Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó. (There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Đừng cố trở nên một người thành đạt, tốt hơn nên cố gắng trở thành một người có phẩm giá. (Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.)Albert Einstein
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhất nhất »»
(榜): trong nghi thức trai đàn của Phật Giáo cũng như Đạo Giáo, đây là một loại văn thư dùng niêm yết, với ý nghĩa thông báo trước cho mọi người biết về trình tự pháp sự, chi tiết hành lễ, thành phần tham dự, trình tự khoa nghi, chức vị của chư vị trong đàn tràng, v.v. Loại này vẫn thường dùng rất phổ biến để niêm yết, thông tri các tin tức, v.v., như Bảng Văn (榜文), Bảng Thiếp (榜帖), Phóng Bảng (放榜), Bảng Đơn (榜單). Trong Nho Lâm Ngoại Sử (儒林外史) hồi thứ 2 có câu: “Đệ kim niên chánh nguyệt sơ nhất nhật mộng kiến khán hội thí bảng (弟今年正月初一日夢見看會試榜, vào ngày mồng một tháng Giêng năm nay, đệ mơ thấy gặp bảng thi đỗ).” Trong Công Văn Đàn Tràng, thường có các loại Bảng như Tiết Thứ Bảng (節次榜), Chẩn Tế Trai Đàn Bảng (賑濟齋壇榜), Huyết Hồ Tứ Phương Bảng Cáo (血湖四方榜吿), v.v.
(寶蓋): lọng báu, dù báu; là từ mỹ xưng cho lọng hay dù; tức chỉ cho lọng trời được trang sức bằng 7 thứ báu; còn gọi là hoa cái (華蓋, lọng hoa). Loại này thường được treo trên tòa cao của Phật, Bồ Tát hay Giới Sư. Theo Phật Thuyết Duy Ma Cật Kinh (佛說維摩詰經, Taishō Vol. 14, No. 474), Phẩm Phật Quốc (佛國品) thứ 1, cho biết rằng trong thành Tỳ Da Ly (s: Vaiśālī, p: Vesālī, 毘耶離) có người con một vị trưởng giả tên Bảo Tích (寶積), cùng với 500 con trưởng giả khác, cầm lọng bảy báu đến chỗ đức Phật. Ngoài ra, trong các kiến trúc thời cổ đại, trên đỉnh tháp đá, v.v., có điêu khắc rất tinh xảo hình dạng giống như cái lọng. Trong Huệ Lâm Tông Bổn Thiền Sư Biệt Lục (慧林宗本禪師別錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1450) có câu: “Thiên thùy bảo cái trùng trùng tú, địa dũng kim liên diệp diệp tân (天垂寶蓋重重秀、地涌金蓮葉葉新, trời buông lọng báu lớp lớp đẹp, đất vọt sen vàng lá lá tươi).” Hay trong Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh (佛說大乘無量壽莊嚴經, Taishō Vol. 12, No. 363) quyển Hạ có đoạn: “Đông phương Hằng hà sa số Phật sát, Nhất nhất sát trung, hữu vô lượng vô số Bồ Tát Ma Ha Tát, cập vô lượng vô số Thanh Văn chi chúng, dĩ chư hương hoa tràng phan bảo cái, trì dụng cúng dường Cực Lạc thế giới Vô Lượng Thọ Phật (東方恆河沙數佛剎、一一剎中、有無量無數菩薩摩訶薩、及無量無數聲聞之眾、以諸香花幢幡寶蓋、持用供養極樂世界無量壽佛, Hằng hà sa số cõi Phật ở phương Đông, trong mỗi một cõi ấy, có vô lượng vô số Bồ Tát Ma Ha Tát, và vô lượng vô số chúng Thanh Văn, lấy các hương hoa, tràng phan, lọng báu, mang đến cúng dường đức Phật Vô Lượng Thọ của thế giới Cực Lạc).” Hoặc trong Viên Ngộ Phật Quả Thiền Sư Ngữ Lục (圓悟佛果禪師語錄, Taishō Vol. 47, No. 1997) quyển 4 lại có đoạn: “Tổ Phật đồng căn bổn, nhân thiên cọng tán dương, kết thành bảo cái tường vân, cọng chúc Nam sơn thánh thọ (祖佛同根本、人天共讚揚、結成寶蓋祥雲、共祝南山聖壽, Tổ Phật cùng gốc rễ, trời người cùng ngợi khen, kết thành lọng báu mây lành, cùng chúc núi Nam thánh thọ).”
(寶樹): cây báu. Từ này thường thấy xuất hiện trong kinh điển Phật Giáo. Người ta dùng bày loại trân báu để tạo thành hình dáng cây; tỷ dụ như vàng vòng (黃金) làm gốc cây, Bạch Ngân (白銀) làm thân cây, Lưu Ly (琉璃) làm cành cây, Thủy Tinh (水晶) làm ngọn cây, Hổ Phách (琥珀) làm lá cây, Mỹ Ngọc (美玉) làm hoa và Mã Não (瑪瑙) làm trái cây. Trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō No. 360) có đoạn rằng: “Thiết ngã đắc Phật, quốc trung Bồ Tát, tùy ý dục kiến thập phương vô lượng nghiêm tịnh Phật độ, ứng thời như nguyện, ư bảo thọ trung, giai tất chiếu kiến, do như minh kính, đỗ kỳ diện tượng (設我得佛、國中菩薩、隨意欲見十方無量嚴淨佛土、應時如願、於寶樹中、皆悉照見、猶如明鏡、睹其面像, nếu như ta thành Phật, các Bồ Tát trong nước, tùy ý muốn thấy mười phương vô lượng Phật độ nghiêm tịnh, tùy thời được như nguyện; trong hàng cây báu, tất đều chiếu thấy, giống như gương sáng, thấy rõ hình mặt).” Hay như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật Kinh (佛說觀無量壽佛經, Taishō No. 365) cũng có đoạn: “Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: 'Địa tưởng thành dĩ, thứ quán bảo thọ; quán bảo thọ giả, Nhất nhất quán chi, tác thất trùng hàng thọ tưởng, Nhất nhất thọ cao bát thiên do tuần, kỳ chư bảo thọ, thất bảo hoa diệp, vô bất cụ tục (佛告阿難及韋提希:地想成已、次觀寶樹、觀寶樹者、一一觀之、作七重行樹想、一一樹高八千由旬、其諸寶樹、七寶華葉、無不具足, Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hy rằng: 'Quán tưởng về đất xong rồi, kế đến quán cây báu; quán cây báu thì quán từng cây một, tưởng tượng bảy hàng lớp cây, mỗi một cây cao tám ngàn do tuần; các cây báu ấy, hoa và lá bằng bảy thứ báu, không cây nào không đầy đủ').” Ngoài ra, trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 64 lại có đoạn: “Trượng tích Tây lai bái Pháp Vương, nguyện cầu diệu điển viễn truyền dương, kim chi tam tú thi đàn thoại, bảo thọ thiên hoa liên nhụy hương, bách xích cán đầu tu tấn bộ, thập phương thế giới lập hành tàng, tu thành ngọc tượng trang nghiêm thể, Cực Lạc môn tiền thị đạo trường (杖錫西來拜法王、願求妙典遠傳揚、金芝三秀诗坛瑞,宝树千花莲蕊香。金芝三秀詩壇瑞、寶樹千花蓮蕊香、百尺竿头须进步,十方世界立行藏。百尺竿頭須進步、十方世界立行藏、修成玉象庄严体,极乐门前是道场。修成玉象莊嚴體、極樂門前是道塲, quảy trượng qua Tây lễ Pháp Vương, nguyện mong kinh điển khắp truyền dương, cành vàng tam tú thơ đàn lạ, cây báu ngàn hoa sen nhụy hương, trăm bộ đầu sào nên bước tiếp, mười phương thế giới vững trụ thường, tu thành voi ngọc trang nghiêm dáng, Cực Lạc cửa này chính đạo trường).” Câu “thường du bảo thọ chi giai (常遊寳樹之堦)” có nghĩa là thường rong chơi nơi thềm ngọc có hàng cây báu, tức chỉ cho thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật Di Đà.
(s: aṣṭāṅga-samanvāgatopavāsa, p: aṭṭhaṅga-samannāgata uposatha, aṭṭhaṅgika uposatha, 八關齋戒): các giới điều tạm thời xuất gia được đức Phật chế ra cho hàng Phật tử tại gia. Người thọ trì các giới điều này cần phải một ngày một đêm rời khỏi gia đình, đến trú xứ của chư tăng để học tập về nếp sống sinh hoạt của người xuất gia. Bát Quan Trai Giới còn gọi là Trưởng Dưỡng Luật Nghi (長養律儀), Cận Trú Luật Nghi (近住律儀), Bát Giới (八戒), Bát Chi Tịnh Giới (八支淨戒), Bát Chi Trai Pháp (八支齋法), Bát Chi Trai Giới (八支齋戒), Bát Phần Giới Trai (八分戒齋), Bát Giới Trai (八戒齋), Bát Trai Giới (八齋戒), Bát Cấm (八禁), Bát Sở Ưng Ly (八所應離). Bát (八) ở đây có nghĩa là hành trì 8 loại giới; Quan (關) là cánh cửa đóng chặt 8 điều ác, khiến cho Ba Nghiệp không sanh khởi những điều sai lầm; Trai (齋) ở đây đồng nghĩa với tề (齊), tức là cùng đoạn trừ những điều ác, cọng tu các điều thiện; bên cạnh đó, quá ngọ không ăn được gọi là trai. Giới (戒) có tác dụng ngăn ngừa điều sai trái và chận đứng điều ác. Nói chung, thọ trì 8 loại Trai Giới thì có thể đóng chặt 8 điều ác, không cho sanh khởi sai lầm, ngăn chận những ác nghiệp của thân miệng ý; cũng nhờ từ đây mà tạo cánh cửa mở thông con đường xuất gia và đóng chặt cánh cửa luân hồi sanh tử. Cho nên, Bát Quan Trai Giới là cánh cửa vi diệu hướng đến con đường thiện, là con đường tắt dẫn vào Phật đạo. Thọ trì Bát Quan Trai Giới có thể giúp cho hàng tín đồ Phật tử tại gia huân tập, nuôi lớn căn lành xuất thế, nên mới có tên gọi là Trưởng Dưỡng Luật Nghi. Người thọ trì Bát Quan Trai Giới bắt buộc phải một ngày một đêm xa lìa gia cư, đến sống nơi chốn già lam, gần Tam Bảo, chư vị A La Hán; vì vậy mới có tên gọi là Cận Trú Luật Nghi. Về nội dung, theo Tát Bà Đa Luận (薩婆多論), Bát Quan Trai Giới là 8 loại giới luật, hay nói cho đúng là Bát Giới Nhất Trai (八戒一齋, tám giới và một giới trai), gồm: (1) Bất sát sanh (不殺生, không giết hại sinh mạng), (2) Bất thâu đạo (不偷盜, không trộm cắp), (3) Bất dâm dật (不淫泆, không dâm đãng phóng túng), (4) Bất vọng ngữ (不妄語, không nói dối), (5) Bất ẩm tửu (不飲酒, không uống rượu), (6) Bất trước hoa man cập hương du đồ thân (不著華鬘及香油塗身, không mang tràng hoa và dùng dầu thơm xoa lên mình), (7) Bất ca vũ xướng kỷ cập vãng quan thính (不歌舞倡伎及往觀聽, không đàn ca xướng hát và đến xem nghe), (8) Bất tọa ngọa cao quảng đại sàng (不坐臥高廣大床, không ngồi nằm giường cao rộng lớn), (9) Bất phi thời thực (不非時食, không ăn phi thời). Tuy thực tế là 9 giới, nhưng thường được gọi là Bát Quan Trai Giới, trong Bát Quan Trai Pháp (八關齋法, CBETA Vol. 60, No. 1130) có giải thích lý do rõ rằng: “Phù Bát Trai Pháp, tinh quá trung bất thực, nãi hữu Cửu Pháp, hà dĩ Bát Sự đắc danh; Phật ngôn, trai pháp quá trung bất thực vi thể, bát sự trợ thành trai thể, cọng tương chi trì, danh Bát Chi Trai Pháp; thị cố ngôn Bát Trai, bất vân cửu dã (夫八齋法、并過中不食、乃有九法、何以八事得名、佛言、齋法過中不食爲體、八事助成齋體、共相支持、名八支齋法、是故言八齋、不云九也, phàm Tám Pháp Quan Trai cọng với việc không ăn quá ngọ, thành ra Chín Pháp, tại sao có tên gọi Tám Pháp; đức Phật dạy rằng pháp không ăn quá ngọ là thể, Tám Pháp giúp cho thành tựu thể ấy, cùng nâng đỡ nhau, nên gọi là Tám Chi Trai Pháp; vì vậy gọi là Tám Pháp Trai, chứ không gọi là chín).” Trong 5 giới đầu của Bát Quan Trai Giới có nội dung tương đương với Ngũ Giới, chỉ khác giới “bất tà dâm (不邪淫, không tà dâm)” đổi thành giới “bất dâm (不淫)” hay “bất dâm dật (不淫泆)”. Cho nên, khi thọ trì Bát Quan Trai Giới, hành giả không những đoạn tuyệt quan hệ hợp pháp vợ chồng, mà còn tuyệt đối nghiêm thủ không dâm dục trong một ngày một đêm; vì vậy người thọ trì pháp tu này được gọi là “Tịnh Hạnh Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di”. Đức Phật chế rằng người Phật tử tại gia nên thọ trì Bát Quan Trai Giới vào 6 ngày trai của mỗi tháng. Đại Thiên Nại Lâm Kinh (大天捺林經) của Trung A Hàm (中阿含經) quyển 14, Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經) quyển 16, v.v., cho rằng mỗi tháng vào 6 ngày trai giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 (nếu nhằm tháng thiếu Âm Lịch thì có thể thay đổi vào ngày 28 và 29). Người chuyên thọ trì Bát Quan Trai Giới có được những công đức, lợi ích như: (1) Xa lìa nỗi khổ bệnh hoạn; như trong Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh (藥師琉璃光如來本願功德經, Taishō No. 450) có giải thích rằng: “Nhược hữu bệnh nhân, dục thoát bệnh khổ, đương vi kỳ nhân, thất nhật thất dạ, thọ trì Bát Phần Trai Giới (若有病人、欲脫病苦、當爲其人、七日七夜、受持八分齋戒, nếu có người bệnh, muốn thoát khỏi nỗi khổ của bệnh, nên vì người ấy, trong bảy ngày bảy đêm, thọ trì Tám Phần Trai Giới)”. (2) Tiêu trừ tội chướng; phàm những ai muốn sám hối tội chướng, đều phải nên thọ trì tám pháp này; như trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh (優婆塞戒經, Taishō No. 1488) quyển 5, phẩm Bát Giới Trai (八戒齋品) thứ 21 có giải thích rằng: “Nhược năng như thị thanh tịnh quy y thọ bát giới giả, trừ Ngũ Nghịch tội, dư nhất thiết tội tất giai tiêu diệt (若能如是清淨歸依受八戒者、除五逆罪、餘一切罪悉皆消滅, nếu người nào có thể quy y thọ tám giới thanh tịnh như vậy, thì trừ được Năm Tội Nghịch, hết thảy các tội khác tất đều tiêu diệt).” Hay như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō No. 374) quyển 19 có nêu ra câu chuyện của Quảng Ngạch (廣額): “Ba La Nại quốc hữu đồ nhi, danh viết Quảng Ngạch, ư nhật nhật trung, sát vô lượng dương, kiến Xá Lợi Phất tức thọ Bát Giới Kinh nhất nhật nhất dạ, dĩ thị nhân duyên, mạng chung đắc vi Bắc phương thiên Tỳ Sa Môn tử (波羅捺國有屠兒、名曰廣額、於日日中、殺無量羊、見舍利弗卽受八戒經一日一夜、以是因緣、命終得爲北方天王毘沙門子, tại nước Ba La Nại có người đồ tể tên Quảng Ngạch, trong mỗi ngày giết vô lượng con dê, khi gặp Xá Lợi Phất liền thọ Bát Giới Kinh một ngày một đêm, nhờ nhân duyên ấy mà sau khi qua đời thì được làm con trai của Tỳ Sa Môn ở cõi trời phương Bắc).” (3) Phước báo không cùng, như trong Ưu Ba Di Đọa Xá Ca Kinh (優陂夷墮舍迦經, Taishō No. 88) cho biết rằng: “Lục nhật trai giả, thí như hải thủy bất khả hộc lượng; kỳ hữu trai giới nhất nhật nhất dạ giả, kỳ phước bất khả kế (六日齋者、譬如海水不可斛量、其有齋戒一日一夜者、其福不可計, sáu ngày trai giới, giống như nước biển không thể nào đong đếm được; người nào có trai giới trong một ngày một đêm, phước của người đó không thể nào tính được).” (4) Xa lìa các đường ác, như Thọ Thập Thiện Giới Kinh (受十善戒經, Taishō No. 1486) cho biết rằng: “Trì thử thọ trai công đức, bất đọa Địa Ngục, bất đọa Ngạ Quỷ, bất đọa Súc Sanh, bất đọa A Tu La, thường sanh nhân trung, chánh kiến xuất gia, đắc Niết Bàn đạo (持此受齋功德、不墮地獄、不墮餓鬼、不墮畜生、不墮阿修羅、常生人中、正見出家、得涅槃道, công đức hành trì Tám Trai Giới này, không đọa vào đường Địa Ngục, không đọa vào đường Ngạ Quỷ, không đọa vào đường Súc Sanh, không đọa vào đường A Tu La, thường sanh vào cõi người, có chánh kiến xuất gia, chứng đạo Niết Bàn).” (5) Đạt được niềm vui vô thượng, như trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh quyển 5, phẩm Bát Giới Trai thứ 21 dạy rằng: “Phàm thị trai nhật, tất đoạn chư ác phạt lục chi sự; nhược năng như thị thanh tịnh thọ trì Bát Giới Trai giả, thị nhân tắc đắc vô lượng quả báo, chí vô thượng lạc (凡是齋日、悉斷諸惡罰戮之事、若能如是清淨受持八戒齋者、是人則得無量果報、至無上樂, phàm ngày trai này, tất dứt hết những việc ác hình phạt, chém giết; nếu người nào có thể thọ trì Tám Giới Trai thanh tịnh như vậy, người ấy ắt đạt được quả báo vô lượng, cho đến niềm vui vô thượng).” (6) Sanh lên các cõi trời, như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 16, Cao Tràng Phẩm (高幢品) thứ 24 dạy rằng: “Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, trì Bát Quan Trai giả, thân hoại mạng chung, sanh thiện xứ thiên thượng, diệc sanh Hê Thiên, Đâu Thuật Thiên, Tha Tự Tại Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, chung bất hữu hư, sở dĩ nhiên giả, dĩ kỳ trì giới chi nhân sở nguyện giả đắc (若善男子、善女人、持八關齋者、身壞命終、生善處天上、亦生豔天、兜術天、化自在天、他化自在天、終不有虛、所以然者、以其持戒之人所願者得, nếu có người thiện nam, tín nữ nào hành trì Tám Giới Trai, sau khi thân hoại mạng hết, sanh vào nơi tốt lành trên trời, cũng được sanh lên cõi Ma Hê Thủ La Thiên, Đâu Suất Thiên, Tha Tự Tại Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, dứt khoát không hư dối, vì sao đúng như vậy; vì do sở nguyện của người trì giới mà đạt được).” Bên cạnh những điều nêu trên, còn có một số công đức khác như sanh vào đời sau được mọi người tôn quý, trợ duyên cho vãng sanh, khi lâm chung được an lạc, có tướng mạo tốt đẹp, tạo duyên lành để thành Phật đạo, v.v.
(東土): có mấy nghĩa. (1) Thời cổ dại, chỉ cho một địa khu hay tiểu quốc nào đó ở phía Đông của đất Thiểm (陝). Như trong Quốc Ngữ (國語), phần Trịnh Ngữ (鄭語), có đoạn: “Hoàn Công vi Tư Đồ, thậm đắc Chu chúng dữ Đông độ chi nhân (桓公為司徒,甚得周眾與東土之人, Hoàn Công làm chức Tư Đồ, rất được lòng dân xứ Chu và người đất Thiểm).” (2) Dưới thời Đông Tấn, Nam Triều, từ này đặc biệt dùng để chỉ cho một dãy Tô Nam (蘇南) và Triết Giang (浙江). Như trong Tấn Thư (晉書), Dữu Dực Truyện (庾翼傳), có đoạn: “Thời Đông Độ đa phú dịch, bách tánh nãi tùng hải đạo nhập Quảng Châu, Sắc Sứ Đặng Nhạc đại khai cổ chú, chư di nhân thử tri tạo binh khí (時東土多賦役、百姓乃從海道入廣州、刺史鄧嶽大開鼓鑄、諸夷因此知造兵器, lúc bấy giờ Đông Độ nhiều sưu thuế và lao dịch, bá tánh bèn từ đường biển vào Quảng Châu, Sắc Sứ Đặng Nhạc bắt đầu đúc khí giới, nhờ đó bọn mọi rợ mới biết chế tạo binh khí).” (3) Tên gọi thời xưa của Trung Quốc, đối với phương Tây mà nói. Như trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 8 có đoạn: “Đông Độ đệ nhất thế Tổ Bồ Đề Đạt Ma tôn giả tự Nam Thiên Trúc lai, cửu nguyệt nhị thập nhất nhật đạt ư Quảng Châu (東土第一世祖菩提達磨尊者自南天竺來、九月二十一日達於廣州, Tổ đời thứ nhất của Trung Hoa là tôn giả Bồ Đề Đạt Ma, từ Nam Thiên Trúc đến, ngày 21 tháng 9 thì đến tại Quảng Châu).” Hay trong Nguyên Tẩu Hành Đoan Thiền Sư Ngữ Lục (元叟行端禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1419) quyển 4, phần Hàng Châu Kính Sơn Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền Tự Ngữ Lục (杭州徑山興聖萬壽禪寺語錄), lại có câu: “Tây Thiên tích nhật Tịnh Danh lão, Đông Độ kim triêu Bàng Uẩn công (西天昔日淨名老、東土今朝龐蘊公, Tây Thiên [Ấn Độ] ngày xửa Tịnh Danh lão, Đông Độ [Trung Hoa] sáng nay Bàng Uẩn ông).” Hoặc trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) quyển 1, phần Trí Tuệ Linh Lung Phạ Ra Đát Đa Như Lai Bảo Huấn (智慧玲瓏嚩囉噠哆如來寶訓), cũng có câu: “Hình cốt tuy tồn Đông Độ, tâm thần dĩ tại Liên Trì (形骸雖存東土、心神已在蓮池, hình cốt tuy còn Đông Độ [Ấn Độ], tâm thần đã ở Liên Trì [Tây phương]).”
(和羅飯): từ gọi tắt của Bát Hòa La Phạn (缽和羅飯). Bát Hòa La (缽和羅、鉢和羅、盋和羅) là âm dịch của từ Phạn ngữ pravāraṇā (s.) và pavāraṇā (p.); còn có một số âm dịch khác như Bát Lợi Bà Thích Noa (鉢利婆刺拏), Bát Hòa Lan (缽和蘭、鉢和蘭); ý dịch là đầy đủ, vui vẻ, việc tùy ý, tùy theo ý của người khác mà tự thân mình nêu ra những sai phạm, Tự Tứ (自恣). Theo Sa Môn Huyền Ứng (玄應, ?-?), nhân vật sống dưới thời nhà Đường, đệ tử của Huyền Trang (玄奘, 602-664), tu sĩ của Đại Tổng Trì Tự (大總持寺) ở Trường An (長安), người biên soạn bộ Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa (一切經音義, 25 quyển), giải thích rằng sau An Cư là ngày Tự Tứ, tức nhằm vào Rằm tháng 7 (tại Việt Nam thường tổ chức vào ngày 16). Ngày này, món ăn cúng dường Tam Bảo được gọi là Hòa La Phạn, tức là món ăn Tự Tứ. Trong Vu Lan Bồn Kinh Tân Sớ (盂蘭盆經新疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 377) giải thích rõ rằng: “Thọ Bát Hòa La Phạn giả, lân mẫn thí chủ, vô trước vô tham, mỹ thực ố thực, bất sanh tăng giảm, cố danh nhất tâm (受缽和羅飯者、憐愍施主、無著無貪、美食惡食、不生增減、故名一心, người thọ nhận cơm Tự Tứ, phải biết thương xót thí chủ, không chấp trước không tham lam, thức ăn ngon hay thức ăn dở, không sinh cũng không giảm, nên gọi là nhất tâm).” Trong Tông Môn Niêm Cổ Vị Tập (宗門拈古彙集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 66, No. 1296 q.37) quyển 37 có câu: “Trai thời nhất Bát Hòa La Phạn, Thiền đạo thị phi tổng bất tri (齋時一缽和羅飯、禪道是非總不知, khi ăn một bát cơm Tự Tứ, Thiền đạo đúng sai thảy không hay).” Hay trong bài Nữ Tử Xuất Định (女子出定) của Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 11 có đoạn: “Xuất định mạn vân đàn chỉ gian, không lao thần lực bất tương quan, nhi kim quán khiết Hòa La Phạn, nhất nhật tam xan bão tiện nhàn (出定謾云彈指間、空勞神力不相關、而今慣喫和羅飯、一日三餐飽便閒, xuất định dối cho [trong khoảng] khảy móng tay, nhọc gì thần lực liên quan đây, như nay quen ăn cơm Tự Tứ, ba bữa một ngày no ngũ say).”
(靈霄): có 3 nghĩa. (1) Chỉ tiên cảnh. Như trong thư tịch Chơn Cáo (真誥), Vận Tượng Thiên (運象篇) của Phái Thượng Thanh (上清派) thuộc Đạo Giáo, do Đào Hoằng Cảnh (陶弘景, 456-536) nhà Lương thời Nam Triều biên tập, có câu: “Lương đức phi hà chiếu, toại cảm linh tiêu nhân (良德飛霞照、遂感靈霄人, đức cả ráng chiều tỏ, bèn cảm người cõi tiên).” (2) Chỉ trời cao. (3) Tên cung điện của Ngọc Đế trong truyền thuyết thần thoại. Như trong hồi thứ 80 của Thuyết Nhạc Toàn Truyện (說岳全傳) có đoạn: “Nhất nhật, giá tọa Linh Tiêu bảo điện, lưỡng bàng liệt trước tứ đại thiên sư, văn võ thánh chúng (一日,駕坐靈宵寶殿,兩傍列着四大天師,文武聖眾, một hôm, đức vua ngồi tại điện báu Linh Tiêu, hai bên có bốn đại thiên sư, văn võ thánh chúng).”
(六結): đức Phật lấy một cái khăn ví cho chơn tánh, lấy Sáu Kết dụ cho Sáu Căn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; biểu thị cho biết căn chỉ có một, nhưng do vì vọng tướng phân biệt sanh khởi mà có Sáu Căn. Như trong Lăng Nghiêm Kinh Chỉ Chưởng Sớ (楞嚴經指掌疏, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 16, No. 308) quyển 5 có câu: “Nhất thiết hữu tình Lục Kết khả giải cố, Nhất nhất thế giới các các hữu Phật (一切有情六結俱可解故、一一世界各各有佛, Sáu Kết của hết thảy hữu tình đều có thể mở được, cho nên mỗi một thế giới đều có Phật).” Hay trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1215) lại có câu: “Giải khai Lục Kết vô dư kết, đãng tận phàm thai dữ Thánh thai (解開六結無餘結、蕩盡凡胎與聖胎, mở bày Sáu Kết không ràng buộc, quét sạch phàm thai với Thánh thai).”
(孟冬): chỉ cho tháng đầu tiên của mùa Đông, tức tháng 10 Âm Lịch. Một số thi từ liên quan đến từ Mạnh Đông này như trong bài Bộ Xuất Hạ Môn Hành (步出夏門行), phần Đông Thập Nguyệt (冬十月) của Tào Tháo (曹操, 155-220) có câu: “Mạnh Đông thập nguyệt, Bắc phong bồi hồi (孟冬十月、北風徘徊, đầu Đông tháng Mười, gió Bắc bồi hồi).” Trong bài thơ Thư Dị (書異) của Nguyên Chẩn (元稹, 779-831) nhà Đường có câu: “Mạnh Đông sơ hàn nguyệt, chử trạch bồ thượng thanh (孟冬初寒月、渚澤蒲尚青, Mạnh Đông tháng mới lạnh, cỏ bên đầm còn xanh).” Hay trong bài Minh Binh Bộ Thượng Thư Tiết Hoàn Viên Công Mộ Chí Minh (明兵部尚書節寰袁公墓誌銘) của Khổng Trinh Vận (孔貞運, 1574-1644) nhà Minh lại có đoạn: “Chí Mạnh Đông nguyệt, hốt Tây Nam hữu cự tinh trụy địa, nhi công khạp nhiên thệ hỉ (至孟冬月、忽西南有巨星墜地、而公溘然逝矣, đến tháng 10, chợt phía Tây Nam có ngôi sao lớn rơi xuống đất, rồi ông [Viên Khả Lập] đột nhiên qua đời vậy).” Trong Phật Tổ Tông Phái Thế Phổ (佛祖宗派世譜, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1602) cũng có đoạn: “Uyên Hồ Diệu Dụng, Hải Diêm Trịnh thị tử, sanh vu Vạn Lịch Đinh Hợi niên, Sùng Trinh Nhâm Ngọ Mạnh Đông thập nhất nhật thư kệ nhi thệ, tháp Hưng Thiện Phổ Minh (鴛湖妙用、海鹽鄭氏子、生于萬曆丁亥年、崇禎壬午孟冬十一日書偈而逝、塔興善普明, Uyên Hồ Diệu Dụng, con nhà họ Trịnh ở Hải Diêm, sanh vào năm Đinh Hợi [1587] niên hiệu Vạn Lịch; vào ngày 11 tháng 10 năm Nhâm Ngọ [1642] niên hiệu Sùng Trinh, ông viết kệ rồi qua đời; tháp tên Phổ Minh ở Chùa Hưng Thiện).” Hay trong Hoằng Giới Pháp Nghi (弘戒法儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1126) quyển 1 lại có câu: “Thiên Khải Quý Hợi Mạnh Đông sóc đán Tam Phong Bồ Tát Giới đệ tử Pháp Tạng thư vu Bắc Thiền Tự Cấm Oa Đường trung (天啟癸亥孟冬朔旦三峰菩薩戒弟子法藏書于北禪寺禁蛙堂中, vào sáng mồng một tháng 10 năm Quý Hợi [1623] niên hiệu Thiên Khải, đệ tử thọ Bồ Tát Giới ở Tam Phong tên Pháp Tạng viết trong Cấm Oa Đường của Bắc Thiền Tự).”
(梵相): có hai nghĩa chính:
(1) Chỉ cho tướng trang nghiêm, thanh tịnh của chư Phật, Bồ Tát, v.v. Như trong Toàn Đường Thi (全唐詩) quyển 85 có thâu lục bài thơ Võ Túc Vương Hữu Chỉ Thạch Kiều Thiết Trai Hội Tấn Nhất Thi (武肅王有旨石橋設齋會進一詩) của một vị tăng ở Ngô Việt, có câu: “La Hán phàn chi trình Phạm tướng, nham tăng ỷ thọ hiện chơn hình (羅漢攀枝呈梵相、巖僧倚樹現眞形, La Hán vin cành bày tướng hảo, tựa cây tăng núi hiện chơn hình).” Hay trong Năng Cải Trai Mạn Lục (能改齋漫錄), chương Sự Thỉ (事始) 2 của Ngô Tằng (吳曾, khoảng thế kỷ 12) nhà Tống có đoạn: “Thiên hạ tự lập Quan Âm tượng, cái bổn ư Đường Văn Tông hảo thị cáp lị; nhất nhật, ngự soạn trung hữu phách bất khai giả, đế dĩ vi dị, nhân phần hương chúc chi, nãi khai, tức kiến Bồ Tát hình, Phạm tướng cụ túc (天下寺立觀音像、蓋本於唐文宗好嗜蛤蜊、一日、禦饌中有擘不開者、帝以爲異、因焚香祝之、乃開、卽見菩薩形、梵相具足, các chùa trong thiên hạ đều dựng tượng Quan Âm, vốn xuất phát từ việc vua Văn Tông [tại vị 826-840] nhà Đường thích ăn con sò; một hôm nọ, trong cỗ ăn của nhà vua có con sò bị nạy mà vẫn không mở ra; nhà vua lấy làm lạ, nhân đó thắp hương cầu khấn, con sò liền mở miệng ra, tức thấy hình Bồ Tát, tướng hảo đầy đủ).”
(2) Chỉ chung cho tượng Phật. Như trong bài thơ Tam Nguyệt Thập Nhật Quán Nam An Triệu Sứ Quân Sở Tang Thư Họa Cổ Khí Vật (三月十日觀南安趙使君所藏書畫古器物) của Liễu Quán (柳貫, 1270-1342) nhà Nguyên có câu: “Đình quang cổ Phật xuất Phạm tướng, mãn nguyệt tại thủy liên sanh phu (庭光古佛出梵相、滿月在水蓮生趺, hào quang cổ Phật bày tướng hảo, trăng tròn mặt nước sen ngồi Thiền).” Trong Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1541) quyển Hạ có câu: “Tống Thích Nghĩa Thông, tánh Duẫn, Cao Lệ quốc tộc, Phạm tướng dị thường, mi trường ngũ thốn dư, ấu xuất gia Quy Sơn Viện (宋釋義通、姓尹、高麗國族、梵相異常、眉長五寸餘、幼出家龜山院, Thích Nghĩa Thông nhà Tống, họ là Duẫn, dòng họ nước Cao Lệ [Triều Tiên], tướng hảo khác thường, lông mày dài hơn 5 tấc, lúc nhỏ xuất gia ở Quy Sơn Viện).” Hay trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1524) quyển 19 có đoạn: “Ngôn Pháp Hoa giả, mạc tri kỳ sở tùng lai, Phạm tướng kỳ cổ, ngữ ngôn vô kỵ, xuất một bất trắc, đa hành thị lí, khiên thường nhi xu, hoặc cử chỉ họa không, trữ lập lương cửu, dữ đồ cổ giả du, ẩm đạm vô sở trạch, đạo tục cọng mục vi cuồng tăng (言法華者、莫知其所從來、梵相奇古、語言無忌、出沒不測、多行市里、褰裳而趨、或舉指畫空、佇立良久、與屠沽者游、飲啖無所擇、道俗共目爲狂僧, Ngôn Pháp Hoa, chẳng biết ông từ đâu đến, tướng hảo cổ quái, nói năng chẳng kiêng kỵ, ẩn hiện khôn lường, phần nhiều xuất hiện nơi chợ búa, làng xóm, vén quần mà đi, hoặc có khi đưa ngón tay lên vẽ trên không trung, rồi đứng yên một hồi lâu, cùng với hạng bán rượu thịt giao du, ăn uống đủ thứ, cả đạo lẫn đời đều xem ông là tu sĩ điên).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập