Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Trung »»
(本滿寺, Honman-ji): ngôi chùa của Nhật Liên Tông, là một trong 21 ngôi Đại Bản Sơn ở kinh đô Kyoto, hiệu là Quảng Tuyên Lưu Bố Sơn (廣宣流布山), hiện tọa lạc tại Tsuruyama-chō (鶴山町), Jōkyō-ku (上京區), Kyoto-shi (京都市). Ngọc Động Diệu Viện Nhật Tú (玉洞妙院日秀) là người khai sáng ra chùa này. Sau này nhóm Nhật Trùng (日重), Nhật Càn (日乾), Nhật Viễn (日遠) là những nhà lãnh đạo trong việc phát triển về giáo học cũng như giáo đoàn, và nơi đây là cứ điểm của Phái Thọ Nhận, đối lập với Phái Không Thọ Nhận.
(日奥, Nichiō, 1565-1630): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại An Thổ Đào Sơn và Giang Hộ, Tổ của Phái Không Nhận Không Cho thuộc Nhật Liên Tông, húy là Nhật Áo (日奥), Nhật Chân (日甄); tự là Giáo Anh (敎英); hiệu Phật Tánh Viện (佛性院), An Quốc Viện (安國院); xuất thân vùng Kyoto. Lúc còn nhỏ, ông đã theo hầu Nhật Điển (日典) ở Diệu Giác Tự (妙覺寺) trên kinh đô Kyoto; rồi đến năm 28 tuổi thì làm trú trì đời thứ 19 của chùa này. Vào năm 1595, trong dịp Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) tổ chức lễ cúng dường cho ngàn vị tăng ở ngay tại Chánh Điện của Phương Quảng Tự (方廣寺), ông chủ trương chính sách Không Nhận Không Cho và không đến tham dự lễ cúng dường này. Chính ông đã đối lập với nhóm Nhật Trùng (日重) ở Bổn Mãn Tự (本滿寺) chung quanh việc nhận và không nhận; rồi đến năm 1599, trong cuộc đối luận ở Thành Đại Phản (大阪城, Ōsaka-jō), ông bị xử tội cho ngựa kéo. Vào năm 1612, sau khi được tha tội, ông lại luận tranh với Nhật Càn (日乾) ở Thân Diên Sơn (身延山). Đến năm 1630, trong cuộc luận tranh ở Thân Trì (身池), Phái Không Nhận Không Cho bị đại bại. Sau khi Nhật Áo qua đời, tương truyền rằng thi hài của ông vẫn bị đem ra tra tấn vì tội luận tranh này. Trước tác của ông có Tông Nghĩa Chế Pháp Luận (宗義制法論) 3 quyển, Thủ Hộ Chánh Nghĩa Luận (守護正義論) 1 quyển, Cấm Đoán Báng Thí Luận (禁斷謗施論) 1 quyển, Gián Hiểu Thần Minh Ký (諫曉神明記) 1 quyển.
(日護, Nichigo, 1580-1649): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng đầu thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Hộ (日護), tự Thuận Tánh (順性), hiệu Trung Chánh Viện (中正院); xuất thân vùng Kyoto, con của Thị Thôn Quang Trùng (市村光重). Năm lên 15 tuổi, ông xuất gia, rồi theo học pháp với Nhật Trùng (日重) ở Bổn Mãn Tự (本滿寺) thuộc Kyoto và Nhật Viễn (日遠) ở Phạn Cao Đàn Lâm (飯高檀林) thuộc vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]). Sau khi tham học ở các vùng Nam Đô cũng như Tỷ Duệ Sơn, ông đi tuần hóa khắp các nơi và quy tụ rất nhiều tín đồ. Năm 1629, nhờ sự hỗ trợ của nhóm Kim Xuất Xuyên Kinh Quý (今出川經季), ông khai sáng Tam Bảo Tự (三寶寺) ở vùng Minh Lang (明瀧), Sơn Thành (山城, Yamashiro). Thông qua việc sao chép Kinh Pháp Hoa cũng như tạc tượng Phật, ông đã nổ lực giáo hóa các tầng lớp đạo tục, và cuối cùng hình thành ra Học Phái Minh Lang. Về sau, ông kế thừa trú trì thứ 2 Dưỡng Châu Tự (養珠寺) ở vùng Kỷ Y (紀伊, Kii). Trước tác của ông có Minh Lang Tam Bảo Tự Pháp Độ (明瀧三寶寺法度) 1 quyển. Ngoài ra, tác phẩm của ông có tượng gỗ ngồi Thích Ca Như Lai ở Tam Bảo Tự, và 1 pho tượng Thích Ca Như Lai khác ở Thoại Quang Tự (瑞光寺), v.v.
(日中, Nicchū, 1630-1701): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng đầu và giữa thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Trung (日中); tự Tỉnh Kỷ (省己), hiệu Chánh Trú Viện (正住院), Đồng Quảng (同廣). Ông là người học rộng hiểu nhiều, có tài về văn chương cũng như Hán Thi; có mối thâm giao với Nguyên Chính (元政) ở Thoại Quang Tự (瑞光寺) vùng Thâm Thảo (深草, Fukakusa), Sơn Thành (山城, Yamashiro). Trong khoảng thời gian niên hiệu Nguyên Lộc (元祿, 1688-1704), ông sáng lập ra Khê Thiệt Luật Viện (溪舌律院) ở Thân Diên Sơn (身延山) và chuyên hành trì luật Pháp Hoa. đến cuối đời ông trở về Diệu Pháp Tự (妙法寺).
(日遠, Nichion, 1572-1642): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại An Thổ Đào Sơn và Giang Hộ, vị Tổ đời thứ 22 của Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji); húy là Nhật Viễn (日遠), Nhật Trân (日珍); tự Nghiêu Thuận (堯順) hay Nghiêu Nhuận (堯潤); hiệu là Tâm Tánh Viện (心性院); xuất thân kinh đô Kyoto. Năm lên 6 tuổi, ông theo làm đệ tử của Nhật Trùng (日重) ở Bổn Mãn Tự (本滿寺). Đến năm 28 tuổi, ông thay thế Nhật Trùng đến giảng ở Phạn Cao Đàn Lâm (飯高檀林); rồi đến năm 1604 thì kế thừa anh ông là Nhật Càn (日乾) làm trú trì Cửu Viễn Tự ở Thân Diên Sơn. Sau đó, ông có xây dựng trường học Đàn Lâm tại chùa này. Năm 1608, nhân cuộc luận tranh Tông nghĩa của nhóm Nhật Kinh (日經), ông đến ẩn cư ở vùng Đại Dã (大野, Ōno) và sáng lập ra Bổn Viễn Tự (本遠寺). Vào năm 1615, theo mệnh của chính quyền Mạc Phủ, ông trở về sống ở Cửu Viễn Tự; rồi đến năm sau thì nhường chức trú trì lại cho đệ tử Nhật Yếu (日要). Đến năm 1630, ông dàn trận thế luận tranh Tông nghĩa ở Thành Giang Hộ (江戸城, Edo-jō), rồi Phái Không Nhận Không Cho thắng lợi, nên đã tạo được cơ sở vững chắc cho Nhật Liên Tông vốn lấy Cửu Viễn Tự làm trung tâm. Sau đó, ông đến sống ở Bổn Môn Tự (本門寺) ở vùng Trì Thượng (池上, Ikegami), Võ Tàng (武藏, Musashi); và ông cùng với Nhật Trùng, Nhật Càn được gọi là ba vị tổ thời Trung Hưng của Nhật Liên Tông. Trước tác của ông có rất nhiều như Thiên Thai Tam Đại Bộ Tùy Văn Ký (天台三大部隨聞記) 37 quyển, An Quốc Luận Tư Ký (安國論私記) 2 quyển, Bổn Tôn Sao Tư Ký (本尊抄私記) 1 quyển, Đương Gia Bổn Tôn Luận Nghĩa Lạc Cư (當家本尊論義樂居) 1 quyển, Pháp Hoa Kinh Tùy Âm Cú (法華經隨音句) 2 quyển, v.v.
(沃焦[礁]): tên gọi một tảng đá rất to lớn hút nước mà trong Cựu Hoa Nghiêm Kinh (舊華嚴經) quyển 59 có đề cập đến, do vì nó to lớn như núi nên được gọi là Ốc Tiêu Sơn (沃焦山). Dưới núi này có hỏa khí của A Tỳ Địa Ngục (s: Avīci-naraka, 阿鼻地獄) bốc lên ngùn ngụt cho nên nó thường nóng bức. Như trong Kim Cang Tam Muội Bản Tánh Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt Kinh (金剛三昧本性清淨不壞不滅經) có đoạn rằng: “Như A Nậu đại trì xuất tứ đại hà, thử tứ đại hà phân vi bát hà, cập Diêm Phù Đề nhất thiết chúng lưu giai quy đại hải; dĩ Ốc Tiêu Sơn cố, đại hải bất tăng, dĩ Kim Cang Luân cố, đại hải bất giảm (如阿耨大池出四大河、此四大河分爲八河、及閻浮提一切眾流皆歸大海、以沃焦山故、大海不增、以金剛輪故、大海不減, như hồ lớn A Nậu phân thành bốn con sông lớn, bốn sông lớn này lại chia thành tám sông, chúng cùng với tất cả các sông cõi Diêm Phù Đề đều đỗ về biển lớn; vì núi Ốc Tiêu này mà biển lớn không tăng; và nhờ có vòng Kim Cang mà biển lớn không giảm)”. Ngoài ra, còn có biển Ốc Tiêu, là nơi chúng sanh thọ khổ. Bên cạnh đó, trong kinh điển Phật Giáo thường dùng từ Ốc Tiêu để ví cho dục tình vô cùng vô tận của kẻ phàm phu ngu muội, cũng như sự nóng bức của viên đá này, khổ đau không có ngôn từ nào diễn đạt được. Đạo Giáo giải thích rõ về truyền thuyết, xuất xứ của núi Ốc Tiêu có phần hơi khác. Trong Cẩm Tú Vạn Hoa Cốc (錦繡萬花谷) có đoạn rằng: “Ốc Tiêu tại bích hải chi đông, hữu thạch khoát tứ vạn lí, hậu tứ vạn lý, cư bách xuyên chi hạ, cố hựu danh Vĩ Lư; Sơn Hải Kinh Nghiêu thời, thập nhật tinh xuất, Nghiêu sử Nghệ xạ cửu nhật, lạc vi Ốc Tiêu (沃焦在碧海之東、有石闊四萬里、厚四萬里、居百川之下、故又名尾閭、《山海經》堯時、十日並出、堯使羿射九日、落為沃焦, Núi Ốc Tiêu ở phía Đông biển xanh, có khối đá rộng bốn vạn dặm, dày bốn vạn dặm, nằm dưới trăm con sông, nên có tên là Vĩ Lư; Sơn Hải Kinh cho rằng dưới thời nhà Nghiêu, có mười mặt trời cùng xuất hiện, vua Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn chín mặt trời, rơi xuống thành núi Ốc Tiêu).” Bên cạnh đó, Hoài Nam Tử (淮南子) còn cho biết thêm rằng: “Nghiêu nãi mạng Nghệ xạ thập nhật, trung kỳ cửu nhật, nhật trúng ô tận tử (堯乃令羿射十日、中其九日、日中烏盡死, Vua Nghiêu bèn ra lệnh cho Hậu Nghệ bắn mười mặt trời, trong chín mặt trời đều bị trúng tên chết hết)”. Sau này mười mặt trời bị Hậu Nghệ (后羿) bắn được giải thích là Thang Quốc (湯國, xứ sở nước nóng); tương truyền 9 mặt trời bị bắn rơi trôi nỗi về phía Nhật Bản, cho nên tại Quận A Tô (阿蘇郡, Aso-gun), Huyện Hùng Bổn (熊本縣, Kumamoto-ken), Cửu Châu (九州, Kyūshū), Nhật Bản có thành lập “Thang Cốc Thiên Quốc (湯谷天國, Thiên Quốc Hang Nước Nóng)”. Người Trung Quốc thường gọi Nhật Bản là “Ốc Tiêu” hay “Vĩ Lư (尾閭)”. Tại ngôi điện phía nam của Cực Lạc Tự (極樂寺), vùng Cáp Nhĩ Tân (哈爾濱), Hắc Long Giang (黑龍江), Trung Quốc có thờ hai vị U Minh Giáo Chủ (幽明敎主) và Địa Tạng Vương Bồ Tát (地藏王菩薩); kinh văn có ghi rằng: “Tống Đế Vương cai quản đáy biển lớn, dưới núi Ốc Tiêu phía đông nam, Hắc Thằng Đại Địa Ngục; người sống trên dương thế, nếu người nào không biết ơn quốc gia, thê thiếp phụ tình ân ái của chồng, thọ nhận ân huệ cũng như tài sản của người khác, bản thân phạm tội mà không gắng sức cải tạo; sau khi chết rồi xuống cõi âm, đều do Tống Đế Vương quản lý.”
(不受不施派, Fujufuse-ha): tên gọi một giáo phái của Nhật Liên Tông, vị Tổ của phái này là Phật Tánh Viện Nhật Áo (佛性院日奥) ở Diệu Giác Tự (妙覺寺). Không Nhận (不受, bất thọ) ở đây có nghĩa là không thọ nhận sự cúng dường của những người chưa tin vào Pháp Hoa hay báng bổ giáo pháp. Không Cho (不施, bất thí) là không cúng dường cho chư tăng của các tông phái khác vốn khinh báng Nhật Liên Tông. Từ thời Nhật Liên trở về sau, trong giáo đoàn Nhật Liên Tông thời trung đại có chia ra hai lập trường rõ rệt, nghĩa là quán triệt toàn bộ không thọ nhận và thọ nhận với trường hợp riêng đối với sự cúng dường của những nhà có quyền lực thuộc tầng lớp Võ Gia hay Vương Hầu. Với hai lập trường như vậy, ban đầu xảy ra sự đối lập trong giáo đoàn là nhân cuộc lễ tổ chức cúng dường cho ngàn vị tăng do Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) tổ chức tại Phương Quảng Tự (方廣寺) thuộc kinh đô Kyoto. Nhật Áo thì giữ vững lập trường của mình, không đến tham dự và rời khỏi Diệu Giác Tự. Mặt khác, nhóm Nhật Trùng (日重), Nhật Càn (日乾) thì không nhận ngoài trường hợp cúng dường của các nhà công tướng, nên đã đến dự. Vào năm 1599, Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) cho tổ chức cuộc đối luận giữa hai Phái Thọ Nhận của Nhật Thiệu (日紹) thuộc Diệu Hiển Tự (妙顯寺) và Phái Không Nhận của Nhật Áo tại Thành Đại Phản (大阪城, Ōsaka-jō), và ngay chính tại đây, Nhật Áo bị xử tội cho ngựa kéo phanh thây. Từ tiền lệ này, vào năm 1630, tại Thành Giang Hộ (江戸城, Edo-jō) cũng diễn ra cuộc đối luận giữa hai Phái Thân Diên (身延派) thuộc Phái Thọ Nhận và Phái Trì Thượng (池上派) thuộc Phái Không Thọ Nhận; và nhóm Nhật Thọ (日樹) của phái sau đã bị xử tội đày ải đi xứ xa. Sự phân liệt giữa hai phái này ở các vùng Quan Tây (關西, Kansai) và Quan Đông (關東, Kantō) cũng tượng tợ như sự phân liệt thành hai phe đông và tây của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji) bên Tịnh Độ Tông vậy. Vào năm 1655, Chính Quyền Mạc Phủ Giang Hộ giao phó dấu ấn đỏ quy định lãnh vức của chùa; nên càng gây khó khăn nhiều trong việc cúng dường. Vào tháng 4 bốn năm sau, Chính Quyền Mạc Phủ lại ra lệnh cấm Phái Không Nhận Không Cho xây dựng chùa. Chính nhóm Nhật Giảng (日講) và Nhật Thuật (日述) phản đối điều này, nên bị đày ải. Mãi đến năm 1941, hai phái mới hợp nhất lại với nhau, lấy tên là Bổn Hóa Chánh Tông (本化正宗); nhưng 5 năm sau thì lại phân ly, Phái Không Nhận Không Cho thì đổi tên thành Diệu Pháp Hoa Tông (妙法華宗), rồi 6 năm sau thì lấy lại tên cũ.
(歸眞): quay trở về với chân như bản tánh, trả lại trạng thái xưa nay, tức Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃); cho nên đức Phật cũng như chư Tổ sư viên tịch cũng gọi là quy chơn. Về sau, từ này cũng được dùng phổ cập cho các cao tăng, tu sĩ Phật Giáo khi qua đời; đồng nghĩa với quy tịch (歸寂). Như trong Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Hạ, phần Tống Chung (送終), giải thích rõ rằng: “Thích thị tử, vị Niết Bàn, viên tịch, quy chơn, quy tịch, diệt độ, thiên hóa, thuận thế, giai nhất nghĩa dã; tùy tiện xưng chi, cái dị tục dã (釋氏死、謂涅槃、圓寂、歸眞、歸寂、滅度、遷化、順世、皆一義也、隨便稱之、蓋異俗也, dòng họ Thích [tu sĩ] qua đời, gọi là Niết Bàn, viên tịch, quy chơn, quy tịch, diệt độ, thiên hóa, thuận thế, đều cùng một nghĩa cả; tùy tiện mà gọi, vì khác với thế tục vậy).” Trong Tứ Giáo Nghi (四敎義, Taishō Vol. 46, No. 1929) quyển 1 cũng cho biết rằng: “Phù đạo tuyệt nhị đồ, tất cánh giả thường lạc, pháp duy nhất vị, tịch diệt giả quy chơn (夫道絕二途、畢竟者常樂、法唯一味、寂滅者歸眞, phàm đạo dứt hai đường, rốt cùng là thường lạc, pháp chỉ một vị, vắng lặng là về chơn).” Trong bài Đông Đô Phú (東都賦) của Ban Cố (班固, 32-92) nhà Hán có câu: “Toại linh hải nội khí mạt nhi phản bổn, bối ngụy nhi quy chơn (遂令海內棄末而反本、背僞而歸眞, bèn khiến cho trong nước bỏ ngọn mà tìm nguồn, dứt dối mà về chơn).” Hay trong Nam Nhạc Tổng Thắng Tập (南嶽總勝集, Taishō Vol. 51, No. 2097) quyển Hạ, phần Lương Song Tập Tổ (梁雙襲祖), lại có đoạn: “Hốt nhất nhật vị môn nhân viết: 'Ngô tương nhập thất chi hậu, nhược hữu thiên khí dị thường, tốc lai báo ngô.' Lạp Nhật Trung ngọ tứ khí trừng thanh, đệ tử báo chi, nhi sách mộc dục phần hương, tịch nhiên quy chơn (忽一日謂門人曰、吾將入室之後、若有天氣異常、速來報吾、翌日中午四氣澄清、弟子報之、而索沐浴焚香、寂然歸眞, Một hôm nọ, Tổ chợt bảo với môn nhân rằng: 'Sau khi vào trong thất rồi, nếu có khí trời khác thường, mau đến báo cho ta biết.' Vào giữa trưa hôm sau, bốn khí lắng trong, đệ tử báo cho ngài biết, Tổ bèn nhờ tắm rửa, xông hương, rồi lẳng lặng ra đi).” Trong bài Bảo Nguyệt Đại Sư Tháp Minh (寶月大師塔銘) của Tô Thức (蘇軾, 1037-1101) nhà Tống có câu: “Oánh nhiên Ma Ni, quy chơn thử độ (瑩然摩尼、歸眞於土, suốt trong Ma Ni, quy chơn cõi này).”
(天厨): Bếp Trời. Từ này có nhiều nghĩa khác nhau.
(1) Tên gọi của một vì sao, như trong phần Thiên Văn Chí Thượng (天文志上) của Tấn Thư (晉書) có câu: “Tử Vi thản, đông bắc duy ngoại lục tinh viết Thiên Trù, chủ thịnh soạn (紫微垣、東北維外六星曰天廚、主盛饌, trong khu vực sao Tử Vi, sáu ngôi sao ngoài phương đông bắc gọi là Thiên Trù, chủ quản về cỗ ăn uống).”
(2) Nhà Bếp của Thiên Đình, như trong bài thơ Đề Tuyên Luật Sư Họa Tượng (題宣律師畫像) của Lục Du (陸游, 1125-1210) nhà Tống có câu: “Bình sanh nhất ngõa bát, hà xứ hữu Thiên Trù (平生一瓦缽、何處有天廚, bình sanh một bình bát, nơi đâu có Bếp Trời).” Hay trong bài Mai Hoa Am Đồng Lâm Nhã Phủ Thoại Vũ Liên Cú (梅花庵同林若撫話雨聯句) của Ngô Vĩ Nghiệp (吳偉業, 1609-1672) nhà Thanh lại có câu: “Tiên lạc Thanh Thương thái, Thiên Trù pháp tửu triêm (仙樂清商奏、天廚法酒霑, tiên vui Thanh Thương rộn, Bếp Trời rượu thấm ngon).”
(3) Nhà Bếp của Hoàng Đế, như trong bài Nguyên Hựu Bát Niên Sanh Nhật Tạ Biểu (元祐八年生日謝表) của Tô Triệt (蘇轍, 1039-1112) nhà Tống có đoạn: “Lão phùng đản nhật, khấp dưỡng thân chi vô tùng, tứ xuất Thiên Trù, quý quân tư chi mạc báo (老逢誕日、泣養親之無從、賜出天廚、愧君恩之莫報, già gặp ngày sinh nhật, khóc xót nuôi song thân không được toại nguyện, nhận ân sủng Nhà Bếp triều đình, thẹn ơn nhà vua chưa báo đáp).”
Trong Phật Giáo, có những câu chuyện của các vị thần tăng đã từng được trời cúng dường cho thức ăn như trong Ngọc Thanh Vô Cực Tổng Chơn Văn Xương Đại Động Tiên Kinh (玉清無極總眞文昌大洞仙經) quyển 6 của Đạo Giáo có đoạn rằng: “Tích hữu tăng tọa Thiền, văn Hương Tích chi khí, tâm niệm viết tất thị trai cúng, hoặc kiến thiên tiên lai thỉnh phó Thiên Trù cúng, tăng ư định trung tiện khứ, nhật mỗi như thị; hoặc nhật minh, nhãn sư kiến chi, vị viết: 'Nhữ đọa nhất xí trung hỉ'. Tăng bất tín, toại linh tái phó cúng, hồi, sư thủ xí trung nhất trùng sát chi, tăng phương ngộ (昔有僧坐禪、聞香積之炁、心念曰必是齋供、或見天仙來請赴天厨供、僧於定中便去、日每如是、或日明、眼師見之、謂曰汝墮一廁中矣、僧不信、遂令再赴供、回、師取廁中一蟲殺之、僧方悟, xưa kia có vị tăng đang ngồi Thiền, chợt nghe mùi thơm xứ Hương Tích, tâm niệm cho rằng đó là đồ chay cúng dường, hoặc có khi thấy tiên trên trời đến mời dự cúng dường trên Thiên Trù, vị ấy trong định mà đi; mỗi ngày đều như vậy; có hôm nọ lúc trời sáng, thầy ông thấy vậy, bảo rằng: 'Ngươi đọa vào trong nhà xí rồi !' Vị tăng chẳng tin, lại tiếp tục đi tham dự lễ cúng dường; đến khi trở về, thầy ông lấy trong nhà xí ra một con trùng và giết đi; khi ấy vị tăng mới tỉnh ngộ).” Hay như trong Thần Tăng Truyện (神僧傳, Taishō No. 2064) quyển 6, truyện Khuy Cơ (窺基) có đoạn kể rằng: “Sơ Nam Sơn Tuyên Luật Sư, dĩ hoằng luật danh chấn Ngũ Đại, cảm thiên trù cúng soạn; Cơ thường phỏng Tuyên, kỳ nhật quá ngọ nhi thiên soạn bất chí, cập Cơ từ khứ Thiên Thần nãi giáng, Tuyên trách dĩ hậu thời, Thiên viết: 'Thích kiến Đại Thừa Bồ Tát tại thử dực vệ nghiêm thậm, cố vô tự nhi nhập.' Tuyên văn chi đại kinh (初南山宣律師、以弘律名震五天、感天廚供饌、基嘗訪宣、其日過午而天饌不至、及基辭去天神乃降、宣責以後時、天曰、適見大乘菩薩在此翊衛嚴甚、故無自而入、宣聞之大驚, lúc ban đầu Nam Sơn Đạo Tuyên Luật Sư truyền bá Luật Tông danh thanh vang khắp mọi nơi, cảm động khiến cho trời dâng cúng thức ăn; Khuy Cơ thường đến thăm Đạo Tuyên, có hôm nọ đến quá ngọ mà cơm trời vẫn chưa đến, khi Khuy Cơ chuẩn bị ra về thì Thiên Thần giáng xuống; Đạo Tuyên phiền trách vì sao đến trễ; Thiên Thần thưa rằng: 'Tôi thấy có các vị Bồ Tát Đại Thừa canh giữ nơi đây rất nghiêm mật, nên không tự tiện vào.' Đạo Tuyên nghe vậy rất kinh sợ).” Trong Thiền môn có các bài tán về Thiên Trù Cúng như “Thiên Trù cúng, Thuần Đà tối hậu lai, cơ xan ma mạch sung bì đại, tiên nhân hựu hiến trai thực tại, song song mục nữ hiến hương mi, Tứ Thiên Vương bổng bát, diêu vọng Linh Sơn bái. Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát (天厨供、淳陀最後來、飢飡麻麥充皮袋、仙人又献齋食在、雙雙牧女献香糜、四天王捧鉢、遙望靈山拜、南無香供養菩薩, món trời cúng, Thuần Đà đến cuối cùng, đói khát mè thóc cũng no đủ, tiên nhân lại dâng thức chay đến, hai hàng mục nữ cúng cháo thơm, Tứ Thiên Vương nâng bát, xa hướng Linh Sơn vái. Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát)”; hay “Thiền duyệt Tô Đà, tạo xuất Thiên Trù cúng, thành đạo đương sơ, mục nữ tiền lai tống Lão Mẫu, phó thác tại kim bàn, phụng hiến thượng Như Lai, hiền thánh vô biên chúng. Nam Mô Thiền Duyệt Tạng Bồ Tát (禪悅酥酡、造出天厨供、成道當初、牧女前來送老母、付托在金盤、奉献上如來、賢聖無邊眾。南無禪悅藏菩薩, Thiền vui Tô Đà, tạo nên món trời cúng, thành đạo ban sơ, mục nữ đến trước dâng Lão Mẫu, phó thác tại bàn vàng, dâng cúng lên Như Lai, hiền thánh vô biên chúng. Nam Mô Thiền Duyệt Tạng Bồ Tát)”, v.v. Từ đó, chúng ta thấy rằng Thiên Trù Cúng còn có nghĩa là món thức ăn trân quý do trời cúng, hay món thức ăn cao quý đem dâng cúng cho các bậc cao tăng, thạc đức.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập