Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Tễ »»
(s: Akṣhobhya-buddha, t: Saṅs-rgyas mi-ḥkhrugs-pa, 阿閦佛): gọi tắt là A Súc (阿閦), còn gọi là A Súc Tì Phật (阿閦鞞佛), A Sô Tì Da Phật (阿芻鞞耶佛), Ác Khất Sô Tỳ Dã Phật (噁乞蒭毘也佛); ý dịch là Bất Động Phật (不動佛), Vô Động Phật (無動佛), hay Vô Nộ Phật (無怒佛), Vô Sân Nhuế Phật (無瞋恚佛); là tên gọi của một trong 5 vị Phật ở 5 phương khác nhau; vị này thường ngự ở phương Đông. Theo Phẩm Phát Ý Thọ Tuệ (發意受慧) và Thiện Khoái (善快) của A Súc Phật Quốc Kinh (阿閦佛國經, Taishō Vol. 11, No. 313) quyển Thượng, vào thời quá khứ cách hơn Phật quốc độ về phương Đông có thế giới tên gọi là A Tỷ La Đề (s: Abhirati, 阿比羅提), đức Đại Mục Như Lai (大目如來) xuất hiện trong thế giới ấy, vì các Bồ Tát thuyết về hạnh Lục Độ Vô Cực (六度無極). Khi ấy có một vị Bồ Tát nhân khi nghe pháp bèn phát tâm vô thượng chánh chân; đức Đại Mục Như Lai thấy vậy rất hoan hỷ nên ban cho hiệu là A Súc. Bồ Tát A Súc thành Phật ở thế giới A Tỷ La Đề, cho đến hiện tại vẫn còn đang thuyết pháp tại quốc độ của Ngài. Hơn nữa, lại căn cứ vào Phẩm Hóa Thành Dụ (化城喩品) của Pháp Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經, Taishō Vol. 9, No. 262) cho hay rằng khi chưa xuất gia, đức Đại Thông Trí Thắng Phật (大通智勝佛) có 16 vương tử, về sau tất cả đều xuất gia làm Sa Di; trong đó người con thứ nhất tên Trí Tích (智積), tức là A Súc, thành Phật tại nước Hoan Hỷ ở phương Đông. Bi Hoa Kinh (s: Karuṇā-puṇḍarīka-sūtra, 悲華經, Taishō Vol. 3, No. 157) quyển 4 có ghi rằng đức A Di Đà Phật (s: Amitāyus, Amitābha, 阿彌陀佛) trong thời quá khứ khi làm vua Vô Tránh Niệm (無諍念), có cả ngàn người con, trong đó người con thứ 9 tên Mật Tô (蜜蘇), tức là A Súc, thành Phật ở phương Đông, cõi nước tên là Diệu Lạc (妙樂). Mật Giáo xem A Súc Phật này là một trong 5 vị Phật của Kim Cang Giới (金剛界), tượng trưng cho Đại Viên Cảnh Trí (大圓境智), hay Kim Cang Trí (金剛智). Ngài ngự ở trung ương chánh Đông Nguyệt Luân trong Ngũ Giải Thoát Luân (五解脫輪), phía trước là Kim Cang Tát Đỏa (金剛薩埵), bên phải là Kim Cang Vương Bồ Tát (金剛王菩薩), bên trái là Kim Cang Ái Bồ Tát (金剛愛菩薩), phía sau là Kim Cang Hỷ Bồ Tát (金剛喜菩薩). Hình tượng của Ngài màu vàng kim, tay trái bắt ấn để trên bắp vế, tay phải buông xuống chạm đất, nên được gọi là A Súc Xúc Địa ấn (阿閦觸地印). Mật hiệu của Ngài là Bất Động Kim Cang (不動金剛); chủng tử là hūṃ. Chơn ngôn là “án ác khất sô tỳ dã hồng (唵噁乞蒭毘也吽).” Thân Ngài màu xanh, như trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) có đoạn rằng: “Phụng thỉnh Đông phương A Súc Phật, kỳ thân thanh sắc phóng quang minh, thủ ấn chấp trì Hàng Ma Chử, chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ (奉請東方阿閦佛、其身青色放光明、手印執持降魔杵、眾等志心歸命禮, cung thỉnh Đông phương A Súc Phật, thân Ngài sắc xanh phóng hào quang, tay ấn cầm giữ Chày Hàng Ma, chúng con chí tâm cung kính lễ).” Trong Diệu Cát Tường Bình Đẳng Bí Mật Tối Thượng Quán Môn Đại Giáo Vương Kinh (妙吉祥平等祕密最上觀門大敎王經, Taishō Vol. 20, No. 1192) quyển 4 lại dạy thêm rằng: “Cầu trường thọ thư A Súc Phật Chủng Trí tự (求長壽書阿閦佛種智字, nếu cầu sống lâu thì viết chữ Chủng Trí của A Súc Phật).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ (金剛頂瑜伽三十七尊禮, Taishō Vol. 18, No. 879) có đảnh lễ danh hiệu của Ngài: “Nam Mộ Kim Cang Kiên Cố Tự Tánh Thân A Súc Phật (南慕金剛堅固自性身阿閦佛, Kính Lễ Phật A Súc Thân Tự Tánh Kiên Cố Như Kim Cang).”
(月明, Gatsumyō, 1386-1440): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa thời đại Thất Đinh; húy là Nguyệt Chu (月周), Nguyệt Minh (月明), tự là Cụ Giác (具覺). Năm 1403, ông xuất gia thọ giới với Nhật Tể (日霽) ở Diệu Bổn Tự (妙本寺); rồi đến năm 1405 thì làm trú trì đời thứ 5 của chùa, và năm 1413 thì được phong chức Tăng Chánh. Ông chủ trương giáo nghĩa Bổn Tích Nhất Trí, rồi cọng thêm việc chúng môn đồ phê phán ông trong việc kết thân với hàng công khanh để tạo thêm thế lực cho chùa, và đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho sau này môn lưu của Nhật Long (日隆) bị phân phái. Hơn nữa, môn đồ của Tỷ Duệ Sơn cũng phản bác về việc ông được thăng chức Tăng Chánh, nên các đường tháp của chùa đã bị tàn phá tan tành. Trước tác của ông có Hộ Quốc Lợi Sanh Luận (護國利生論) 1 quyển, Chánh Tượng Mạt Tam Thời Chi Hành Tướng (正像末法之行相) 1 quyển, Tái Hưng Diệu Bổn Tự Đại Chúng Trung Thư (再興妙本寺大眾中書) 1 quyển.
(日隆, Nichiryū, 1385-1464): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng thời đại Thất Đinh, vị Tổ khai sơn của Bổn Hưng Tự (本興寺) và Bổn Năng Tự (本能寺), vị Tổ đời thứ 7 của Diệu Liên Tự (妙蓮寺), vị Tổ của Phái Bát Phẩm (八品派, tức Dòng Bổn Môn Pháp Hoa Tông [法華宗本門流]); húy là Nhật Long (日隆), Nhật Lập (日立); tự là Thâm Viên (深圓), hiệu Tinh Tấn Viện (精進院), Quế Lâm Phòng (桂林房); xuất thân vùng Việt Trung (越中, Ecchū, thuộc Toyama-ken [富山縣]). Ông xuất gia ở Viễn Thành Tự (遠成寺) vùng Việt Trung, rồi theo hầu Nhật Tễ (日霽) ở Diệu Bổn Tự (妙本寺, tức Diệu Hiển Tự [妙顯寺]) ở kinh đô Kyoto. Sau khi Nhật Tễ qua đời, ông đối lập với Nguyệt Minh (月明), người kế thừa ngôi chùa này; rồi ông cùng với bác là Nhật Tồn (日存) rời khỏi chùa, chuyển đến sống ở Tượng Sư Đường (像師堂, tức Diệu Liên Tự). Ông đã từng kiến lập các chùa như Bổn Hưng Tự ở vùng Nhiếp Tân (攝津), Bổn Ứng Tự (本應寺, tức Bổn Năng Tự) ở kinh đô, v.v., và mở riêng một dòng phái khác. Trước tác của ông có rất nhiều như Tứ Thiếp Sao (四帖抄) 4 quyển, Bổn Môn Hoằng Kinh Sao (本門弘經抄) 113 quyển, Ngự Thư Văn Đoạn Tập (御書文段集) 5 quyển, Thập Tam Vấn Đáp Sao (十三問答抄) 2 quyển, Khai Tích Hiển Bổn Tông Yếu Tập (開迹顯本宗要集) 66 quyển, Tam Đại Bộ Lược Đại Ý (三大部略大意) 17 quyển, v.v.
(日存, Nichizon, 1369-1421): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa thời đại Thất Đinh, vị Tổ đời thứ 5 của Diệu Liên Tự (妙蓮寺); húy là Nhật Tồn (日存), Nhật Soạn (日選), hiệu là Tinh Tấn Viện (精進院), Hảo Học Viện (好學院). Ông cùng với người bác của Nhật Long (日隆), em trai ông là Nhật Thuần (日純) theo xuất gia tu học với Nhật Tể (日霽) ở Diệu Bổn Tự (妙本寺). Sau khi thầy qua đời, ông phê phán giáo nghĩa của vị trú trì đời thứ 7 của chùa là Nguyệt Minh (月明), và rời khỏi chùa này. Ông chuyên nghiên cứu về giáo nghĩa Bổn Tích Thắng Liệt, có chí muốn phục hưng giáo nghĩa của Nhật Tượng (日像), và nổ lực tái hưng Diệu Liên Tự ở kinh đô Kyoto. Trước tác của ông có Khởi Thỉnh Văn (起請文) 1 quyển.
(島原の亂, Shimabara-no-ran): còn gọi là Đảo Nguyên-Thiên Thảo Nhất Quỹ (島原・天草一揆, Shimabara-Amakusa-ikki), Loạn Đảo Nguyên-Thiên Thảo (島原・天草の亂, Shimabara-Amakusa-no-ran); là cuộc phản loạn nhất tề nổi dậy của Thiên Chúa Giáo có quy mô lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, xảy ra vào đầu thời Giang Hộ, và cuối cùng trở thành cuộc nội chiến hùng vĩ. Vụ loạn này bắt đầu bộc phát vào ngày 11 tháng 12 năm 1637 (Khoan Vĩnh [寛永] 14) và chấm dứt vào ngày 12 tháng 4 1638 (Khoan Vĩnh 15). Cụ thể là tầng lớp nông dân của Bán Đảo Đảo Nguyên (島原, Shimabara), Phì Tiền (肥前, Hizen) thuộc Phiên Đảo Nguyên (島原藩, Shimabara-han) do Tùng Thương Thắng Gia (松倉勝家, Matsukura Katsuie) quản lãnh, và quần đảo Thiên Thảo (天草, Amakusa), Phì Hậu (肥後, Higo) thuộc Phiên Đường Tân (唐津藩, Karatsu-han) do Tự Trạch Kiên Cao (寺澤堅高, Terazawa Katataka) quản lãnh, nổi dậy phản loạn do vì đối xử ngược đãi với bá tánh, thuế cống nạp hằng năm quá cao làm họ không đảm đương nỗi, kèm theo sự đàn áp Thiên Chúa Giáo, và cuộc sống người dân bị lâm vào cảnh nghèo cùng, đói khát. Đương thời tín đồ Thiên Chúa Giáo rất đông, Ích Điền Thứ Lang Thời Trinh (益田次郎時貞, Masuda Shirō Tokisada, tức Thiên Thảo Tứ Lang [天草四郎, Amakusa Shirō]) làm thủ lãnh cùng với giáo đồ của ông hơn 2 vạn người xông đến chiếm cứ thành. Chính Bảng Thương Trùng Xương (板倉重昌, Itakura Shigemasa), người được chính quyền Mạc Phủ phái làm đặc sứ đến tấn công thành, cuối cùng cũng bị chết trong trận chiến. tiếp theo vị quan Lão Trung là Tùng Bình Tín Cương (松平信綱, Matsudaira Nobutsuna) chỉ huy các Đại Danh ở vùng Cửu Châu (九州, Kyūshū) tiến đánh mới giải phóng được thành.
(熱原の法難, Atsuhara-no-Hōnan): còn gọi là Pháp Nạn Gia Đảo (加島法難), vụ đàn áp môn đồ Nhật Liên Tông vào năm 1279 tại địa phương Nhiệt Nguyên (熱原, Atsuhara, thuộc Fuji-shi [富士市], Shizuoka-ken [靜岡縣]) thuộc tiểu quốc Tuấn Hà (駿河, Suruga). Trước đó, Nhật Hưng (日興), đệ tử của Nhật Liên, lấy Tứ Thập Cửu Viện (四十九院) ở Bồ Nguyên (蒲原, Kanbara) làm cứ điểm để truyền bá giáo lý của thầy ở khu vực Quận Phú Sĩ (富士郡, Fuji-gun), rồi thâu nhận nhóm Nhật Tú (日秀), Nhật Biện (日辨) ở Lang Tuyền Tự (瀧泉寺) làm đệ tử. Từ đó, nhóm này cũng truyền bá giáo lý của Nhật Liên đến tầng lớp nông dân ở địa phương này. Tuy nhiên, vì Hành Trí (行智), viện chủ của Lang Tuyền Tự, là người thuộc Tịnh Độ Tông, có quyền lực rất lớn trong vùng; nên ông có dự định muốn ức chế hoạt động của nhóm Nhật Tú và nông dân. Chuyện này đã sớm xảy ra, nông dân bị thương hại rất nhiều, rồi năm ấy nhân vụ cắt cỏ mà ông kiện lên chính quyền Liêm Thương về việc nhóm Nhật Tú phỉ báng các tông phái khác và cắt cỏ ruộng bừa bãi; cho nên 20 người nông dân bị bắt giam ở Liêm Thương. Lúc bấy giờ, Nhật Liên thay thế cho nhóm đệ tử Nhật Tú, viết bản trạng văn trần tình. Khi điều tra lấy khẩu cung, quan điều tra bắt mấy người nông dân niệm Phật; nhưng thay vào đó, họ lại xướng cao đề mục Kinh Pháp Hoa. Với kết quả đó, 3 người bị xử trảm, còn lại thì bị giam trong lồng tre. Nhân sự việc này, Nhật Liên kêu gọi toàn thể môn đồ của ông nhất tề đứng lên phản đối. Theo chỉ thị của Nhật Liên, nhóm Nhật Tú, Nhật Biện đến lánh nạn trong nhà tín đồ ở Hạ Tổng (下總, Shimōsa); và người bị hại chính là nông dân.
(s: śarīra, p: sarīra, 舍利): âm dịch là Thật Lợi (實利), Thiết Lợi La (設利羅), Thất Lợi La (室利羅); ý dịch là tử thi (死屍), di cốt (遺骨), xác chết, thân, thể, thân cốt (身骨), di thân (遺身). Thông thường, từ này được dùng để chỉ cho di cốt của đức Phật, nên có tên là Phật cốt (佛骨), Phật Xá Lợi (佛舍利); về sau chỉ cho phần xương cốt lưu lại sau khi hỏa thiêu của chư vị cao tăng. Bảo tháp nơi được an trí Xá Lợi Phật được gọi là Xá Lợi Tháp (舍利塔), bình có an trí Xá Lợi thì gọi là Xá Lợi Bình (舍利瓶), hay pháp hội cúng dường Xá Lợi Phật thì có tên là Xá Lợi Hội (舍利會). Như trong Hợp Bộ Kim Quang Minh Kinh (合部金光明經, Taishō Vol. 16, No. 664) quyển 8 định nghĩa rằng: “Thử Xá Lợi giả, thị Giới Định Tuệ chi sở huân tu, thậm nan khả đắc, tối thượng phước điền (此舍利者、是戒定慧之所熏修、甚難可得、最上福田, Xá Lợi này được huân tu bởi Giới Định Tuệ, thật khó có được, là ruộng phước tối thượng).” Dục Phật Công Đức Kinh (浴佛功德經, Taishō Vol. 16, No. 698) chia Xá Lợi làm 2 loại: (1) Sanh Thân Xá Lợi (生身舍利), tức di cốt của đức Phật; (2) Pháp Thân Xá Lợi (法身舍利), hay Pháp Tụng Xá Lợi (法頌舍利), là giáo pháp, giới luật của Ngài để lại và lấy Xá Lợi để ví dụ. Trong khi đó, Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 40 lại phân Xá Lợi làm 3 loại: (1) Cốt Xá Lợi (骨舍利, Xá Lợi xương), có màu trắng; (2) Phát Xá Lợi (髮舍利, Xá Lợi răng), màu đen; (3) Nhục Xá Lợi (肉舍利, Xá Lợi thịt), màu đỏ. Xá Lợi nói chung chủ yếu là mảnh xương, có hình trạng lớn nhỏ bất đồng, cứng chắc, nhỏ vụn, thường như hạt đậu. Theo kinh điển cho biết rằng Xá Lợi đức Phật được chia làm 3 phần cho chư Thiên, Long Vương và con người. Trong đó, tương truyền Trời Đế Thích (s: Indra, p: Inda, 帝釋天) thì nhận Xá Lợi răng, đem về Trời cúng dường, nhưng bị quỷ chạy nhanh đoạt mất một miếng. Ngoài việc lễ bái Xá Lợi đức Phật, còn có truyền thống lễ bái Xá Lợi của các tôn giả A Nan (s, p: Ānanda, 阿難), Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna, 目犍連), Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), v.v. Bên cạnh đó, lễ bái các Thánh địa như nơi đức Phật đản sanh, gốc cây Bồ Đề nơi Ngài Thành Đạo, tòa báu Kim Cang, nơi Ngài từng đi kinh hành, v.v., đều có ý nghĩa tạo nhân duyên gọi là “gặp Phật nghe pháp” để sớm thành đạo quả. Về sự kiện sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, 8 quốc gia phân phối Xá Lợi của Ngài như thế nào, các kinh điển ghi lại rất rõ. Theo Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Vol. 1, No. 1) quyển 4, Du Hành Kinh (遊行經) thứ 2, lúc bấy giờ dân chúng Mạt La (p: Malla, 末羅) của nước Ba Bà (p: Pāvā, 波婆) muốn có được Xá Lợi để dựng tháp cúng dường ngay tại xứ sở mình, bèn chuẩn bị 4 loại binh lính đến thành Câu Thi Na (s: Kuśinagara, p: Kusinagara, 拘尸那), sai sứ giả cầu xin phân chia Xá Lợi. Thế nhưng, quốc vương nước này lại bảo rằng đức Phật diệt độ tại nước ông, nên dân chúng trong nước có thể tự lo liệu cúng dường và từ chối không chia Xá Lợi. Đồng thời, dân chúng Bạt Ly (p: Buli, 跋離) của nước Già La Phả (p: Allakappa, 遮羅頗), dân chúng Câu Lợi (p: Koḷiya, 拘利) của nước La Ma Già (p: Rāmagāma, 羅摩伽), chúng Bà La Môn của nước Tỳ Lưu Đề (p: Veṭhadīpa, 毘留提), dân chúng dòng họ Thích Ca (p: Sakya, 釋迦) của nước Ca Tỳ La Vệ (p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛), dân chúng Ly Xa (p: Licchavī, 離車) của nước Tỳ Xá Ly (p: Vesālī, 毘舍離), vua A Xà Thế (p: Ajātasattu, 阿闍世) của nước Ma Kiệt Đà (p: Magadha, 摩掲陀); mỗi đoàn đều chuẩn bị 4 loại binh lính, tiến qua sông Hằng. Trong khi đó, Bà La Môn Hương Tánh (香姓) cũng xin chia Xá Lợi, nhưng bị từ chối. Các nước nhất tề muốn dùng sức mạnh của binh khí, đao gậy để tranh giành; song Bà La Môn Hương Tánh ngăn cản, khuyên họ không nên làm như vậy; bèn phân chia Xá Lợi cho 8 quốc gia. Các nước nhận được Xá Lợi xong, trở về bôn quốc, dựng tháp cúng dường. Trong Ngụy Thư (魏書), phần Thích Lão Chí (釋老志), có đoạn: “Phật ký tạ thế, hương mộc phần thi, linh cốt phân toái, đại tiểu như lạp, kích chi bất hoại, phần diệt bất tiêu, hoặc hữu quang minh thần nghiệm, Hồ ngôn vị chi Xá Lợi, đệ tử thâu phụng, trí chi bảo bình, kiệt hương hoa, trí kính mộ, kiến cung vũ, vị chi tháp (佛旣謝世、香木焚屍、靈骨分碎、大小如粒、擊之不壞、焚亦不燋、或有光明神驗、胡言謂之舍利、弟子收奉、置之寶瓶、竭香花、致敬慕、建宮宇、謂爲塔, đức Phật đã qua đời, lấy gỗ thơm đốt thi hài, linh cốt chia nhỏ ra, lớn nhỏ như hạt gạo, đập vào không vỡ, đem đốt không cháy, hoặc có ánh sáng linh nghiệm, người Hồ [Tàu] gọi đó là Xá Lợi, đệ tử thu gom thờ phụng, đặt vào trong bình báu, dốc hết hương hoa [cúng dường], tận tâm kính mộ, kiến lập cung điện nhà cửa, gọi đó là tháp).” Hay trong tác phẩm Cổ Kim Tiểu Thuyết (古今小說, tức Dụ Thế Minh Ngôn [喻世明言]) quyển 30, phần Minh Ngộ Thiền Sư Cản Ngũ Giới (明悟禪師趕五戒), của Bằng Mộng Long (馮夢龍, 1574-1646) nhà Thanh, lại có đoạn: “Tụng xong, Trà Tỳ chi thứ, kiến hỏa trung nhất đạo thanh yên, trực thấu vân đoan, yên trung hiển xuất Viên Trạch toàn thân bổn tướng, hiệp chưởng hướng không nhi khứ; thiểu yên, Xá Lợi như vũ, chúng tăng thâu cốt nhập tháp (頌畢、茶毗之次、見火中一道青煙、直透雲端、煙中顯出圓澤全身本相、合掌向空而去、少焉、舍利如雨、眾僧收骨入塔, sau khi đọc bài tụng xong, khi làm lễ Trà Tỳ [hỏa thiêu], thấy trong lửa có một làn khói xanh, xuyên thẳng lên tầng mây, trong làn khói ấy hiện rõ toàn thân hình tướng của Thiền Sư Viên Trạch, chấp tay hướng không trung mà đi; lát sau, Xá Lợi như mưa, chúng tăng thu gom cốt nhập tháp).” Hoặc trong Tục Truyền Đăng Lục (續傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2077) quyển 36, phần Tịnh Từ Trọng Dĩnh Thiền Sư Pháp Từ (淨慈仲穎禪師法嗣), Ôn Châu Giang Tâm Nhất Sơn Thiền Sư (溫州江心一山禪師), cũng có đoạn rằng: “Hoàng Khánh nguyên niên thập nhất nguyệt nhị thập lục nhật, cấu tật nguy toạn bất cận dược; duyệt thất nhật, mạng cụ dục cánh y, xuất cứ thất kỷ, thư quyết chúng ngữ tọa thệ; Xà Duy thâu ngũ sắc Xá Lợi như thục, bất khả kế, song mục tình bất tẫn (皇慶元年十一月二十六日、遘疾危坐不近藥、閱七日、命具浴更衣、出據室几、書訣眾語坐逝、闍維收五色舍利如菽、不可計、雙目睛不燼, vào ngày 26 tháng 12 năm đầu [1312] niên hiệu Hoàng Khánh [đời vua Nhân Tông nhà Nguyên], Thiền Sư nhuốm bệnh, vẫn ngồi ngay thẳng mà không uống thuốc; trãi qua 7 ngày, ngài bảo tắm rửa, thay áo quần, ra ngồi tựa vào ghế dựa của thất, viết thư giã từ vài lời rồi ngồi mà ra đi; khi làm lễ Xà Duy [hỏa thiêu], thâu Xá Lợi năm màu nhiều như hạt đậu, không đếm được, hai tròng mắt không cháy thành tro).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập