Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Tĩnh »»
(本國寺 hay 本圀寺, Honkoku-ji): một trong 4 ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại Misasagiōiwa-chō (御陵大岩町), Yamashina-ku (山科區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); sơn hiệu là Đại Quang Sơn (大光山), được kiến lập vào năm 1253 (Kiến Trường [建長] 5). Đây là ngôi chùa do Nhật Tĩnh (日靜) lập nên nhờ sự ngoại hộ của Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji). Năm 1263 (Hoằng Trường [弘長] 3), chùa được đổi tên thành Đại Quang Vô Lượng Sơn Bổn Quốc Độ Diệu Tự (大光無量山本國土妙寺). Vào năm 1345 (Trinh Hòa [貞和] nguyên niên), ông dời ngôi Pháp Hoa Đường do Nhật Liên Thánh Nhân lập nên ở Tùng Diệp Cốc (松葉谷), Liêm Thương, đến vùng Lục Điều Quật Xuyên (六條堀川) thuộc kinh đô Kyoto. Đến năm 1536 (Thiên Văn [天文] 5), do vì pháp nạn, chùa bị đồ chúng của Diên Lịch Tự (延曆寺) đốt cháy tan tành, nhưng 11 năm sau thì chùa lại được tái hưng như cũ, khai mở đàn lâm và tập trung học tăng về rất đông. Cái tên Hán văn Bổn Quốc Tự (本國寺) được đổi thành Bổn Quốc Tự (本圀寺) là do vị quan Trung Nạp Ngôn Thủy Hộ Quang Quốc (水戸光圀, Mito Mitsukuni) đã từng ngoại hộ đắc lực cho chùa. Và đến năm 1970 (Chiêu Hòa [昭和] 45), chùa được dời về vị trí hiện tại. Tượng thờ chính của chùa là bức đồ hình Mạn Trà La do Nhật Liên vẽ nên. Chùa hiện còn lưu giữ rất nhiều bảo vật có giá trị.
(止觀, shikan): Chỉ là ý dịch của từ Xa Ma Tha (s: śamatha, p: samatha, 奢摩他); Quán là ý dịch của từ Tỳ Bát Xá Na (s: vipaśyanā, p: vipassanā, 毘鉢舍那). Trong Thiền định, có 2 phương diện Chỉ và Quán. Chỉ là nhắm đến việc thống nhất tinh thần để đạt đến trạng thái tịch tĩnh vô niệm vô tưởng. Quán nghĩa là quán sát tư duy chư pháp thông qua trí tuệ. Và ta cũng có thể cho Chỉ là Định, Quán là Tuệ. Trong 4 cõi Thiền định của Sắc Giới (s: rūpa-dhātu, 色界), Quán được xem là nhiều hơn. Trong 4 cõi Thiền định của Vô Sắc Giới (s: ārūpa-dhātu, 無色界), Chỉ được xem như là nhiều hơn. Trong cõi định của Dục Giới (s: kāma-dhātu, 欲界) thì chỉ có Quán mà không có Chỉ. Từ cõi Sơ Thiền của Sắc Giới trở lên, trong Quán có thêm yếu tố của Chỉ, rồi trong cõi định của Bốn Vô Sắc Giới thì Quán dần dần giảm đi và Chỉ mạnh lên. Trong cõi định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (s: Naivasaṁjñānāsaṁjñāyatana, 非想非非想處) cũng như diệt tận định của Vô Sắc Giới thì tác dụng của Tuệ tưởng niệm quán sát hầu như mất hẳn, và trở thành trạng thái vô niệm vô tưởng. Còn trong các cõi Thiền định, cõi Tứ Thiền thì Chỉ và Quán ngang nhau, hay trạng thái Chỉ Quán đồng hành, tương truyền rằng sự thành đạo cũng như nhập diệt của đức Phật đều được thực hiện ngay nơi cõi Tứ Thiền này.
(s: Navagrahā, 九曜): 9 loại thiên thể chiếu sáng rất quan trọng trong hiện tượng thiên văn, còn gọi là Cửu Chấp (九執), tùy theo ngày giờ mà không xa rời nhau, có nghĩa nắm chặt nhau (chấp trì). Nghi quỹ trọng yếu của Cửu Diệu được thuyết trong Túc Diệu Kinh (宿曜經, 2 quyển, Bất Không [不空] dịch, Taishō 21, 1299), Thất Diệu Nhương Tai Quyết (七曜攘災決, Đường Kim Câu Tra [唐倶金吒] soạn, Taishō 21, 1308), Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp (七曜星辰別行法, Nhất Hành [一行] soạn, Taishō 21, 1309), Phạm Thiên Hỏa La Cửu Diệu (梵天火羅九曜, Nhất Hành [一行] soạn, Taishō 21, 1311). Về đồ hình của Cửu Diệu có Cửu Diệu Tôn Tượng (九曜尊像), Cửu Diệu Bí Lịch (九曜秘曆), v.v., phần lớn có các yếu tố thiên văn của Trung Quốc. Căn cứ vào lịch Ấn Độ bằng tiếng Phạn, Cửu Diệu được phân thành:
(1) Nhật Diệu (s: Āditya, 日曜): còn gọi là Thái Dương (太陽), Nhật Tinh (日精、日星), Nhật Đại Diệu (日大曜); hình tượng bàn tay phải xòe ra cầm nhật luân (bánh xe mặt trời), tai trái kê lên đầu gối, mang thiên y và cỡi trên mình 3 con bạch mã (hay 5 con ngựa, trong Phạm Thiên Hỏa La Cửu Diệu có thể nhầm sao này với Nguyệt Diệu);
(2) Nguyệt Diệu (s: Soma, 月曜): còn gọi là Nguyệt Thiên Diệu (月天曜), Nguyệt Tinh (月精、月星), Mộ Thái Âm (暮太陰), Thái Âm (太陰); hình tượng bàn tai phải xòe ra cầm hình mặt trăng có con thỏ nằm trên, tay trái đưa lên ngang ngực và ngồi xếp bằng hai chân giao nhau; hoặc hình tượng trên đỉnh đầu có con chim bồ câu, mang y Yết Ma, hai tay bỏ trong tay áo và cầm nguyệt luân (vòng tròn mặt trăng), cỡi lên trên 5 cánh chim bồ câu;
(3) Hỏa Diệu (s: Aṅgāraka, 火曜): còn gọi là Huỳnh Hoặc Tinh (熒惑星, Sao Hỏa), Hỏa Tinh (火精、火星), Hỏa Đại Diệu (火大曜), Phạt Tinh (罰星); hình tượng tay phải đặt trên bắp đùi, tay trái cầm cái giáo dài mũi nhọn, chân phải hơi nhếch lên một chút, ngồi với tư thế hai bàn chân giao nhau; tuy nhiên trong đồ hình Bắc Đẩu Mạn Trà La (北斗曼茶羅) thân hình vị này có màu đỏ, tóc rực lửa dựng ngược, mang áo và mũ trời, chung quanh lửa cháy, thân đứng với 4 tay;
(4) Thủy Diệu (s: Budha, 水曜): còn gọi là Thần Tinh (辰星), Thủy Tinh (水精、水星), Thần Tinh (辰星), Trích Tinh (滴星), Thủy Đại Diệu (水大曜); hình tượng chấp tay, ngồi xếp bằng hai bàn chân giao nhau; ngoài ra còn có hình tượng tay phải cầm bình, tay trái cầm xâu chuổi và ngồi bán già trên tòa hoa sen;
(5) Mộc Diệu (s: Bṛhaspati, 木曜): còn gọi là Tuế Tinh (歳星), Nhiếp Đề (攝提), Đại Chủ (大主), Mộc Đại Diệu (木大曜), Mộc Tinh (木精); hình tượng ngón tay áp út và ngón giữa của bàn tay phải cong lên, ngón tay cái ấn xuống trên hai ngón kia, tai trái để lên bắp đùi và ngồi xếp bằng hai chân giao nhau; ngoài ra còn có hình tượng tay trái cầm cây gậy trên có hình bán nguyệt, hay hình ông lão đứng, đội mũ đầu heo, tay trái cầm cây gậy;
(6) Kim Diệu (s: Śukra, 金曜): còn gọi là Thái Bạch Tinh (太白星), Trường Canh (長庚), Na Hiệt (那頡), Kim Tinh (金星、金精), Kim Đại Diệu (金大曜); hình tượng mang thiên y, tay phải để ngang ngực, tay trái đưa lên với 4 ngón tay bẻ gập lại và ngồi xếp bằng hai chân giao nhau; ngoài ra còn có hình tượng hai tay cầm bình và xâu chuỗi; hay hình người nữ đội con gà trên đầu và gãy đàn Tỳ Bà (琵琶);
(7) Thổ Diệu (s: Śanaiścara, 土曜): còn gọi là Trấn Tinh (鎭星), Thổ Tinh (土星、土精), Thổ Đại Diệu (土大曜); hình tượng ông lão khỏa thân đứng, mang quần da nai, tay phải cầm cây gậy tiên; hay hình Bồ Tát tay cầm bình; hoặc hình ông lão cỡi trâu, tay trái cầm tích trượng, có 2 đồng tử cầm giáo đứng hầu hai bên;
(8) La Hầu (s: Rāhu, 羅睺): còn gọi là Hoàng Phan Tinh (黃旛星), Thực Thần (蝕神), Thái Dương Thủ (太陽首); hình tượng ẩn trong mây với 2 bàn tay hai bên khuôn mặt giận dữ; bên cạnh đó còn có hình tượng giận dự với 3 mặt và tóc rực lửa, trên mỗi đỉnh đầu có đầu rắn và từ ngực trở xuống ẩn trong mây;
(9) Kế Đô (s: Ketu, 計都): còn gọi là Tuệ Tinh (彗星), Báo Vĩ Tinh (豹尾星), Kỳ Tinh (旗星), Thực Thần Vĩ (蝕神尾), Thái Âm Thủ (太陰首), Nguyệt Bộc Lực (月勃力); hình tượng nữa thân phải lộ ra khỏi mây, tay phải để ngang ngực, tay trái đưa lên cao; hay hình có khuôn mặt giận dữ, khỏa thể một nữa ẩn trong đám mây đen; hoặc hình tướng giận dữ có 3 mặt, trên mỗi mặt có 3 con rắn, từ ngực trở xuống ẩn trong mây. Trong đồ hình Bắc Đẩu Mạn Trà La thân hình vị này có màu đỏ, 3 mặt và 4 tay, tóc dựng ngược, mang áo và mũ trời, chân trái duỗi ra và cỡi lên con rồng. Ngoài ra còn có hình tượng tay phải ẩn trong đầu rồng, cầm lỗ tai con thỏ, tay trái cầm cương rồng và tóc người).
Trong Tân Đường Thư Lịch Chí (新唐書曆志) quyển 18 có ghi rằng vào năm thứ 6 (718) niên hiệu Khai Nguyên (開元) đời vua Huyền Tông, Thái Sử Giám Cù Đàm Tất Đạt (太史監瞿曇悉達) vâng chiếu phiên dịch Lịch Cửu Diệu; nó cũng tương tự với loại lịch Thái Dương bằng tiếng Phạn. Nếu phối hợp phương vị, Nhật Diệu thuộc về phương Sửu Dần, Nguyệt Diệu thuộc phương Tuất Hợi, Hỏa Diệu thuộc phương Nam, Thủy Diệu là phương Bắc, Mộc Diệu ở phương Đông, Kim Diệu ở phương Tây, Thổ Diệu ở trung ương, La Hầu ở phương Thìn Tỵ (Đông Bắc), Kế Đô thuộc phương Mùi Thân (Tây Nam). Hơn nữa, theo Thuyết Bản Địa của Nhật Bản, Nhật Diệu là Quan Âm (觀音, hay Hư Không Tạng [虛空藏]), Nguyệt Diệu là Thế Chí (勢至, hay Thiên Thủ Quan Âm [千手觀音]), Hỏa Diệu là Bảo Sanh Phật (寳生佛, hay A Rô Ca Quan Âm [阿嚕迦觀音]), Thủy Diệu là Vi Diệu Trang Nghiêm Thân Phật (微妙莊嚴身佛, hay Thủy Diện Quan Âm [水面觀音]), Mộc Diệu là Dược Sư Phật (藥師佛, hay Mã Đầu Quan Âm [馬頭觀音]), Kim Diệu là A Di Đà Phật (阿彌陀佛, hay Bất Không Quyên Sách [不空羂索]), Thổ Diệu là Tỳ Lô Giá Na Phật (毘盧遮那佛, hay Thập Nhất Diện Quan Âm [十一面觀音]), La Hầu là Tỳ Bà Thi Phật (毘婆尸佛), Kế Đô là Bất Không Quyên Sách (不空羂索). Người xưa thường phối hợp Cửu Diệu này với tuổi tác của con người để phán đoán tốt xấu.
(久遠寺, Kuon-ji): ngôi chùa Tổng Bản Sơn trung tâm của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại số 3567 Minobu (身延), Minobu-chō (身延町), Minamikoma-gun (南巨摩郡), Yamanashi-ken (山梨縣); hiệu núi là Thân Diên Sơn (身延山), tên gọi chính thức là Thân Diên Sơn Diệu Pháp Hoa Viện Cửu Viễn Tự (身延山妙法華院久遠寺), tượng thờ chính là Thập Giới Mạn Trà La (十界曼荼羅). Đây là di tích quan trọng đánh dấu Nhật Liên (日蓮, Nichiren) đã từng lưu trú kể từ năm thứ 11 (1274) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), và cũng là nơi được biến thành tự viện với ngôi Miếu Đường làm trung tâm sau khi Nhật Liên qua đời vào năm thứ 5 (1282) niên hiệu Hoằng An (弘安). Tên chùa được thấy đầu tiên qua thư tịch ghi năm 1283 là Thân Diên Sơn Cửu Viễn Tự Phiên Trương (身延山久遠寺番帳). Về ngôi Miếu Đường, 6 người cao đệ chân truyền của Nhật Liên cùng với 12 người khác, tổng cọng là 18 người, thay phiên nhau mỗi người 1 tháng canh giữ; nhưng không bao lâu sau thì hủy bỏ quy định này. Vào khoảng năm 1284, 1285, Nhật Hưng (日興) trở thành người thường trú ở đây, và trong khoảng thời gian này có Nhật Hướng (日向) cũng cùng chung sức duy trì và phát triển Thánh địa này. Tuy nhiên, Nhật Hưng lại bất hòa với lãnh chúa Ba Mộc Tỉnh Thật Trường (波木井實長), tín đồ đắc lực từ thời Nhật Liên; cho nên vào năm đầu (1288) niên hiệu Chánh Ứng (正應), ông lui về vùng Phú Sĩ (富士, Fuji), Tuấn Hà (駿河, Suruga). Từ đó trở về sau, Nhật Hướng và môn lưu của ông kế thừa chùa này. Hệ thống của ông được gọi là Dòng Phái Nhật Hướng (日向門流), Dòng Phái Thân Diên (身延門流). Từ đó, Cửu Viễn Tự mở rộng giáo tuyến, và đôi khi chùa mang đậm sắc thái là ngôi tự viện của chính dòng họ Ba Mộc Tỉnh. Trong khoảng thời gian 10 năm từ năm đầu (1466) niên hiệu Văn Chánh (文正) cho đến năm thứ 7 (1475) niên hiệu Văn Minh (文明), Nhật Triêu (日朝), vị Quán Thủ đời thứ 11 của chùa, đã di chuyển ngôi đường vũ cũng như các kiến trúc khác ở Tây Cốc (西谷) đến vị trí hiện tại; đồng thời ông cũng quy định ra những hành sự trong năm, đặt ra cơ quan điều hành các lễ hội hàng tháng và mở rộng giáo hóa. Cửu Viễn Tự thời Trung Đại chủ yếu lấy vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai), Tuấn Hà (駿河, Suruga) làm cứ điểm hoạt động. Tướng Quân Võ Điền Tình Tín (武田晴信, Takeda Harunobu, tức Tín Huyền [信玄, Shingen]) của Giáp Phỉ tiến hành cầu nguyện ở Cửu Viễn Tự cho vận thế của dòng họ Võ Điền (武田, Takeda) được dài lâu; đồng thời bảo chứng cho quyền trú trì của chùa. Bên cạnh đó, trung thần của ông là Huyệt Sơn Tín Quân (穴山信君) cũng dốc toàn lực bảo trợ cho chùa. Sau khi dòng họ Võ Điền qua đời, Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) lên thay thế nắm chính quyền vùng Giáp Phỉ, cũng tiếp tục bảo hộ cho chùa, rồi vào năm thứ 16 niên hiệu (1588) niên hiệu Thiên Chánh (天正), ông quy định miễn trừ các lao dịch cho chùa và bảo chứng quyền trú trì ở đây. Về sau, qua các đời chùa được ban cho như quy định cũ. Đến đầu thời Cận Đại, từ vụ đàn áp Phái Không Nhận Không Cho vốn phát sinh qua cuộc tựu nhiệm trú trì Quán Thủ chùa cho Nhật Càn (日乾), Nhật Viễn (日遠) của Bổn Mãn Tự (本滿寺) ở Tokyo, nơi đây trở thành chủ tọa cho giáo đoàn Nhật Liên trên toàn quốc. Trong bản Pháp Hoa Tông Chư Tự Mục Lục (法華宗諸寺目錄) được hình thành năm thứ 10 (1633) niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永), những chùa con trực thuộc Cửu Viễn Tự có 412 cơ sở; và chùa còn gián tiếp quản lý 1.519 ngôi chùa con khác nữa. Mặt khác, theo sự tăng dần số lượng người đến tham bái từ cuối thời Trung Đại trở đi, những ngôi viện con xuất hiện. Trú trì cũng như tăng chúng của các viện con thì phục vụ trực tiếp cho viện chính, cùng nhau tham gia điều hành chùa; cho nên Cửu Viễn Tự là một phức hợp thể của viện chính và các viện con. Vị trú trì đời thứ 31 của chùa là Nhật Thoát (日脫) cũng như trú trì đời thứ 32 là Nhật Tỉnh (日省) đều được cho phép đắp Tử Y. Vào năm thứ 3 (1706) niên hiệu Bảo Vĩnh (寶永), dưới thời vị trú trì thứ 33 là Nhật Hanh (日亨), từ đó về sau lịch đại chư vị trú trì đều được phép mang Tử Y. Cũng vào thời này, nhờ sự cúng dường của các nhà Đại Danh cũng như hàng cung thất của họ, nhiều kiến trúc đường xá của chùa được tạo dựng; nhưng chùa lại bị mấy lần hỏa tai vào những năm thứ 4 (1821), thứ 7 (1824), thứ 12 (1829) niên hiệu Văn Chính (文政). Trãi qua các niên hiệu Thiên Bảo (天保), Gia Vĩnh (嘉永), già lam lại được phục hưng; song đến năm thứ 8 (1875) thời Minh Trị (明治), chùa lần nữa bị hỏa tai và hơn phần nữa già lam bị cháy rụi. Sau mấy lần trùng tu, hiện tại chùa có một quần thể kiến trúc rộng lớn với rất nhiều ngôi đường xá như Tổng Môn (總門), Tam Môn (三門), Bổn Đường (本堂, Chánh Điện) tôn trí bức Mạn Trà La do chính tay Nhật Liên vẽ; Ngũ Trùng Tháp (五重塔, tháp 5 tầng); Thê Thần Các Tổ Sư Đường (棲神閣祖師堂) an trí tượng Nhật Liên; Thích Ca Điện (釋迦殿); Ngự Chơn Cốt Đường (御眞骨堂) an trí hài cốt của Nhật Liên; Khai Cơ Đường (開基堂) tôn thờ Ba Mộc Tỉnh Thật Trường, v.v.
(東土): có mấy nghĩa. (1) Thời cổ dại, chỉ cho một địa khu hay tiểu quốc nào đó ở phía Đông của đất Thiểm (陝). Như trong Quốc Ngữ (國語), phần Trịnh Ngữ (鄭語), có đoạn: “Hoàn Công vi Tư Đồ, thậm đắc Chu chúng dữ Đông độ chi nhân (桓公為司徒,甚得周眾與東土之人, Hoàn Công làm chức Tư Đồ, rất được lòng dân xứ Chu và người đất Thiểm).” (2) Dưới thời Đông Tấn, Nam Triều, từ này đặc biệt dùng để chỉ cho một dãy Tô Nam (蘇南) và Triết Giang (浙江). Như trong Tấn Thư (晉書), Dữu Dực Truyện (庾翼傳), có đoạn: “Thời Đông Độ đa phú dịch, bách tánh nãi tùng hải đạo nhập Quảng Châu, Sắc Sứ Đặng Nhạc đại khai cổ chú, chư di nhân thử tri tạo binh khí (時東土多賦役、百姓乃從海道入廣州、刺史鄧嶽大開鼓鑄、諸夷因此知造兵器, lúc bấy giờ Đông Độ nhiều sưu thuế và lao dịch, bá tánh bèn từ đường biển vào Quảng Châu, Sắc Sứ Đặng Nhạc bắt đầu đúc khí giới, nhờ đó bọn mọi rợ mới biết chế tạo binh khí).” (3) Tên gọi thời xưa của Trung Quốc, đối với phương Tây mà nói. Như trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 8 có đoạn: “Đông Độ đệ nhất thế Tổ Bồ Đề Đạt Ma tôn giả tự Nam Thiên Trúc lai, cửu nguyệt nhị thập nhất nhật đạt ư Quảng Châu (東土第一世祖菩提達磨尊者自南天竺來、九月二十一日達於廣州, Tổ đời thứ nhất của Trung Hoa là tôn giả Bồ Đề Đạt Ma, từ Nam Thiên Trúc đến, ngày 21 tháng 9 thì đến tại Quảng Châu).” Hay trong Nguyên Tẩu Hành Đoan Thiền Sư Ngữ Lục (元叟行端禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1419) quyển 4, phần Hàng Châu Kính Sơn Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền Tự Ngữ Lục (杭州徑山興聖萬壽禪寺語錄), lại có câu: “Tây Thiên tích nhật Tịnh Danh lão, Đông Độ kim triêu Bàng Uẩn công (西天昔日淨名老、東土今朝龐蘊公, Tây Thiên [Ấn Độ] ngày xửa Tịnh Danh lão, Đông Độ [Trung Hoa] sáng nay Bàng Uẩn ông).” Hoặc trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) quyển 1, phần Trí Tuệ Linh Lung Phạ Ra Đát Đa Như Lai Bảo Huấn (智慧玲瓏嚩囉噠哆如來寶訓), cũng có câu: “Hình cốt tuy tồn Đông Độ, tâm thần dĩ tại Liên Trì (形骸雖存東土、心神已在蓮池, hình cốt tuy còn Đông Độ [Ấn Độ], tâm thần đã ở Liên Trì [Tây phương]).”
(嘉平): nguyên nghĩa là tên gọi của lễ hội vào tháng 12 Âm Lịch, từ đó nó có nghĩa là tháng 12 Âm Lịch. Sự việc này liên qua đến một câu chuyện thần tiên. Tương truyền vào cuối thời nhà Chu (周, 1134-250 ttl) có một người tên Mao Mông (茅濛), tự Sơ Thành (初成); xuất thân Nam Quan (南關), Hàm Dương (咸陽), Thiểm Tây (陝西), là Cao Tổ của Đông Khanh Mao Quân Doanh (東卿茅君盈). Mao Mông tánh tình rất từ bi, lương thiện, ngày thường hay tích đức, làm việc phước thiện, cần kiệm, thanh bần, học rộng nghe nhiều. Biết được vô thường của cuộc đời và kiếp người, ông bái Quỷ Cốc Tử (鬼谷子) làm thầy, học về thuật trường sanh bất tử và tiên đơn bí dược. Sau khi nhà Chu diệt vong, ông vào trong Hoa Sơn (華山), xa lìa trần thế, tĩnh tâm tu đạo luyện đơn; về sau ông cỡi rồng lướt mây bay lên trời thành tiên. Trong đô thành nơi ông thành tiên vẫn còn lưu truyền bài ca dao rằng: “Thần tiên đắc giả Mao Sơ Thành, giá long thượng thăng nhập đại thanh, thời hạ Huyền Châu hí Xích Thành, kế thế nhi vãng tại ngã doanh, đế nhược học chi lạp Gia Bình (神仙得者茅初成、駕龍上升入太清、時下玄洲戲赤城、繼世而徃在我盈、帝若學之臘嘉平, thần tiên đắc đạo Mao Sơ Thành, cỡi rồng bay lên tận trời xanh, bấy giờ Huyền Châu vui Xích Thành, kế nghiệp rồi đến tại chốn ta, vua nên biết tháng Chạp Gia Bình).” Sau này, Tần Thỉ Hoàng (秦始皇, tại vị 246-210 ttl) thích tu tiên cầu đạo, bèn đổi tên gọi tháng Chạp (臘月, lạp nguyệt) thành Gia Bình và lưu truyền cho đến hiện tại. Như trong Sử Ký (史記) quyển 6, phần Tần Thỉ Hoàng Bổn Kỷ (秦始皇本紀) có giải thích rằng: “Tam thập nhất niên thập nhị nguyệt, cánh danh Lạp viết Gia Bình (三十一年十二月、更名臘曰嘉平, vào tháng 12 năm thứ 31 [216 ttl], lại đổi tháng Chạp thành Gia Bình).” Trong Tu Dược Sư Nghi Quỹ Bố Đàn Pháp (修藥師儀軌布壇法, Taishō No. 928) có câu: “Đại Thanh Đạo Quang tuế thứ Giáp Thân Gia Bình nguyệt cát nhật Tịnh Trú Tự (大清道光歲次甲申嘉平月吉日淨住寺, Tịnh Trú Tự, ngày tốt tháng 12 năm Giáp Thân [1824] niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh).”
(s, p: maṇi, 摩尼): còn gọi là Mạt Ni (末尼), ý dịch là châu (珠), bảo châu (寳珠), Ma Ni Châu (摩尼珠), v.v. Ma Ni là tên gọi chung của loại ngọc cũng như đá quý. Trong kinh điển Phật Giáo cũng thỉnh thoảng có đề cập đến từ Ma Ni này để ám chỉ công lực bất khả tư nghì. Trên đỉnh đầu của Long Vương có tàng chứa loại bảo châu này, và Ma Ni cũng được liệt vào một trong 7 loại báu của Chuyển Luân Thánh Vương. Đặc biệt Như Ý Bảo Châu (s: cintā- maṇi, 如意寳珠), âm dịch là Chân Đà Ma Ni (眞陀摩尼), Chấn Đa Ma Ni (振多摩尼、震多摩尼); ý dịch là Như Ý Bảo (如意寶), Như Ý Châu (如意珠), Như Ý Ma Ni (如意摩尼), Ma Ni Bảo Châu (摩尼寳珠), Mạt Ni Bảo (末尼寶), Vô Giá Bảo Châu (無價寶珠); là một loại ngọc có rất nhiều công lực như làm lành ác bệnh, tiêu trừ nọc độc của rắn, làm cho nước đục thành trong, v.v. Bên cạnh đó, Bồ Tát Quan Âm Ngàn Tay thường cầm trên tay phải là Nhật Tinh Ma Ni (日精摩尼, hay còn gọi là Nhật Ma Ni [日摩尼]). Tương truyền rằng nếu người mù cầu nguyện ngọc Ma Ni này thì sẽ được sáng mắt. Tay trái của Bồ Tát là Nguyệt Tinh Ma Ni (月精摩尼, hay Nguyệt Quang Ma Ni [月光摩尼], Minh Nguyệt Ma Ni [明月摩尼], Minh Nguyệt Chân Châu [明月眞珠], Nguyệt Ái Châu [月愛珠]); có thể tiêu trừ sự bức não của con người, làm cho mát mẻ. Trong A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 102 có nêu ra 5 loại Ma Ni như Quang Minh Mạt Ni (光明末尼), Thanh Thủy Mạt Ni (清水末尼), Phương Đẳng Mạt Ni (方等末尼), Vô Giá Mạt Ni (無價末尼), Như Ý Châu (如意珠). Lục Thập Hoa Nghiêm (六十華嚴, Taishō Vol. 9, No. 278) quyển 47 có liệt kê một số ngọc Ma Ni khác như Thanh Lưu Ly Ma Ni (青琉璃摩尼), Dạ Quang Ma Ni (夜光摩尼), Nhật Tạng Ma Ni (日藏摩尼), Nguyệt Tràng Ma Ni (月幢摩尼), Diệu Tạng Ma Ni (妙藏摩尼), Đại Đăng Ma Ni (大燈摩尼), v.v. Tại bảo tháp của Sư Bà Diên Trường, Chùa Trúc Lâm Huế, có câu đối: “Thạch tàng Xá Lợi nan danh tướng, châu hiện Ma Ni trạm sắc không (石藏舍利難名相、珠現摩尼湛色空, đá tàng Xá Lợi đâu danh tướng, ngọc hiện Ma Ni sạch sắc không).”
(s: maṇi, 摩尼): Hán dịch là Bảo Châu (寳珠), Ma Ni Châu (摩尼珠), hay Ma Ni Bảo Châu (摩尼寳珠), v.v. Ma Ni là tên gọi chung của loại ngọc cũng như đá quý. Trong kinh điển Phật Giáo cũng thỉnh thoảng có đề cập đến từ Ma Ni này để ám chỉ công lực bất khả tư nghì. Trên đỉnh đầu của Long Vương có tàng chứa loại bảo châu này, và Ma Ni cũng được liệt vào một trong 7 loại báu của Chuyển Luân Thánh Vương. Đặc biệt Như Ý Bảo Châu (s: cintā-maṇi, 如意寳珠) là một loại ngọc có rất nhiều công lực như làm lành ác bệnh, tiêu trừ nọc độc của rắn, làm cho nước đục thành trong, v.v. Bên cạnh đó, Nhật Tinh Ma Ni (日精摩尼, hay còn gọi là Nhật Ma Ni) là vật mà Bồ Tát Quan Âm Ngàn Tay thường cầm trên tay, và tương truyền rằng nếu người mù cầu nguyện thì sẽ được sáng mắt.
(日叡, Nichiei, 1334-1397): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng thời đại Nam Bắc Triều; húy Nhật Duệ (日叡), hiệu là Lăng Nghiêm Phòng (楞嚴房), Diệu Pháp Phòng (妙法房). Ông từng che giấu thân phận của mình để đến tham bái mộ phần của cha, người trước kia đối kháng với Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji), rồi bị ông này giết chết; và sau đó, ông đến vùng Liêm Thương, theo làm đệ tử của Nhật Tĩnh (日靜) ở Bổn Quốc Tự (本國寺). Sau khi Bổn Quốc Tự được dời về kinh đô Kyoto, ông ở lại Liêm Thương, rồi xây dựng nên Diệu Pháp Tự (妙法寺) trên nền đất cũ của Bổn Quốc Tự, và suốt đời chuyên tâm cầu nguyện cho thân phụ được siêu độ.
(沃焦[礁]): tên gọi một tảng đá rất to lớn hút nước mà trong Cựu Hoa Nghiêm Kinh (舊華嚴經) quyển 59 có đề cập đến, do vì nó to lớn như núi nên được gọi là Ốc Tiêu Sơn (沃焦山). Dưới núi này có hỏa khí của A Tỳ Địa Ngục (s: Avīci-naraka, 阿鼻地獄) bốc lên ngùn ngụt cho nên nó thường nóng bức. Như trong Kim Cang Tam Muội Bản Tánh Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt Kinh (金剛三昧本性清淨不壞不滅經) có đoạn rằng: “Như A Nậu đại trì xuất tứ đại hà, thử tứ đại hà phân vi bát hà, cập Diêm Phù Đề nhất thiết chúng lưu giai quy đại hải; dĩ Ốc Tiêu Sơn cố, đại hải bất tăng, dĩ Kim Cang Luân cố, đại hải bất giảm (如阿耨大池出四大河、此四大河分爲八河、及閻浮提一切眾流皆歸大海、以沃焦山故、大海不增、以金剛輪故、大海不減, như hồ lớn A Nậu phân thành bốn con sông lớn, bốn sông lớn này lại chia thành tám sông, chúng cùng với tất cả các sông cõi Diêm Phù Đề đều đỗ về biển lớn; vì núi Ốc Tiêu này mà biển lớn không tăng; và nhờ có vòng Kim Cang mà biển lớn không giảm)”. Ngoài ra, còn có biển Ốc Tiêu, là nơi chúng sanh thọ khổ. Bên cạnh đó, trong kinh điển Phật Giáo thường dùng từ Ốc Tiêu để ví cho dục tình vô cùng vô tận của kẻ phàm phu ngu muội, cũng như sự nóng bức của viên đá này, khổ đau không có ngôn từ nào diễn đạt được. Đạo Giáo giải thích rõ về truyền thuyết, xuất xứ của núi Ốc Tiêu có phần hơi khác. Trong Cẩm Tú Vạn Hoa Cốc (錦繡萬花谷) có đoạn rằng: “Ốc Tiêu tại bích hải chi đông, hữu thạch khoát tứ vạn lí, hậu tứ vạn lý, cư bách xuyên chi hạ, cố hựu danh Vĩ Lư; Sơn Hải Kinh Nghiêu thời, thập nhật tinh xuất, Nghiêu sử Nghệ xạ cửu nhật, lạc vi Ốc Tiêu (沃焦在碧海之東、有石闊四萬里、厚四萬里、居百川之下、故又名尾閭、《山海經》堯時、十日並出、堯使羿射九日、落為沃焦, Núi Ốc Tiêu ở phía Đông biển xanh, có khối đá rộng bốn vạn dặm, dày bốn vạn dặm, nằm dưới trăm con sông, nên có tên là Vĩ Lư; Sơn Hải Kinh cho rằng dưới thời nhà Nghiêu, có mười mặt trời cùng xuất hiện, vua Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn chín mặt trời, rơi xuống thành núi Ốc Tiêu).” Bên cạnh đó, Hoài Nam Tử (淮南子) còn cho biết thêm rằng: “Nghiêu nãi mạng Nghệ xạ thập nhật, trung kỳ cửu nhật, nhật trúng ô tận tử (堯乃令羿射十日、中其九日、日中烏盡死, Vua Nghiêu bèn ra lệnh cho Hậu Nghệ bắn mười mặt trời, trong chín mặt trời đều bị trúng tên chết hết)”. Sau này mười mặt trời bị Hậu Nghệ (后羿) bắn được giải thích là Thang Quốc (湯國, xứ sở nước nóng); tương truyền 9 mặt trời bị bắn rơi trôi nỗi về phía Nhật Bản, cho nên tại Quận A Tô (阿蘇郡, Aso-gun), Huyện Hùng Bổn (熊本縣, Kumamoto-ken), Cửu Châu (九州, Kyūshū), Nhật Bản có thành lập “Thang Cốc Thiên Quốc (湯谷天國, Thiên Quốc Hang Nước Nóng)”. Người Trung Quốc thường gọi Nhật Bản là “Ốc Tiêu” hay “Vĩ Lư (尾閭)”. Tại ngôi điện phía nam của Cực Lạc Tự (極樂寺), vùng Cáp Nhĩ Tân (哈爾濱), Hắc Long Giang (黑龍江), Trung Quốc có thờ hai vị U Minh Giáo Chủ (幽明敎主) và Địa Tạng Vương Bồ Tát (地藏王菩薩); kinh văn có ghi rằng: “Tống Đế Vương cai quản đáy biển lớn, dưới núi Ốc Tiêu phía đông nam, Hắc Thằng Đại Địa Ngục; người sống trên dương thế, nếu người nào không biết ơn quốc gia, thê thiếp phụ tình ân ái của chồng, thọ nhận ân huệ cũng như tài sản của người khác, bản thân phạm tội mà không gắng sức cải tạo; sau khi chết rồi xuống cõi âm, đều do Tống Đế Vương quản lý.”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập