Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan
Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ngôn niệm »»
(隱し念佛, Kakushinembutsu): tên gọi một loại tín ngưỡng dân gian rất thịnh hành ở Đông bộ địa phương Đông Bắc, trung lâm là Iwate-ken (岩手縣). Mặc dầu tín ngưỡng này được tiến hành trùng lặp với Pháp Môn Bí Sự của Chơn Tông, nhưng về thể chất của nó thì thuộc hệ thống của Chơn Ngôn niệm Phật, khác biệt với pháp môn trung tên của Chơn Tông. Chính Liễu Điền Quốc Nam (柳田國男, Yanagita Kunio) cũng như Tá Tá Mộc Hỷ Thiện (佐佐木喜善, Sasaki Kizen) đã khẳng định rõ rằng tín ngưỡng Niệm Phật Che Giấu ở địa phương Đông Bắc này thuộc hệ Chơn Ngôn; nhưng Cao Kiều Phạn Tiên (高橋梵仙, Takahashi Bonsen) đã tiến hành điều tra, báo cáo rõ ràng về nguồn gốc và thực trạng của loại tín ngưỡng này, và chứng minh cho chúng ta thấy rõ rằng nó khác với Pháp Môn Bí Sự. Theo điều tra nghiên cứu của Cao Kiều, trong các kinh điển được dùng làm truyền thừa áo nghĩa, có bản Ngũ Luân Cửu Tự Minh Bí Mật Thích (五輪九字明秘密釋) của Giác Noan (覺鑁); có việc các phái tương truyền các tượng của Hoằng Pháp Đại Sư (弘法大師), Hưng Giáo Đại Sư (興敎大師), Thân Loan Thánh Nhân (親鸞聖人); hay có nghi thức nhập môn gọi là “đan kết các ngón tay (指を組む, yubi wo kumu)”, có nghĩa là bắt ấn quyết; cho nên, đó là bản chất của Chơn Ngôn, là hình thức niệm Phật theo kiểu Chơn Ngôn. Nguyên lưu của tín ngưỡng Niệm Phật Che Giấu ở địa phương Đông Bắc này vốn phát xuất từ sự việc vào năm 1753 (Bảo Lịch [寶曆] 3) một nhóm 4 người lên kinh đô Kyoto, được Ngũ Binh Vệ Thiện Hưu (五兵衛善休), người đang tá túc tại Xương Tạng Viện (昌藏院) của Phật Quang Tự (佛光寺) của Chơn Tông, truyền trao cho pháp môn này; nên họ quay trở về và bắt đầu truyền bá; nhưng bị chính quyền của Phiên bắt giữ, xem như là tà pháp và bị xử hình kéo phanh thây vào ngày 25 tháng 5 năm 1754. Hệ thống của Ngũ Binh Vệ dần dần phân phái và phát triển qua các thời Minh Trị (明治, Meiji, 1868-1911), Đại Chánh (大正, Taishō, 1912-1926), Chiêu Hòa (昭和, Shōwa, 1926-1989). Mặt khác, phân phái của Pháp Môn Bí Sự (Thân Loan, Thiện Loan, Như Tín) thuộc hệ thống của Thường Thoại Tự (常瑞寺) ở Đại Cương (大綱, Ōzuna), Bạch Hà (白河, Shirakawa, thuộc Fukushima-ken [福島縣]), cũng rất phổ biến ở địa phương này. Nghi thức của tín ngưỡng Niệm Phật Che Giấu cũng giống như Pháp Môn Bí Sự, được tiến hành trong bóng tối với vài ngọn đèn leo lét, theo sự hướng dẫn của vị thiện tri thức thế tục, được người phụ tá trợ giúp, nhất tâm niệm Phật, xướng to rằng “cứu tôi với (助けたまえ, tasuketamae)” và vị thiện tri thức cho biết rằng khi đạt đến trạng thái gọi là phóng tâm (放心) thì quyết định vãng sanh. Người nào mới vào đạo thì phải giữ bí mật tín ngưỡng này. Khi vào đạo cũng có trường hợp người tuổi thành nhân (20 trở lên); nhưng tại địa phương này, trường hợp các em nhỏ trước khi vào tiểu học lại rất nhiều. Trong các thôn xóm, 9/10 là tín đồ của pháp môn này và ngay như trong cuộc sống thường nhật của họ cũng được các thiện tri thức giúp đỡ. Cho nên, tín ngưỡng này hoàn toàn khác với Pháp Môn Bí Sự của Chơn Tông.
(增賀, Zōga, 917-1003): vị Tăng của Thiên Thai Tông, sống vào khoảng giữa thời Bình An, húy là Tăng Hạ (增賀), thường được gọi là Đa Võ Phong Tiên Đức (多武峰先德), xuất thân vùng Kyoto; con của Tham Nghị Quất Hằng Bình (參議橘恆平). Năm 10 tuổi, ông lên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), theo hầu Lương Nguyên (良源). Năm 963, theo lời khuyên của Như Giác (如覺), ông đến sống trong núi Đa Võ Phong (多武峰) thuộc vùng Đại Hòa (大和, Yamato). Mỗi năm bốn mùa ông đều chuyên tu Pháp Hoa Tam Muội (法華三昧), đến năm 964 thì giảng Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀), rồi năm sau thì giảng Pháp Hoa Văn Cú (法華文句). Vào năm 996, nhân mùa kiết hạ An Cư, ông đọc tụng Pháp Hoa Kinh và cảm ứng được Quan Âm cũng như Văn Thù Bồ Tát, rồi sống mãi trong núi ấy suốt 41 năm trường. Tác phẩm của ông để lại có Du Già Sư Địa Luận Vấn Đáp (瑜伽師地論問答) 7 quyển, Vô Ngôn niệm Phật Quán (無言念佛觀) 1 quyển, Pháp Hoa Huyền Nghĩa Sao (法華玄義鈔). Hơn nữa, theo như trong Bản Triều Pháp Hoa Nghiệm Ký (本朝法華驗記) có ghi về việc ông đã tu trì Pháp Hoa Kinh và khi lâm chung thì thể hiện dưới hình thức như sau: “Tụng Pháp Hoa Kinh thủ kết Kim Cang Ấn tọa Thiền cư nhập diệt (誦法華經手結金剛印坐禪居入滅, ông vừa tụng Kinh Pháp Hoa, tay bắt Ấn Kim Cang, ở thế tọa Thiền mà nhập diệt).” Như vậy theo nhận xét trên của tác giả Ngu Quản Sao (愚管抄, Gukanshō), ta có thể suy đoán được rằng hình thái khi lâm chung của Pháp Nhiên (法然) không giống với Tăng Hạ Thượng Nhân. Có nghĩa rằng khi Pháp Nhiên thị tịch, có lẽ ông đã bắt Ấn Kim Cang và tọa Thiền. Và hình thức khi Pháp Nhiên thị tịch như thế nào thì tác giả cũng không ghi rõ chi tiết.
(重源, Chōgen, 1121-1206): hiệu là Tuấn Thừa Phòng (俊乘房) và Nam Mô A Di Đà Phật (南無阿彌陀佛). Ban đầu ông vốn là võ sĩ, sau đó xuất gia, học Chơn Ngôn Mật Giáo ở Đề Hộ Tự (醍醐寺, Daigo-ji) và thực hành pháp môn Chơn Ngôn niệm Phật. Kể từ sau năm 1181 khi được bổ nhiệm làm chức Khuyến Tấn của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), ông theo những vị khuyến tấn này đi khắp các nơi và chuyên tâm bố giáo khuyên nhủ mọi người kết duyên xây dựng trùng tu ngôi đại già lam này. Với kết quả đó, vào năm 1185 thì lễ cúng dường khai nhãn tượng Đại Phật của chùa được tiến hành và đến năm 1195 thì ngôi chùa này được hoàn thành viên mãn. Tác phẩm tự ghi của ông Nam Mô A Di Đà Phật Tác Thiện Tập (南無阿彌陀佛作善集) là di văn để lại có liên quan đến sự nghiệp xây dựng chùa này.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập