Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới. (Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Triêu »»
(久遠寺, Kuon-ji): ngôi chùa Tổng Bản Sơn trung tâm của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại số 3567 Minobu (身延), Minobu-chō (身延町), Minamikoma-gun (南巨摩郡), Yamanashi-ken (山梨縣); hiệu núi là Thân Diên Sơn (身延山), tên gọi chính thức là Thân Diên Sơn Diệu Pháp Hoa Viện Cửu Viễn Tự (身延山妙法華院久遠寺), tượng thờ chính là Thập Giới Mạn Trà La (十界曼荼羅). Đây là di tích quan trọng đánh dấu Nhật Liên (日蓮, Nichiren) đã từng lưu trú kể từ năm thứ 11 (1274) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), và cũng là nơi được biến thành tự viện với ngôi Miếu Đường làm trung tâm sau khi Nhật Liên qua đời vào năm thứ 5 (1282) niên hiệu Hoằng An (弘安). Tên chùa được thấy đầu tiên qua thư tịch ghi năm 1283 là Thân Diên Sơn Cửu Viễn Tự Phiên Trương (身延山久遠寺番帳). Về ngôi Miếu Đường, 6 người cao đệ chân truyền của Nhật Liên cùng với 12 người khác, tổng cọng là 18 người, thay phiên nhau mỗi người 1 tháng canh giữ; nhưng không bao lâu sau thì hủy bỏ quy định này. Vào khoảng năm 1284, 1285, Nhật Hưng (日興) trở thành người thường trú ở đây, và trong khoảng thời gian này có Nhật Hướng (日向) cũng cùng chung sức duy trì và phát triển Thánh địa này. Tuy nhiên, Nhật Hưng lại bất hòa với lãnh chúa Ba Mộc Tỉnh Thật Trường (波木井實長), tín đồ đắc lực từ thời Nhật Liên; cho nên vào năm đầu (1288) niên hiệu Chánh Ứng (正應), ông lui về vùng Phú Sĩ (富士, Fuji), Tuấn Hà (駿河, Suruga). Từ đó trở về sau, Nhật Hướng và môn lưu của ông kế thừa chùa này. Hệ thống của ông được gọi là Dòng Phái Nhật Hướng (日向門流), Dòng Phái Thân Diên (身延門流). Từ đó, Cửu Viễn Tự mở rộng giáo tuyến, và đôi khi chùa mang đậm sắc thái là ngôi tự viện của chính dòng họ Ba Mộc Tỉnh. Trong khoảng thời gian 10 năm từ năm đầu (1466) niên hiệu Văn Chánh (文正) cho đến năm thứ 7 (1475) niên hiệu Văn Minh (文明), Nhật Triêu (日朝), vị Quán Thủ đời thứ 11 của chùa, đã di chuyển ngôi đường vũ cũng như các kiến trúc khác ở Tây Cốc (西谷) đến vị trí hiện tại; đồng thời ông cũng quy định ra những hành sự trong năm, đặt ra cơ quan điều hành các lễ hội hàng tháng và mở rộng giáo hóa. Cửu Viễn Tự thời Trung Đại chủ yếu lấy vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai), Tuấn Hà (駿河, Suruga) làm cứ điểm hoạt động. Tướng Quân Võ Điền Tình Tín (武田晴信, Takeda Harunobu, tức Tín Huyền [信玄, Shingen]) của Giáp Phỉ tiến hành cầu nguyện ở Cửu Viễn Tự cho vận thế của dòng họ Võ Điền (武田, Takeda) được dài lâu; đồng thời bảo chứng cho quyền trú trì của chùa. Bên cạnh đó, trung thần của ông là Huyệt Sơn Tín Quân (穴山信君) cũng dốc toàn lực bảo trợ cho chùa. Sau khi dòng họ Võ Điền qua đời, Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) lên thay thế nắm chính quyền vùng Giáp Phỉ, cũng tiếp tục bảo hộ cho chùa, rồi vào năm thứ 16 niên hiệu (1588) niên hiệu Thiên Chánh (天正), ông quy định miễn trừ các lao dịch cho chùa và bảo chứng quyền trú trì ở đây. Về sau, qua các đời chùa được ban cho như quy định cũ. Đến đầu thời Cận Đại, từ vụ đàn áp Phái Không Nhận Không Cho vốn phát sinh qua cuộc tựu nhiệm trú trì Quán Thủ chùa cho Nhật Càn (日乾), Nhật Viễn (日遠) của Bổn Mãn Tự (本滿寺) ở Tokyo, nơi đây trở thành chủ tọa cho giáo đoàn Nhật Liên trên toàn quốc. Trong bản Pháp Hoa Tông Chư Tự Mục Lục (法華宗諸寺目錄) được hình thành năm thứ 10 (1633) niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永), những chùa con trực thuộc Cửu Viễn Tự có 412 cơ sở; và chùa còn gián tiếp quản lý 1.519 ngôi chùa con khác nữa. Mặt khác, theo sự tăng dần số lượng người đến tham bái từ cuối thời Trung Đại trở đi, những ngôi viện con xuất hiện. Trú trì cũng như tăng chúng của các viện con thì phục vụ trực tiếp cho viện chính, cùng nhau tham gia điều hành chùa; cho nên Cửu Viễn Tự là một phức hợp thể của viện chính và các viện con. Vị trú trì đời thứ 31 của chùa là Nhật Thoát (日脫) cũng như trú trì đời thứ 32 là Nhật Tỉnh (日省) đều được cho phép đắp Tử Y. Vào năm thứ 3 (1706) niên hiệu Bảo Vĩnh (寶永), dưới thời vị trú trì thứ 33 là Nhật Hanh (日亨), từ đó về sau lịch đại chư vị trú trì đều được phép mang Tử Y. Cũng vào thời này, nhờ sự cúng dường của các nhà Đại Danh cũng như hàng cung thất của họ, nhiều kiến trúc đường xá của chùa được tạo dựng; nhưng chùa lại bị mấy lần hỏa tai vào những năm thứ 4 (1821), thứ 7 (1824), thứ 12 (1829) niên hiệu Văn Chính (文政). Trãi qua các niên hiệu Thiên Bảo (天保), Gia Vĩnh (嘉永), già lam lại được phục hưng; song đến năm thứ 8 (1875) thời Minh Trị (明治), chùa lần nữa bị hỏa tai và hơn phần nữa già lam bị cháy rụi. Sau mấy lần trùng tu, hiện tại chùa có một quần thể kiến trúc rộng lớn với rất nhiều ngôi đường xá như Tổng Môn (總門), Tam Môn (三門), Bổn Đường (本堂, Chánh Điện) tôn trí bức Mạn Trà La do chính tay Nhật Liên vẽ; Ngũ Trùng Tháp (五重塔, tháp 5 tầng); Thê Thần Các Tổ Sư Đường (棲神閣祖師堂) an trí tượng Nhật Liên; Thích Ca Điện (釋迦殿); Ngự Chơn Cốt Đường (御眞骨堂) an trí hài cốt của Nhật Liên; Khai Cơ Đường (開基堂) tôn thờ Ba Mộc Tỉnh Thật Trường, v.v.
(日妙, Nichimyō, ?-1502): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Nhật Diệu (日妙); hiệu Pháp Tịnh Viện (法淨院); xuất thân vùng Yamanashi-ken (山梨縣). Năm lên 18 tuổi, ông theo xuất gia với Nhật Triêu (日朝), vị Tổ đời thứ 11 của Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji). Ông vốn có chí muốn truyền bá Kinh Pháp Hoa, nên giữa đường lên kinh đô thì sáng lập ra Pháp Liên Tự (法蓮寺) ở vùng Vĩ Trương (尾張, Owari).
(日傳, Nichiden, 1482-1548): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa thời đại Chiến Quốc, vị Tổ đời thứ 13 của Cửu Viễn Tự (久遠寺), húy là Nhật Truyền (日傳); tự Thừa Hải (承海), hiệu Bảo Tụ Viện (寶聚院). Ông từng theo hầu Nhật Triêu (日朝) cũng như Nhật Ý (日意) ở Cửu Viễn Tự; rồi đến năm 1519 thì làm Tổ đời thứ 13 của chùa này. Trong khoảng thời gian 25 năm làm trú trì, ông đã kế thừa sự nghiệp tái hưng chùa của Nhật Triêu và Nhật Ý, tái kiến Tổ Sư Đường, và xây dựng một số kiến trúc khác. Nhờ vị quan Thủ Hộ vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai) là Võ Đa Tín Hổ (武田信虎) quy y theo, ông đã biến ngôi Diệu Thắng Tự (妙勝寺) ở vùng Vĩ Trương (尾張, Owari) thành ngôi chùa trung tâm lớn; cho đệ tử Nhật Nghiệm (日驗) đến vùng Hòa Tuyền (和泉, Izumi) để xây dựng Thành Tựu Viện (成就院), và tận lực mở rộng phạm vi giáo hóa của Môn Phái Lục Điều. Trước tác của ông có Bổn Tích Vấn Đáp Cao Quảng Nghĩa (本迹問答高廣義) 1 quyển.
(天文法難, Tembun-no-hōnan): còn gọi là Vụ Loạn Pháp Hoa Thiên Văn (天文法華の亂, Tembunhokke-no-ran), là vụ loạn xảy ra vào năm 1536 (Thiên Văn [天文] 5), do đồ chúng Tỷ Duệ Sơn kết hợp với chúng Lục Giác Cận Giang (六角近江), loạn nhập vào vùng Lạc Trung (洛中) và đốt cháy tan tành 21 ngôi chùa trung tâm lớn của Pháp Hoa Tông ở kinh đô Kyoto. Đối với Pháp Hoa Tông, đây được gọi là Vụ Pháp Nạn Thiên Văn hay Vụ Pháp Loạn Thiên Văn. Nguyên nhân trực tiếp của vụ loạn này phát xuất từ sự việc vào tháng 2 năm này, Hoa Vương Phòng (華王房) của Tỷ Duệ Sơn luận tranh Tông nghĩa với Tùng Bổn Cửu Cát (松本久吉), môn đồ của Pháp Hoa Tông, và kết quả bị bại trận; từ đó, tiếng đồn vang ra khắp nơi, nên chúng Sơn Môn bị mất mặt. Vào đầu tháng 6, đại chúng Sơn Môn mở ra hội nghị tập trung cả Tam Viện, quyết định đuổi Pháp Hoa Tông ra khỏi vùng Lạc Trung, đồng thời phát ra điệp trạng cầu viện binh ở các chùa lớn khác như Đông Tự (東寺), Thần Hộ Tự (神護寺), Căn Lai Tự (根來寺), Phấn Hà Tự (粉河寺), Cao Dã Sơn (高野山), Tam Tỉnh Tự (三井寺), Đông Đại Tự (東大寺), Hưng Phước Tự (興福寺), Thạch Sơn Bổn Nguyện Tự (石山本願寺), v.v. Nhóm Lục Giác Định Lại (六角定賴) cũng như Mộc Trạch Trường Chính (木澤長政) đã khuyên hai bên nên điều đình; nhưng không thành công, ngược lại chúng của chúng của Lục Giác Cận Giang lại đứng về phía Sơn Môn mà xuất trận. Cuộc chiến xảy ra vào ngày 22 tháng 7 năm 1536, kéo dài trong vòng 28 ngày. Thế lực của Sơn Môn 150.000 người, chúng của Lục Giác có 30.000; phái Tự Môn có 3.000. Còn phía Pháp Hoa Tông thì gồm những tăng đồ của hết cả 21 ngôi chùa trung tâm, có khoảng 20.000 hay 30.000 người. Ban đầu, trận chiến diễn ra rất gay gắt; đến ngày 27 thì chúng của Cận Giang mới loạn nhập vào các vùng ở kinh đô, phóng hỏa đốt cháy các chùa. Vùng Hạ Kinh thì cháy tan toàn bộ, còn vùng Thượng Kinh thì cháy khoảng 1/3, và cho đến hôm sau thì toàn bộ 21 ngôi chùa trung tâm lớn của Pháp Hoa Tông đều bị đốt cháy rụi. Về phía Pháp Hoa Tông, có rất nhiều tăng tục đã hy sinh trong trận chiến như trường hợp Nhật Triệu (日兆), trú trì Diệu Giác Tự (妙覺寺), đã mổ bụng tự vẫn. Số lượng người hy sinh lên đến 10.000 hay 3.000, 4.000 người. Hàng ngàn dân chúng phải chạy đi lánh nạn; đàn bà con nít thì bị giết chết, cũng có trường hợp khát nước mà chết, tính ra có đến mấy trăm người. Tai hại của vụ loạn này nếu so với vụ Loạn Ứng Nhân (應仁の亂) thì hơn xa. Hơn nữa, ảnh hưởng của vụ loạn này đã gây thiệt hại nhiều vô kể. Sau đó, vào tháng 10 nhuận, Tế Xuyên Tình Nguyên (細川晴元), tín đồ của Pháp Hoa Tông có quyền lực rất lớn, nghiêm cấm không được tái kiến những ngôi chùa trung tâm ở vùng Lạc Trung. Về sau, khi lệnh cấm này được giải bỏ thì trong số 21 ngôi chùa lớn trung tâm, chỉ có 15 ngôi được tái kiến mà thôi.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.165 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập