Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Kinh nghiệm quá khứ và hy vọng tương lai là những phương tiện giúp ta sống tốt hơn, nhưng bản thân cuộc sống lại chính là hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Nhân »»

(悲悴, 悲瘁): buồn thương, bi thương, đau xót. Trong Vấn Tiến Sĩ Sách Đề Ngũ Đạo (問進士策題五道) của Âu Dương Tu (歐陽修, 1007-1072) nhà Tống có đoạn: “Nhất nhân chi vi vịnh ca, hoan lạc bi tụy nghi nhược sở hệ giả vị vi trọng hỉ (一人之爲詠歌、歡樂悲瘁宜若所繫者未爲重矣, một người vì vịnh ca, hoan lạc, buồn thương, nên nếu ai bị trói buộc thì vẫn chưa xem là trọng).” Lại nữa, trong Hiền Ngu Kinh (賢愚經) quyển thứ 3, Cứ Đà Thân Thí Phẩm (鋸陀身施品) thứ 15 có đoạn: “Thiên thời thạnh thử, đáo nhiệt sa đạo, thần càn khát phạp, uất chưng dục tử, cùng toan khổ thiết, bi tụy nhi ngôn: 'Thùy hữu từ bi, căng mẫn ngã giả, đương kiến chửng tế, cứu ngã thân mạng (天時盛暑、到熱沙道、唇乾渴乏、鬱蒸欲死、窮酸苦切、悲悴而言、誰有慈悲、矜愍我者、當見拯濟、救我身命, lúc ấy trời nóng bức, sức nóng bốc lên trên đường cát, môi khô khát mệt, hơi bốc muốn chết, hết chua đắng cạn, buồn đau nói rằng: 'Ai có từ bi, thương xót tôi với, thấy vậy cứu vớt, cứu thân mạng tôi).”
(s: poṣadha, upavasatha, upoṣadha, upavāsa, p: uposatha, posatha, 布薩): âm dịch là Ưu Ba Bà Tố Đà (優波婆素陀), Ưu Bà Ta (優婆娑), Bố Tát Đà Bà (布薩陀婆), Bố Sái Tha (布灑他), Bố Sa Tha (布沙他), Ổ Ba Bà Sa (鄔波婆沙), Bô Sa Đà (逋沙陀), Bao Sái Đà (褒灑陀), Ổ Bô Sa Tha (鄔逋沙他); ý dịch là Trưởng Tịnh (長淨), Trưởng Dưỡng (長養), Tăng Trưởng (增長), Thiện Túc (善宿), Tịnh Trú (淨住), Trường Trú (長住), Cận Trú (近住), Cọng Trú (共住), Đoạn (斷), Xả (捨), Trai (齋), Đoạn Tăng Trưởng (斷增長), hay Thuyết Giới (說戒). Nghĩa là vào mỗi nữa tháng, chư vị Tỳ Kheo cùng sống chung tập trung tại một trú xứ nhất định, hoặc tại Bố Tát Đường (s: uposathāgāra, 布薩堂, còn gọi là Nhà Thuyết Giới), cung thỉnh vị Tỳ Kheo hành trì giới luật tinh chuyên thuyết giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa (s: prātimokṣa, p: pātimokkha, 波羅提木叉), để phản tỉnh, xem xét lại trong nữa tháng vừa qua bản thân có tuân thủ đúng với giới bổn hay không. Nếu có người phạm giới, thì sẽ sám hối ngay trước đại chúng, giúp cho chúng tăng có thể an trụ lâu trong tịnh giới, làm tăng trưởng thiện pháp và công đức. Nếu như hàng Phật tử tại gia, vào trong 6 ngày trai mà thọ trì Bát Quan Trai Giới (s: aṣṭāṅga-samanvāgatopavāsa, p: aṭṭhaṅga-samannāgata uposatha, aṭṭhaṅgika uposatha, 八關齋戒), cũng được gọi là Bố Tát, nghĩa là có thể làm cho tăng trưởng thiện pháp. Hình thức Bố Tát vốn phát xuất từ nguồn gốc tế lễ từ thời Phệ Đà (s: Veda, 吠陀) của Ấn Độ; tức là ngày trước lễ Tế Đầu Tháng (s: darśā-māsa, 新月祭) và Tế Giữa Tháng (s: paurṇa-māsa, 滿月祭), người ta cử hành một lễ cúng tế dự bị, được gọi là Bố Tát. Chủ yếu vào ngày cúng tế này, mọi người không ăn, an trú trong giới pháp thanh tịnh, khiến cho cả thân lẫn tâm đều được trong sạch. Về sau, truyền thống này được truyền thừa đến thời đức Phật, nhóm ngoại đạo Ni Kiền Tử (s: Nirgrantha-putra, Nirgrantha-jñātaputra, p: Nigaṇtha-putta, 尼乾子) cũng thường tập trung tại một trú xứ nào đó, tác pháp hành trì 4 giới như không ăn, v.v. Đức Thế Tôn cũng cho phép Tăng chúng tiến hành pháp sự này; cho nên hình thức Bố Tát của Phật Giáo vốn căn cứ vào tập quán nói trên. Theo như sự chế định của Phật, vào dịp này chúng tăng nên tụng toàn bộ giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa; và nếu gặp các duyên nạn thì có thể tụng một phần của giới bổn cũng được. Tứ Phần Luật (四分律) quyển 58 phân Bố Tát thành 4 loại là: (1) Tam Ngữ Bố Tát (三語布薩); (2) Thanh Tịnh Bố Tát (清淨布薩), (3) Thuyết Ba La Đề Mộc Xoa Bố Tát (說波羅提木叉布薩) và (4) Tự Tứ Bố Tát (自恣布薩). Trong khi đó, Ngũ Phần Luật (五分律) quyển 18 lại phân làm 5 loại khác là: (1) Tâm Niệm Khẩu Ngôn Bố Tát (心念口言布薩), (2) Hướng Tha Thuyết Tịnh Bố Tát (向他說淨布薩), (3) Quảng Lược Thuyết Giới Bố Tát (廣略說戒布薩), (4) Tự Tứ Bố Tát (自恣布薩) và (5) Hòa Hợp Bố Tát (和合布薩). Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙) quyển 16 thì liệt kê 9 loại là: (1) Thập Tứ Nhật Bố Tát (十四日布薩), (2) Thập Ngũ Nhật Bố Tát (十五日布薩), (3) Hòa Hợp Bố Tát (和合布薩), (4) Tăng Bố Tát (僧布薩), (5) Chúng Bố Tát (眾布薩), (6) Nhất Nhân Bố Tát (一人布薩), (7) Thuyết Ba La Đề Mộc Xoa Bố Tát (說波羅提木叉布薩), (8) Tịnh Bố Tát (淨布薩) và (9) Sắc Bố Tát (敕布薩). Ngay như ngày Bố Tát, các kinh điển cũng nêu lên khác nhau. Như Đại Thiên Nại Lâm Kinh (大天捺林經) của Trung A Hàm (中阿含經) quyển 14, Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經) quyển 16, v.v., cho rằng mỗi tháng vào 6 ngày trai giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 thì tiến hành Bố Tát. Tứ Phần Luật quyển 58 thì cho rằng mồng 1, 14, 15 là những ngày Bố Tát. Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 13 thì giải thích ngày mồng 1, mồng 8, 14, 16, 23, 29. Nhìn chung, mỗi tháng 3 lần Bố Tát, dần dần sinh ra quy định mỗi nữa tháng một lần. Hơn nữa, từ xưa phong trào Bố Tát và ăn chay vốn đã rất thịnh hành tại Trung Quốc, Nhật Bản cũng như Việt Nam. Trong Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi (大比丘三千威儀, Taishō No. 1470) quyển Thượng có đoạn rằng: “Bố Tát giả, Tần ngôn tịnh trú, nghĩa ngôn trưởng dưỡng Tỳ Kheo hòa hợp; nhược tác bách nhất Yết Ma, nhi bất tri hòa hợp, thị danh bất tri Bố Tát (布薩者、秦言淨住、義言長養比丘和合、若作百一羯磨、而不知和合、是名不知布薩, Bố Tát, Tàu dịch là tịnh trú [an trú trong thanh tịnh], nghĩa là nuôi lớn sự hòa hợp của chúng Tỳ Kheo; nếu thực hành trăm lẽ một pháp Yết Ma mà không biết hòa hợp, có nghĩa là không biết Bố Tát).” Hay như trong Thọ Thập Thiện Giới Kinh (受十善戒經, Taishō No. 1486 ) giải thích rằng: “Kim ư tam thế chư Phật, A La Hán tiền, Hòa Thượng tăng tiền, chí thành phát lộ, Ngũ Thể đầu địa, sám hối chư tội, thị danh hành Bố Tát pháp (今於三世諸佛、阿羅漢前、和上僧前,至誠發露,五體投地,懺悔諸罪,是名行布薩法, nay đối trước ba đời chư Phật, trước A La Hán, trước Hòa Thượng tăng, chí thành bộc bạch, năm vóc gieo đất, sám hối các tội, ấy gọi là hành pháp Bố Tát).” Trong Nhập Bố Tát Đường Thuyết Kệ Văn Đẳng (入布薩堂說偈文等, Taishō No. 2852) có bài Thanh Tịnh Diệu Kệ Văn (清淨妙偈文) rằng: “Thanh tịnh như mãn nguyệt, thanh tịnh ưng Bố Tát, thân khẩu nghiệp thanh tịnh, nhĩ nãi đồng Bố Tát (清淨如滿月、清淨應布薩、身口業清淨、爾乃同布薩, trong sạch như trăng rằm, trong sạch nên Bố Tát, nghiệp thân miệng trong sạch, ngươi hãy cùng Bố Tát).”
(融通念佛宗, Yūzūnembutsushū): một trong 13 tông phái lớn của Nhật Bản, còn gọi là Đại Niệm Phật Tông (大念佛宗). Vị Tông Tổ sáng lập ra tông phái này Thánh Ứng Đại Sư Lương Nhẫn (聖應大師良忍). Năm 1117, ông cảm đắc được câu kệ của A Di Đà Như Lai là “nhất nhân nhất thiết nhân, nhất thiết nhân nhất nhân, nhất hạnh nhất thiết hạnh, nhất thiết hạnh nhất hạnh, thị danh tha lực vãng sanh, Thập Giới nhất niệm, dung thông niệm Phật, ức bách vạn biến, công đức viên mãn (一人一切人、一切人一人、一行一切行、一切行一行、是名他力徃生、十界一念、融通念佛、億百萬遍、功德圓滿, một người hết thảy mọi người, hết thảy mọi người một người, một hạnh hết thảy mọi hạnh, hết thảy mọi hạnh một hạnh, ấy tên tha lực vãng sanh, mười cõi một niệm, dung thông niệm Phật. trăm vạn ức biến, công đức tròn đầy)”, rồi lấy câu kệ này làm tư tưởng căn bản; và nhân lúc đó làm năm khai sáng Tông này. Khi ấy, ông lấy bức tranh vẽ tượng Phật ở giữa và có 10 vị Thánh cung quanh làm tượng thờ chính, và ngôi chùa trung tâm của Tông này là Đại Niệm Phật Tự (大念佛寺, Dainembutsu-ji), hiện tọa lạc tại Hirano-ku (平野區), Ōsaka-shi (大阪市). Vị Tông Tổ Lương Nhẫn sinh ra ở vùng Phú Đa (富多), Quận Tri Đa (知多郡, Chita-gun), Vĩ Châu (尾州, Bishū, thuộc Aichi-ken [愛知縣]). Năm lên 12 tuổi, ông lên xuất gia trên Duệ Sơn, làm vị tăng Hành Đường ở Đông Tháp. Nơi đây ông thường tham gia tu pháp môn niệm Phật không gián đoạn, nên đã tạo cơ hội bồi dưỡng thêm cho thiên tài về âm nhạc của Lương Nhẫn. Về sau, ông đến ẩn cư ở vùng Đại Nguyên (大原, Ōhara), hoàn thành phần Thanh Minh do Viên Nhân (圓仁, Ennin) truyền lại, và khai xướng ra pháp môn Dung Thông Niệm Phật với khúc hợp xướng mang tính âm nhạc. Sau ông lại được cảm đắc về giáo lý Tự Tha Dung Thông (自他融通) từ đức Di Đà Như Lai, và khai sáng ra Dung Thông Niệm Phật Tông. Từ đó tiếng tăm ông vang khắp, chúng đạo tục khắp các nơi tập trung theo ông rất đông. Pháp môn Dung Thông Niệm Phật của Lương Nhẫn được tổ chức theo cách ghi tên vào sổ danh bạ, nên mọi người được gọi là Đồng Chí. Còn xướng niệm Phật thì chủ trương có công đức dung thông với nhau, cả đời này và đời sau đều được lợi ích to lớn. Sau khi Lương Nhẫn qua đời, có Nghiêm Hiền (嚴賢, tức Lương Huệ [良惠]), Minh Ứng (明應), Quán Tây (觀西), Tôn Vĩnh (尊永), Lương Trấn (良鎭) kế thừa ông; nhưng đến thời Pháp Minh (法明, tức Lương Tôn [良尊]) tiếp nối Lương Trấn, thì ngọn pháp đăng bị tuyệt diệt trong khoảng thời gian 140 năm trường. Tuy nhiên, chính trong khoảng thời gian này, Dung Thông Niệm Phật Tông lại được truyền bá đến các địa phương khác nhờ các vị Thánh Niệm Phật (念佛聖) và Thánh Khuyến Tấn (勸進聖). Trong số đó có Đạo Ngự (道御, tức Viên Giác Thập Vạn Thượng Nhân [圓覺十萬上人]) đã khởi xướng ra Dung Thông Đại Niệm Phật Cuồng Ngôn (融通大念佛狂言, ngày nay gọi là Nhâm Sanh Cuồng Ngôn [壬生狂言]) ở Địa Tạng Viện (地藏院) thuộc vùng Nhâm Sanh (壬生) vào năm 1257, rồi Dung Thông Đại Niệm Phật Hội (融通大念佛會) ở Pháp Kim Cang Viện (法金剛院) vào năm 1276, cũng như tại Thanh Lương Tự (清涼寺) vào năm 1279. Thêm vào đó, vị Tổ sư của Thời Tông (時宗, Jishū) là Nhất Biến (一遍, Ippen) cũng được gọi là “vị Thánh khuyên người Niệm Phật Dung Thông”. Nguyên lai, Dung Thông Niệm Phật của Lương Nhẫn là hình thức niệm Phật hợp xướng với số đông người, từ việc thể nghiệm sự cảm đắc mang tính huyễn mộng bằng cảm giác thông qua âm điệu phong phú, và cuối cùng trở thành Đại Niệm Phật. Hơn nữa, vì pháp môn này phù hợp với hoạt động quyên góp tiền để xây dựng chùa chiền, nên Tông này đã vượt qua các tông phái khác để lan truyền rộng rãi khắp toàn quốc nước Nhật; từ đó tập đoàn Dung Thông Niệm Phật cũng được hình thành ở các địa phương. Thư tịch hiện tồn nói lên sự hoạt động hưng thạnh rực rõ của tông phái này là Dung Thông Niệm Phật Duyên Khởi Hội Quyển (融通念佛緣起繪巻). Người có công lao to lớn trong việc lưu truyền di phẩm này là Lương Trấn. Kể từ năm 1382 cho đến 1423, trong vòng 42 năm trường, ở mỗi tiểu quốc trong nước Nhật đều được phân bố 1 hay 2 bản này. Những vị Thánh Khuyến Tấn tập trung theo Lương Trấn thì vẽ các bức tranh giải thích rõ về tác phẩm này, rồi khuyên mọi người tham gia vào Dung Thông Niệm Phật Tông; ghi tên những ai kết duyên với tông phái vào sổ danh bạ, và đem nạp vào Lưu Ly Đường (瑠璃堂) của Đương Ma Tự (當麻寺, Taima-ji) ở tiểu quốc Đại Hòa (大和, Yamato). Những hành sự đáng lưu ý nhất hiện tại vẫn còn được tiến hành trong Dung Thông Niệm Phật Tông là Ngự Hồi Tại (御回在), Truyền Pháp (傳法). Về lễ Ngự Hồi Tại, hằng năm người ta thường lấy tượng thời chính của Tông này đem đi vòng quanh các nhà tín đồ để cầu nguyện cũng như cúng dường cho tổ tiên. Còn lễ Truyền Pháp thì chỉ giới hạn trong 2 ngày mồng 5 và mồng 7 hằng tháng. Khi ấy, các tự viện trở thành đạo tràng nghiêm tịnh, các tín đồ đệ tử tập trung về tham bái, lễ sám, dội nước lên mình, nghe pháp tu hành, thọ giới Viên Đốn, và được truyền trao cho pháp an tâm của Tông môn. Hiện tại, tông này có khoảng 357 ngôi chùa khắp nơi trong nước như Ōsaka-fu (大阪府), Kyoto-fu (京都府), Nara-ken (奈良縣), Mie-ken (三重縣), Hyōgo-ken (兵庫縣).
(誵訛): khó thấy, khó khăn. Từ này được tìm thấy trong Hiển Hiếu Ngữ Lục (顯孝語錄) của Hư Đường Lục (虛堂錄), hay Cuồng Vân Tập (狂雲集) của Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純, Ikkyū Sōjun, 1394-1481): “Giá cá hào ngoa thọ dụng đồ, cổ kim nạp tử nhất nhân vô, Tố Lão Từ Minh đích dụng tử, Lệ Chi hạt tử tước hà thô (這箇誵訛受用徒、古今衲子一人無、素老慈明的傳子、荔支核子嚼何麁, khó hiểu câu nầy mấy ai dùng, xưa nay tu sĩ chẳng người thông, Thanh Tố chơn truyền Từ Minh ấy, liệu ăn hạt vải thấu trong lòng).” Hay như trong bài Tiền An Cư Nhật Cúng Cưu Văn (前安居日供鬮文) của Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận (靈峰蕅益大師宗論) có câu: “Tiệm chí lưu bố, nhiên ký tái tam phiên độc, thâm tri thời tệ đa đoan, bất nhẫn tùy tục hào ngoa, cọng thực như lai chánh pháp (漸至流布、然旣再三飜讀、深知時弊多端、不忍隨俗誵訛、共蝕如來正法, lưu truyền từ từ, rồi lại ba lần đọc kỹ, biết rõ thời buổi rắc rối, không nên theo tục khó khăn, lại hưởng chánh pháp Như Lai).”
(s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連): một trong 10 vị đại đệ tử của đức Phật, còn gọi là Ma Ha Mục Kiền Liên (s: Mahāmaudgalyāyana, p: Mahāmoggallāna, 摩訶目犍連), Đại Mục Kiền Liên (大目犍連), Đại Mục Càn Liên (大目乾連), Đại Mục Liên (大目連), Mục Liên (目連, 目蓮), Mục Già Lược (目伽略), Vật Già La (勿伽羅), Mục Kiền Liên Diên (目犍連延), Mục Kiền La Dạ Na (目犍羅夜那), Một Đặc Già La (沒特伽羅); biệt danh là Câu Luật Đà (s: Kolita, 拘律陀), Câu Luật (拘律), Câu Ly Ca (拘離迦), Câu Lý Ca (拘理迦); ý dịch là Thiên Bão (天抱); được xem như là Thần Thông Đệ Nhất (Thần Thông Số Một). Ông sinh ra trong một gia đình Bà La Môn ở thôn Câu Luật Đà, ngoại Thành Vương Xá (s: Rājagṛha; p: Rājagaha, 王舍城) thuộc nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀). Vừa mới sanh ra, ông đã có tướng mạo đoan chánh, từ nhỏ rất thâm giao với Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), người con của dòng họ Bà La Môn ở làng bên cạnh. Ban đầu, cả hai đều theo làm đệ tử của một trong 6 vị thầy ngoại đạo là San Xà Dạ (s: Sañjaya, 刪闍夜) và mỗi người đều có 250 đệ tử; thường cùng hẹn ước với Xá Lợi Phất rằng nếu ai giác ngộ giải thoát trước thì phải chỉ lại cho người kia; cho nên cả hai rất tinh tấn tu tập. Nhưng sau đó nhân nghe được lời thuyết pháp của đức Phật ở Thành Vương Xá, họ đã quy y theo Phật và Mục Kiền Liên trở thành vị đệ tử Thần Thông Đệ Nhất. Chỉ trong vòng một tháng, ông đã chứng quả A La Hán (s: arhat, p: arahant, 阿羅漢). Sau khi quy y với đức Phật, Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất trở thành các bậc thượng thủ trong đại chúng, thường xuyên hỗ trợ đức Phật trong việc giáo hóa chúng sanh. Theo Vu Lan Bồn Kinh (s: Ulambanasūtra, 盂蘭盆經), tương truyền chính ông đã cúng dường cho chúng tăng vào ngày Tự Tứ để cứu độ mẹ mình đang bị đọa lạc vào đường Ngạ Quỷ, nhân ngày rằm tháng 7 cúng dường mười phương Đại Đức chúng tăng vào ngày Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣), và hình thành nên lễ hội Vu Lan Bồn sau này. Như trong Kinh Sở Tuế Thời Ký (荆楚歳時記) có đoạn: “Mục Liên kiến kỳ vong mẫu sanh Ngạ Quỷ trung, tức dĩ bát thạnh phạn, vãng hướng kỳ mẫu, thực vị nhập khẩu, hóa thành hỏa thán, toại bất đắc thực; Mục Liên đại khiếu, trì hoàn bạch Phật, Phật ngôn nhữ mẫu tội trọng, phi nhữ nhất nhân sở nại hà, đương tu thập phương chúng tăng uy thần chi lực, chí thất nguyệt thạp ngũ nhật, đương vi thất đại phụ mẫu ách nạn trung giả, cụ bách vị ngũ quả, dĩ trước bồn trung, cúng dường thập phương đại đức, Phật sắc chúng tăng, giai vi thí chủ, chúc nguyện thất đại phụ mẫu, hành Thiền định ý, nhiên hậu thọ thực; thị thời Mục Liên mẫu, đắc thoát nhát thiết ngạ quỷ chi khổ (目連見其亡母生餓鬼中、卽以缽盛飯、徃餉其母、食未入口、化成火炭、遂不得食、目連大叫、馳還白佛、佛言汝母罪重、非汝一人所奈何、當須十方眾僧威神之力、至七月十五日、當爲七代父母厄難中者、具百味五果、以著盆中、供養十方大德、佛敕眾僧、皆爲施主、祝願七代父母、行禪定意、然後受食、是時目蓮母、得脫一切餓鬼之苦, Mục Liên thấy mẹ mình sanh trong Ngạ Quỷ, liền lấy bát đựng đầy cơm, đến cho mẹ ăn, thức ăn chưa vào miệng, đã hóa thành than lửa, cuối cùng chẳng ăn được. Mục Liên khóc lớn, trở về thưa lại với Phật. Phật bảo rằng mẹ ông tội nặng, không phải một mình ông có thể gánh vác được, cần phải nhờ vào oai lực của mười phương chúng tăng; đến ngày rằm tháng 7, nên vì bảy đời cha mẹ đang bị ách nạn, chuẩn bị đầy đủ trăm vị và năm món quả, đem đựng trong cái bồn để cúng dường những vị có đức lớn trong mười phương; Phật dạy chúng tăng, tất cả đều vì thí chủ mà cầu nguyện cho cha mẹ bảy đời, hành Thiền định, sau đó mới thọ nhận món ăn. Lúc bấy giờ mẹ của Mục Liên, được thoát khỏi cảnh khổ của ngạ quỷ).” Vào cuối đời, trong khi ông đang đi khất thực trong Thành Vương Xá thì gặp nhóm Phạm Chí (梵志) cầm đao trượng, môn đồ Bà La Môn vốn đã từng oán hận, ganh ghét giáo đoàn đức Phật, ném ngói, đá làm ông tử vong. Việc này xảy ra trước khi đức Phật nhập Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃). Ngài dựng tháp thờ ông một bên cửa Tinh Xá Trúc Lâm (s: Veṇuvana-vihāra, 竹林精舍). Ngoài ra, trong Mật Giáo, Mục Kiền Liên được an trí ở phía bên phải của Phật Thích Ca Mâu Ni trong Hiện Đồ Thai Tạng Giới Mạn Trà La Thích Ca Viện (現圖胎藏界曼茶羅釋迦院). Hình tượng của ông là vị Sa Môn (沙門), ngồi trên tòa hoa sen đỏ.
(s: pañca-sīla, p: pañca-śīla, 五戒): chỉ cho 5 loại giới điều do tầng lớp nam nữ tại gia thọ trì, trừ khi chúng ta không tin Phật, nhưng một khi đã tin Phật, học Phật thì nhất định phải thọ trì 5 giới điều này, gồm:
(1) Không sát sanh (p: pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不殺生, I undertake the training rule to abstain from taking life);
(2) Không trộm cắp (p: adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不偷盜, I undertake the training rule to abstain from taking what is not given);
(3) Không dâm dục (p: musāvāda veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不淫欲, I undertake the training rule to abstain from sexual misconduct);
(4) Không nói dối (p: musāvāda veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不妄語, I undertake the training rule to abstain from false speech); và
(5) Không uống rượu (p: surā-meraya-majja-pamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不飲酒, I undertake the training rule to abstain from drinks and drugs that cause heedlessness).
Năm Giới này còn gọi là Ưu Bà Tắc Ngũ Giới (優婆塞五戒), Ưu Bà Tắc Giới (優婆塞戒). Trong Phật Thuyết Diễn Đạo Tục Nghiệp Kinh (佛說演道俗業經, Taishō No. 820) có đoạn rằng: “Cư sĩ phục vấn: 'Sơ học đạo giả, thỉ dĩ hà chí ?' Phật ngôn: 'Tiên tập Ngũ Giới Tự Quy ư tam, hà vị Ngũ Giới ? Nhất viết từ tâm tư nhân bất sát, nhị viết thanh liêm tiết dụng bất đạo, tam giả trinh lương tiên khiết bất nhiễm, tứ viết đốc tín tánh hòa bất khi, ngũ viết yếu đạt chí minh bất loạn; hà vị Tam Tự Quy, nhất viết quy Phật vô thượng chánh chơn, nhị viết quy Pháp dĩ tự ngự tâm, tam viết quy chúng thánh chúng chi trung, sở thọ quảng đại, do như đại hải, mĩ sở bất bao' (居士復問、初學道者、始以何志、佛言、先習五戒自皈於三、何謂五戒、一曰慈心思仁不殺、二曰清廉節用不盜、三曰貞良鮮潔不染、四曰篤信性和不欺、五曰要達志明不亂、何謂三自皈、一曰皈佛無上正眞、二曰皈法以自御心、三曰皈眾聖眾之中、所受廣大、猶如大海、靡所不包, Cư sĩ lại hỏi: 'Người mới học đạo, trước hết lấy gì làm chí ?' Phật dạy: 'Trước tu tập Năm Giới và Ba Tự Quy Y, thế nào là Năm Giới ? Thứ nhất là từ tâm, thương người mà không giết hại; thứ hai là thanh liêm, tiết kiệm mà không trộm cắp; thứ ba là trinh tiết, trong sạch mà không ô nhiễm [không tà dâm]; thứ tư là một lòng tin, hòa thuận mà không xem thường [không nói dối]; thứ năm là cần đạt chí sáng suốt mà không rối loạn [không uống rượu]; thế nào là Ba Quy Y; một là Quy Y Phật, đấng vô thượng chánh chơn; hai là Quy Y Pháp, để tự chế ngự tâm; ba là Quy Y Tăng, trong các bậc Thánh; thọ trì rộng lớn, giống như biển lớn, không nơi nào không dung chứa').” Theo Kinh Lượng Bộ (s: Sautrāntika, 經量部) của Tiểu Thừa, người thọ Tam Quy thì đã trở thành Ưu Bà Tắc (s, p: upāsaka, 優婆塞); nhưng Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, 說一切有部) lại quy định rằng trước thọ Tam Quy, sau thọ Năm Giới mới được gọi là Ưu Bà Tắc. Ba giới đầu để phòng thân, giới thứ tư phòng về miệng, giới thứ năm phòng cả thân và miệng, bảo vệ cho cả 4 giới trên. Từ xưa, ở Trung Quốc đã phối hợp Ngũ Giới với Ngũ Thường (五常, Nhân [仁], Nghĩa [義], Lễ [禮], Trí [智], Tín [信]); rồi đặt giới Không Sát Sanh ở phương Đông, Không Trộm Cắp ở phương Bắc, Không Tà Dâm ở phương Tây, Không Uống Rượu ở phương Nam, và Không Nói Dối ở Trung Ương. Năm Giới đóng vai trò quan trọng và quyết định trong việc thoát ly sanh tử, chứng thành Phật đạo; cho nên trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh (優婆塞戒經, Taishō No. 1488) có dạy rằng: “Nhược hữu thuyết ngôn, ly Ngũ Giới độ sanh tử giả, vô hữu thử xứ. Thiện nam tử ! Nhược nhân dục độ sanh tử đại hải, ưng đương chí tâm thọ trì Ngũ Giới (若有說言、離五戒已度生死者、無有是處、善男子、若人欲度生死大海、應當至心受持五戒, nếu có người bảo rằng lìa Năm giới mà vượt qua sanh tử thì không có việc ấy. Này thiện nam tử ! Nếu có người muốn qua biển sanh tử lớn, hãy nên chí tâm thọ trì Năm Giới).” Hay Tứ Thập Nhị Chương Kinh (四十二章經, Taishō No. 784) cũng khẳng định rằng: “Phạn thiện nhân thiên, bất như phạn trì Ngũ Giới giả nhất nhân (飯善人千、不如飯持五戒者一人, cúng dường cơm cho ngàn người thiện không bằng cúng dường cơm cho một người giữ Năm Giới).” Một số lời dạy trong các kinh điển về việc hành trì Năm Giới như Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō No. 945) quyển 6 có câu: “Nhược bất đoạn sát, tu Thiền định giả, thí như hữu nhân, tự tắc kỳ nhĩ, cao thanh đại khiếu, cầu nhân bất văn (若不斷殺、修禪定者、譬如有人、自塞其耳、高聲大叫、求人不聞, người tu Thiền định, nếu không đoạn trừ sát sanh, ví như có người, tự bịt tai mình, la vang lớn tiếng, kêu người chẳng nghe).” Ưu Bà Tắc Giới Kinh quyển 6, Phẩm Ngũ Giới (五戒品) thứ 22 có dạy về giới trộm cắp rằng: “Nhược hữu chúng sanh thâu thiết thường trụ tài vật, cốc mễ, ẩm thực, y phục, nãi chí nhất vật bất dữ thủ giả, đương đọa Vô Gián Địa Ngục, cầu xuất vô kỳ (若有眾生偷竊常住財務、榖米、飲食、衣服、乃至一物不與取者、當墮無間地獄、求出無期, nếu có chúng sanh nào trộm cắp tài vật của thường trụ, thóc gạo, đồ ăn uống, áo quần, cho đến một vật không cho mà lấy, sẽ bị đọa Địa Ngục Vô Gián, không có thời hạn cầu mong thoát ra).” Trong khi đó, Vô Tự Bảo Khiếp Kinh (無字寶篋經, Taishō No. 828) khuyên rằng: “Ái tự mạng giả, tắc bất sát sanh; ái tự tài giả, bất đạo tha tài; ái tự thê giả, bất xâm tha thê (愛自命者、則不殺生、愛自財者、不盜他物、愛自妻者、不侵他妻, thương mạng sống mình, tất không sát sanh; thương tài sản mình, không lấy của người; thương vợ của mình, không phạm vợ người).” Lăng Nghiêm Kinh lại dạy về giới điều Không Nói Dối như sau: “Nhược bất đoạn kỳ đại vọng ngữ giả, như khắc nhân phẩn, vi Chiên Đàn hình, dục cầu hương khí, vô hữu thử xứ (若不斷其大妄語者、如刻人糞、爲旃檀形、欲求香氣、無有是處, nếu không đoạn trừ nói dối, như khắc phân người làm hình Chiên Đàn, muốn cầu hương thơm, không có việc ấy).” Về giới Không Uống Rượu, Ni Càn Tử Thọ Ký Kinh (尼乾子受記經) quyển 5, Phẩm Vấn Tội Quá (問罪過品) thứ 7, dạy rõ rằng: “Ẩm tửu đa phóng dật, hiện thế thường ngu si, vong thất nhất thiết sự, thường bị trí giả ha, lai thế thường ám độn, đa thất chư công đức, thị cố hiệt tuệ nhân, ly chư ẩm tửu thất (飲酒多放逸、現世常愚癡、忘失一切事、常被智者呵、來世常闇鈍、多失諸功德、是故黠慧人、離諸飲酒失, uống rượu nhiều buông túng, đời nay thường ngu si, quên mất tất cả chuyện, thường bị người trí trách, đời sau thường ngu độn, mất hết các công đức, cho nên người thông tuệ, lìa sai lầm uống rượu).” Trong Tử Bá Tôn Giả Toàn Tập (紫柏尊者全集, CBETA No. 1452) quyển 20, phần Trì Giới Kệ (持戒偈) có cảnh tỉnh người hành trì Năm Giới rằng: “Ngũ Giới bất trì, nhân thiên lộ cùng, cử túc hà vãng, ngưu mã thai trung (五戒不持。人天路窮。舉足何徃。牛馬胎中, Năm Giới chẳng giữ, trời người cùng đường, nhấc chân về đâu, vào thai trâu ngựa).”
(法燈): ngọn đèn chánh pháp, vì chánh pháp được ví như ngọn đèn sáng, có thể chiếu sáng và phá tan mọi u tối của thế gian. Trong Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh (千光眼觀自在菩薩祕密法經) có đoạn: “Thiện tai ! Thiện tai ! Thánh Quán Tự Tại ! Tùng vô lượng kiếp lai, thành tựu đại bi pháp môn lợi ích chúng sanh, ư sanh tử khổ hải vi tác thuyền phiệt, ư vô minh ám thường vi pháp đăng, duy nguyện Đại Thánh phổ vi đại hội cập đương lai nhất thiết chúng sanh cố, tùy ngã đẳng vấn năng thuyết kỳ pháp (善哉、善哉、聖觀自在、從無量劫來、成就大悲法門利益眾生、於生死苦海爲作船筏、於無明闇常爲法燈、唯願大聖普爲大會及當來一切眾生故、隨我等問能說其法, Lành thay ! Lành thay ! Thánh Quán Tự Tại ! Từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu pháp môn đại bi, làm lợi ích chúng sanh, nơi biển khổ sanh tử làm thuyền bè, nơi chỗ tối tăm vô minh thường làm ngọn đèn pháp; xin nguyện Đại Thánh rộng vì đại hội và hết thảy chúng sanh trong tương lai, tùy theo chỗ chúng con hỏi mà có nói pháp này).” Hay như trong bài Đại Đường Thần Đô Thanh Long Tự Cố Tam Triều Quốc Sư Quán Đảnh A Xà Lê Huệ Quả Hòa Thượng Chi Bi (大唐神都青龍寺故三朝國師灌頂阿闍梨惠果和尚之碑) do Đại Sư Không Hải (空海, Kūkai, 774-835) soạn, có đoạn: “Hoặc tác nhất nhân sư, hoặc vi Tứ Chúng y, pháp đăng mãn giới, lưu phái biến vức, tư cái đại sư chi pháp thí dã (或作一人師、或爲四眾依、法燈滿界、流派遍域、斯蓋大師之法施也, hoặc làm thầy của một người, hoặc làm nơi nương tựa cho Bốn Chúng, đèn pháp đầy cõi, dòng phái khắp nơi, cũng nhờ pháp thí của đại sư vậy).”
(沙界): chỉ cho Hằng hà sa số thế giới, cõi nước nhiều giống như cát sông Hằng. Như trong bản Đầu Đà Tự Bi Văn (頭陀寺碑文) của của Vương Triệt (王屮, ?-?) nhà Lương thời Nam Triều có câu: “Diễn vật chiếu chi minh, nhi giám cùng sa giới (演勿照之明、而鑒窮沙界, diễn bày ánh sáng không chiếu, mà soi tỏ cùng khắp sa giới).” Hay trong bài thơ Quán Hồ (觀湖) của thi sĩ Tô Thức (蘇軾, 1037-1101) nhà Tống lại có câu: “Hồi thủ bất tri sa giới thiểu, phiêu y do giác sắc trần cao (回首不知沙界小、飄衣猶覺色塵高, hồi đầu nào hay sa giới nhỏ, áo bay mới biết bụi trần cao).” Trong Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca (永嘉證道歌, Taishō Vol. 48, No. 2014) cũng có câu: “Đại thiên sa giới hải trung âu, nhất thiết thánh phàm như điện phất (大千沙界海中漚、一切聖賢如電拂, cõi nước cùng khắp trong bọt biển, hết thảy thánh phàm như điện chớp).” Hoặc trong Vĩnh Minh Trí Giác Thiền Sư Duy Tâm Quyết (永明智覺禪師唯心訣, Taishō Vol. 48, No. 2018) có đoạn: “Bất động vi hào chi công, phỉ di ty phát chi bộ, ưu du sa giới, biến lịch đạo tràng, hà Phật sát nhi bất đăng, vô nhất tướng nhi phi thật tướng, vô nhất nhân nhi phi viên nhân (不動微毫之功、匪移絲髮之步、優游沙界、遍歷道塲、何佛剎而不登、何法會而不涉、無一相而非實相、無一因而非圓因, chẳng động mảy lông công lao, không dời sợi tóc bước chân, rong chơi khắp chốn, trãi cùng đạo tràng, chẳng chùa Phật nào mà không đến, không pháp hội nào mà chẳng qua, không một tướng nào mà chẳng phải thật tướng, không một nhân nào mà chẳng phải nhân tròn).”
(山門): cửa núi. Các tự viện của Trung Quốc cũng như các nước Phật Giáo Đại Thừa phần lớn đều kiến lập trong núi; cho nên cổng lớn của chùa được gọi là Sơn Môn; tượng trưng cho cổng dẫn đến đường Bồ Đề, chuyển mê thành ngộ, rời ô nhiễm để nhập vào thanh tịnh, xa lìa khổ để chứng đắc an lạc. Thông thường Sơn Môn có một cổng hay 3 cổng; vì vậy có tên gọi là Bất Nhị Môn (不二門), hay Tam Môn (三門), thể hiện ba cánh cửa giải thoát, gồm: Không Môn (空門), Vô Tướng Môn (無相門) và Vô Tác Môn (無作門). Theo Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 20 có giải thích rằng: “Thí như thành hữu tam môn, nhất nhân thân bất đắc nhất thời tùng tam môn nhập; nhược nhập tắc tùng nhất môn; chư pháp thật tướng thị Niết Bàn thành, thành hữu tam môn: Không, Vô Tướng, Vô Tác (譬如城有三門、一人身不得一時從三門入、若入則從一門、諸法實相是涅槃城、城有三門、空、無相、無作, giống như thành có ba cổng, một thân người không thể cùng một lúc vào được ba cổng; nếu muốn vào thì phải vào một cổng; thật tướng của các pháp là thành Niết Bàn, thành ấy có ba cửa: Không, Vô Tướng, Vô Tác).” Hay như trong Lăng Nghiêm Kinh (楞嚴經) quyển 4 có câu: “Linh nhữ đản ư nhất môn thâm nhập, nhập nhất vô vọng, bỉ Lục Tri Căn nhất thời thanh tịnh (令汝但於一門深入、入一無妄、彼六知根一時清淨, khiến ngươi chỉ vào trong một cửa, vào rồi không sai lầm, sáu căn biết của người ấy nhất thời trong sạch).” Tánh quy nguyên vốn không có hai, và phương tiện thì có nhiều cửa để vào. Pháp môn tu hành của Phật Giáo có 84.000 loại khác nhau, tượng trưng cho vô số hình thức, phương pháp tu hành. Trong Phật Giáo Đại Thừa có rất nhiều hình thức cũng như cửa tu hành khác nhau, nhưng tựu trung nguyên tắc cũng như mục tiêu tu học thì giống nhau. Pháp môn vốn bình đẳng, không có cao thấp, sang hèn, tốt xấu, v.v. Như tại Thạch Đầu Tự (石頭寺), Hành Sơn (衡山), Tỉnh Hồ Nam (湖南省) có câu đối rằng: “Thạch kính hữu trần phong tự tảo, Sơn Môn vô tỏa nguyệt thường quan (石徑有塵風自掃、山門無鎖月常關, lối đá bụi trần gió tự quét, cửa Thiền chẳng khóa trăng thường soi).” Hay trong Tỉnh Am Pháp Sư Ngữ Lục (省庵法師語錄) quyển Hạ của Đại Sư Thật Hiền Tỉnh Am (實賢省庵, 1686-1734) có câu: “Tịnh Độ nhân hà độc chỉ Tây, yếu linh tâm niệm hữu quy thê, nhất môn nhập hậu môn môn nhập, sơ bộ mê thời bộ bộ mê (淨土因何獨指西、要令心念有歸栖、一門入後門門入、初步迷時步步迷, tịnh độ vì sao chỉ riêng Tây, cần khiến tâm niệm quay trở về, một cửa nhập rồi cửa cửa nhập, bước đầu mê lạc bước bước mê).” Trong thời công phu buổi khuya của Thiền môn có câu: “Thập Địa đốn siêu vô nan sự, Tam Môn thanh tịnh tuyệt phi ngu (十地頓超無難事、三門清淨絕非虞, Mười Địa siêu thăng không việc khó, Tam Môn thanh tịnh hết âu lo).”
(土公): tên gọi khác của Phước Đức Chánh Thần (福德正神), Thổ Chánh (土正), Xã Thần (社神), Xã Công (社公), Thổ Địa (土地), Thổ Bá (土伯), Thổ Địa Công (土地公). Vị này nguyên lai là Địa Thần, cũng là một loại thần tự nhiên. Từ thời cổ đại, người Trung Quốc đã có thờ Thần Đất rồi. Con người thường cho rằng đất đai có tài nguyên phong phú, sinh trưởng ngũ cốc, ngũ cốc lại có khả năng nuôi sống nhân loại, cho nên thường tâm niệm cám ơn đất đai, từ đó tôn sùng đất đai như là vị Thần. Trung Quốc cũng như Việt Nam đều phát triển nhờ nền văn minh lúa nước, làm nông; vì vậy ai ai cũng đều tôn trọng Thần Thổ Địa. Trong Lễ Ký (禮記), phần Giao Đặc Tánh (郊特性), có đoạn rằng: “Gia chủ Trung Lựu nhi quốc chủ xã (家主中霤而國主社, Chủ nhà Trung Lựu là thần chủ của nước)”; sớ giải thích: “Trung Lựu vi Thổ Thần (中霤爲土神).” Kế đến, Lã Thị Xuân Thu (呂氏春秋), phần Mạnh Đông Ký (孟冬記) ghi rằng: “Thị nguyệt dã … đại hại, từ ư công xã cập môn lư, hưởng tiên tổ ngũ tự (是月也...大割、祠於公社及門閭、饗先祖五祀, Tháng này … hại lớn, thờ nơi công xã và cổng làng, nhà, dâng cúng năm nơi thờ tự của tiên tổ).” Cao Dụ (高誘) chú thích rằng: “Ngũ tự, Mộc chánh Cú Mang kỳ tự Hộ, Hỏa chánh Chúc Dung kỳ tự Táo, Thổ chánh Hậu Thổ Kì tự Trung Lựu, Hậu Thổ vi xã, Kim chánh Nhục Thâu kỳ tự Môn, Thủy chánh Huyền Minh kỳ tự Tỉnh (五祀、木正句芒其祀戶、火正祝融其祀竈、土正后土其祀中霤、后土爲社、金正蓐收其祀門、水正玄冥其祀井, Năm nơi thờ tự gồm Mộc là Cú Mang thờ Thần Nhà, Hỏa là Chúc Dung thờ Thần Bếp, Thổ là Hậu Thổ thờ Trung Lựu, Hậu Thổ là thần, Kim là Nhục Thâu thờ Thần Cửa, Thủy là Huyền Minh thờ Thần Giếng).” Sách Bạch Hổ Thông (白虎通) cho rằng: “Xã, Thổ Địa chi thần dã (社、土地之神也, Xã là thần Thổ Địa).” và giải thích thêm: “Nhân phi thổ bất lập, phi cốc bất thực, cố phong thổ vi xã, thị hữu Thổ Địa dã (人非土不立、非穀不食、故封土立社、示有土地也, Con người không có đất thì không thể đứng được, không có lúa thóc thì không thể ăn được được; cho nên phong đất làm thần, từ đó có Thổ Địa).” Từ ngàn xưa, người Trung Quốc đã có nghi thức cùng tế Thổ Địa, như trong Lễ Ký có trích dẫn cho biết rằng: “Thiên tử xã tắc đều có chuồng nuôi lớn, chư hầu xã tắc thì có chuồng nuôi nhỏ; Xã là Thổ Thần, Tắc là Cốc Thần; Thiên tử tế Địa Thần thì lấy ba vật cúng trâu, dê, lợn làm chuồng lớn, còn chư hầu tế Địa Thần thì lấy hai vật cúng dê, lợn làm chuồng nhỏ.” Như vậy từ vị thần tự nhiên, Thổ Công đã được tôn vinh thành thần nhân cách, thậm chí được phong chức quan. Ông có thể cai quản một địa phương nhỏ, một khu, một dặm, hay một làng; nên được gọi là Tiểu Thần (thần nhỏ). Thế nhưng, cũng không nên khinh thường ông, như dân gian có tục ngữ rằng: “Đắc tội Thổ Địa Công, tự vô kê (得罪土地公、飼無雞, đắc tội với Ông Thổ Địa thì không nuôi gà được).” Bên cạnh vai trò làm cho người dân được ấm no, Thổ Thần còn giúp cho họ thêm giàu có; nên ông được xem như là Thần Tài (財神). Bằng chứng là những người làm nghề nông nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp đều tôn thờ vị thần này. Ngoài ra, vị này còn được xem như là thần giữ mộ, nên có tên là Hậu Thổ (后土). Tương truyền rằng những người làm việc tốt, quân tử, sau khi chết sẽ được ông Thành Hoàng cử đi làm Thổ Địa tại các địa phương. Trong Đạo Giáo, Thái Xã Thần (太社神), Thái Tắc Thần (太稷神), Thổ Ông Thần (土翁神), Thổ Mẫu Thần (土母神) đều là những vị thần có trách nhiệm quản lý đất đai. Tuy nhiên, trong thánh điển Phật Giáo không đề cập tên mấy vị này. Về việc Thổ Thần được tôn xưng là Phước Đức Chánh Thần, có câu chuyện như sau. Dưới thời nhà Chu, có Trương Phước Đức (張福德), là gia bộc của Thượng Đại Phu (上大夫) trong gia đình một nọ. Khi chủ nhân đi nhậm quan phương xa, trong nhà chỉ còn lại người con gái nhỏ, thường thương nhớ cha, muốn đi tìm thăm. Thấy vậy, Trương Phước Đức bèn dẫn cô bé đi ngàn dặm tìm cha, giữa đường gặp gió tuyết bão bùng, bé gái bị lạnh cóng sắp chết; khi ấy, Trương Phước Đức cởi áo mình ra để che lấy thân em bé, tự nhiên tánh mạng em nhỏ được cứu sống; nhưng ông thì bị chết cóng. Khi lâm chung, trên không trung hiện ra 7 chữ “Nam Thiên Môn Đại Tiên Phước Đức Thần (南天門大仙福德神)”, như để phong cho tấm lòng trung nghĩa của người nô bộc như ông. Cảm niệm sự trung thành ấy, Thượng Đại Phu cho lập miếu để thờ Trương Phước Đức. Chu Võ Vương (周武王) tặng cho hiệu là Hậu Thổ (后土); từ đó Thổ Thần cũng có tên gọi là Thần Phước Đức. Lại có truyền thuyết Ông Thổ Địa hạ phàm nhậm chức, hy vọng mọi người trên thế gian đều có tiền của, ai ai cũng đều sống an vui. Hay câu chuyện Minh Thái Tổ Chu Hồng Võ (明太祖洪武) cũng khá lý thú. Nhà vua thường giả dạng thường dân ra ngoài dân dã tuần du. Có hôm nọ, vua chợt gặp một gã thư sinh, cả hai cùng vào quán rượu bên đường đối ẩm; nhưng lúc ấy quán đầy ắp người, cả hai đành phải đứng chờ. Chợt nhìn phía sau, thấy có bàn thờ Phước Đức Chánh Thần, nhà vua bèn bưng bỏ xuống dưới đất sát vách tường và bảo rằng: “Ta tạm mượn chỗ ngồi của nhà ngươi chút nhé !” Rồi hai người ngồi xuống bàn uống rượu, một lúc sau nhà vua hỏi: “Ngươi quê ở làng nào ?” Thư sinh đáp: “Trùng Khánh (重慶)”. Nhân đó, nhà vua cử ngay một câu đối rằng: “Thiên lí vi trùng, trùng thủy trùng sơn Trùng Khánh Phủ (千里爲重、重水重山重慶府, Ngàn dặm muôn trùng, trùng nước trùng non Trùng Khánh Phủ).” Chàng thư sinh kia đáp ngay: “Nhất nhân thành đại, đại bang đại quốc đại minh quân (一人成大、大邦大國大明君, Một người thành lớn, lớn bang lớn nước lớn minh quân).” Cả hai hứng chí nhìn nhau cười thỏa thích, tận hứng mới trở về và quên không đặt bàn thờ Thổ Địa lại vị trí cũ. Đêm hôm đó,nhà vua mộng thấy Ông Thổ Địa về thưa rằng: “Hoàng Đế đã ra lệnh cho thần ngồi dưới đất, ngài không cần phải dời thần lên bàn nữa.” Qua câu chuyện này, chúng ta thấy rằng Ông Thổ Địa có cá tánh nhu hòa, bất kể giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, già trẻ, nơi nào có cầu thì nơi đó ông ứng thân ngay. Có lẽ cũng vì lý do này, hiện tại chúng ta thấy bàn thờ Thổ Địa thường được đặt dưới đất. Có thuyết cho rằng nơi miếu thờ Thổ Địa có Ông Cọp, là con vật do Ông Thổ Địa cỡi lên. Vị này cũng có công dụng trấn hộ miếu đường và xua đuổi các dịch bệnh. Nếu trẻ nhỏ bị sốt nóng, viêm nhiệt, có thể dùng giấy tiền xoa vào dưới cổ Ông Cọp, rồi đem dán lên chỗ bị đau thì sẽ hết bệnh. Dân gian Việt Nam có câu: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”; cho nên mỗi khi đào đất xây nhà, đào giếng, đào huyệt, v.v., đụng đến đất đai, người dân Việt Nam thường phải khấn vái vị thần này. Đặc biệt, vào dịp lễ Trung Thu hằng năm, trong các đoàn múa lân, chúng ta vẫn thấy có người đóng vai trò Ông Địa đi theo đoàn lân, cầm cây quạt phe phẩy với cái bụng bự như Thần Tài. Mặc dầu được gọi là Ông Đại, nhưng có thể theo thuyết của người Trung Hoa cho ông là Thần Tài, hơn nữa, tục lệ người Việt cho rằng lân vào nhà là đem tài lộc đến, nên ông cũng là hiện thân của Thần Tài trong dịp Trung Thu.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập