó, Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 23 cho rằng xuất gia có 4 nghĩa: “Nhất xuất trần tục ân ái gia, nhị xuất Tam Giới hỏa trạch gia, tam xuất thô hoặc phiền não gia, tứ xuất tế hoặc Vô Minh gia, xuất đắc tứ chủng gia, thỉ xưng Nạp Tăng gia (一出塵俗恩愛家、二出三界火宅家、三出麤惑煩惱家、四出細惑無明家、出得四種家、始稱衲僧家, thứ nhất ra khỏi nhà ân ái trần tục, thứ hai ra khỏi nhà bốc lửa Ba Cõi, thứ ba ra khỏi nhà phiền não thô hoặc, thứ tư ra khỏi nhà Vô Minh tế hoặc, ra khỏi được bốn loại nhà ấy, mới gọi là nhà Nạp Tăng).” Ngoài ra, xuất gia còn có 3 loại khác là thân xuất gia mà tâm không xuất gia, tâm xuất gia mà thân không xuất gia, và cả thân và tâm đều xuất gia. Phàm người phát tâm xuất gia thì phải cạo bỏ râu tóc, xả đi áo quần thế tục mà mang vào áo hoại sắc; cho nên xuất gia còn được gọi là lạc sức (落飾), thế phát (剃髮), lạc phát nhiễm y (落髮染衣), thế phát nhiễm y (剃髮染衣), thế nhiễm (剃染), lạc nhiễm (落染), trĩ nhiễm (薙染). Trong 7 chúng đệ tử của Phật, ngoại trừ 2 chúng tại gia là Ưu Bà Tắc (s, p: upāsaka, 優婆塞) và Ưu Bà Di (s, p: upāsikā, 優婆夷); 5 chúng còn lại thuộc hàng ngũ xuất gia là Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼), Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerā, sāmaṇerī, 沙彌尼), Thức Xoa Ma Na (s: śikṣamāṇa, p: sikkhamānā, 式叉摩那); được gọi là Ngũ Chúng Xuất Gia. Từ xưa, xuất gia vốn phát xuất từ Ấn Độ, từ thời đại Phệ Đà (s: Veda, 吠陀) đã có người từ bỏ thế tục, xa gia đình để cầu giải thoát. Về sau, giáo đồ Bà La Môn kế thừa phong tục này, phần nhiều vào trong rừng sâu thanh vắng, chuyên tâm tu đạo. Phật Giáo khởi đầu từ việc xuất gia học đạo của đức Thích Tôn, về sau mới tổ chức thành giáo đoàn. Tuy nhiên, một trong những nguyên tắc quan trọng phải tuân thủ khi xuất gia là phải được sự chấp thuận của cha mẹ. Cho nên, trong Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự (根本說一切有部毘奈耶破僧事, Taishō Vol. 24, No. 1450) quyển 17 có khẳng định rằng: “Phụ mẫu bất thính, bất đắc xuất gia thọ giới (父母不聽、不得出家受戒, cha mẹ không bằng lòng, không được xuất gia thọ giới).” Có khá nhiều tác phẩm tranh vẽ, điêu khắc về hình tượng xuất gia của đức Phật, tối cổ nhất là tác phẩm ở Đại Tháp Madras, Amarāvatī, Ấn Độ. Trên cửa phía Đông của Đại Tháp Sanchi ở miền Trung Ấn cũng có các phù điêu diễn tả cảnh tượng đức Phật xuất gia như thế nào. Về phía Trung Quốc, tại Thê Hà Tự (棲霞寺) ở Giang Tô (江蘇), Linh Nham Quật Tự (靈巖窟寺) ở Sơn Tây (山西), vẫn còn những bức phù điêu khắc cảnh đức Thích Tôn đến nơi thanh tĩnh, cỡi bỏ mũ báu trao cho Xa Nặc (s: Chandaka, p: Channa, 車匿), rồi tự lấy bảo kiếm cắt tóc xuất gia. Về công đức xuất gia, Phật Thuyết Xuất Gia Công Đức Kinh (佛說出家功德經, Taishō Vol. 16, No. 707) có thuật rõ như sau: “Bất xuất gia giả, mạng chung hoặc năng đọa ư Địa Ngục (不出家者、命終或能墮於地獄, người không xuất gia, sau khi mạng hết hoặc có thể bị đọa vào Địa Ngục)”; hay “dĩ nhất nhật nhất dạ xuất gia cố, mãn nhị thập kiếp, bất đọa Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, thường sanh thiên nhân, thọ phước tự nhiên (以一日一夜出家故、滿二十劫、不墮地獄、餓鬼、畜生、常生天人、受福自然, vì lấy một ngày một đêm xuất gia, nên tròn hai mươi kiếp, không đọa Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, thường sanh Trời người, hưởng phước tự nhiên).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập