Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Yếu tố của thành công là cho dù đi từ thất bại này sang thất bại khác vẫn không đánh mất sự nhiệt tình. (Success consists of going from failure to failure without loss of enthusiasm.)Winston Churchill
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein
Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Luân »»
(s: Navagrahā, 九曜): 9 loại thiên thể chiếu sáng rất quan trọng trong hiện tượng thiên văn, còn gọi là Cửu Chấp (九執), tùy theo ngày giờ mà không xa rời nhau, có nghĩa nắm chặt nhau (chấp trì). Nghi quỹ trọng yếu của Cửu Diệu được thuyết trong Túc Diệu Kinh (宿曜經, 2 quyển, Bất Không [不空] dịch, Taishō 21, 1299), Thất Diệu Nhương Tai Quyết (七曜攘災決, Đường Kim Câu Tra [唐倶金吒] soạn, Taishō 21, 1308), Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp (七曜星辰別行法, Nhất Hành [一行] soạn, Taishō 21, 1309), Phạm Thiên Hỏa La Cửu Diệu (梵天火羅九曜, Nhất Hành [一行] soạn, Taishō 21, 1311). Về đồ hình của Cửu Diệu có Cửu Diệu Tôn Tượng (九曜尊像), Cửu Diệu Bí Lịch (九曜秘曆), v.v., phần lớn có các yếu tố thiên văn của Trung Quốc. Căn cứ vào lịch Ấn Độ bằng tiếng Phạn, Cửu Diệu được phân thành:
(1) Nhật Diệu (s: Āditya, 日曜): còn gọi là Thái Dương (太陽), Nhật Tinh (日精、日星), Nhật Đại Diệu (日大曜); hình tượng bàn tay phải xòe ra cầm Nhật Luân (bánh xe mặt trời), tai trái kê lên đầu gối, mang thiên y và cỡi trên mình 3 con bạch mã (hay 5 con ngựa, trong Phạm Thiên Hỏa La Cửu Diệu có thể nhầm sao này với Nguyệt Diệu);
(2) Nguyệt Diệu (s: Soma, 月曜): còn gọi là Nguyệt Thiên Diệu (月天曜), Nguyệt Tinh (月精、月星), Mộ Thái Âm (暮太陰), Thái Âm (太陰); hình tượng bàn tai phải xòe ra cầm hình mặt trăng có con thỏ nằm trên, tay trái đưa lên ngang ngực và ngồi xếp bằng hai chân giao nhau; hoặc hình tượng trên đỉnh đầu có con chim bồ câu, mang y Yết Ma, hai tay bỏ trong tay áo và cầm nguyệt luân (vòng tròn mặt trăng), cỡi lên trên 5 cánh chim bồ câu;
(3) Hỏa Diệu (s: Aṅgāraka, 火曜): còn gọi là Huỳnh Hoặc Tinh (熒惑星, Sao Hỏa), Hỏa Tinh (火精、火星), Hỏa Đại Diệu (火大曜), Phạt Tinh (罰星); hình tượng tay phải đặt trên bắp đùi, tay trái cầm cái giáo dài mũi nhọn, chân phải hơi nhếch lên một chút, ngồi với tư thế hai bàn chân giao nhau; tuy nhiên trong đồ hình Bắc Đẩu Mạn Trà La (北斗曼茶羅) thân hình vị này có màu đỏ, tóc rực lửa dựng ngược, mang áo và mũ trời, chung quanh lửa cháy, thân đứng với 4 tay;
(4) Thủy Diệu (s: Budha, 水曜): còn gọi là Thần Tinh (辰星), Thủy Tinh (水精、水星), Thần Tinh (辰星), Trích Tinh (滴星), Thủy Đại Diệu (水大曜); hình tượng chấp tay, ngồi xếp bằng hai bàn chân giao nhau; ngoài ra còn có hình tượng tay phải cầm bình, tay trái cầm xâu chuổi và ngồi bán già trên tòa hoa sen;
(5) Mộc Diệu (s: Bṛhaspati, 木曜): còn gọi là Tuế Tinh (歳星), Nhiếp Đề (攝提), Đại Chủ (大主), Mộc Đại Diệu (木大曜), Mộc Tinh (木精); hình tượng ngón tay áp út và ngón giữa của bàn tay phải cong lên, ngón tay cái ấn xuống trên hai ngón kia, tai trái để lên bắp đùi và ngồi xếp bằng hai chân giao nhau; ngoài ra còn có hình tượng tay trái cầm cây gậy trên có hình bán nguyệt, hay hình ông lão đứng, đội mũ đầu heo, tay trái cầm cây gậy;
(6) Kim Diệu (s: Śukra, 金曜): còn gọi là Thái Bạch Tinh (太白星), Trường Canh (長庚), Na Hiệt (那頡), Kim Tinh (金星、金精), Kim Đại Diệu (金大曜); hình tượng mang thiên y, tay phải để ngang ngực, tay trái đưa lên với 4 ngón tay bẻ gập lại và ngồi xếp bằng hai chân giao nhau; ngoài ra còn có hình tượng hai tay cầm bình và xâu chuỗi; hay hình người nữ đội con gà trên đầu và gãy đàn Tỳ Bà (琵琶);
(7) Thổ Diệu (s: Śanaiścara, 土曜): còn gọi là Trấn Tinh (鎭星), Thổ Tinh (土星、土精), Thổ Đại Diệu (土大曜); hình tượng ông lão khỏa thân đứng, mang quần da nai, tay phải cầm cây gậy tiên; hay hình Bồ Tát tay cầm bình; hoặc hình ông lão cỡi trâu, tay trái cầm tích trượng, có 2 đồng tử cầm giáo đứng hầu hai bên;
(8) La Hầu (s: Rāhu, 羅睺): còn gọi là Hoàng Phan Tinh (黃旛星), Thực Thần (蝕神), Thái Dương Thủ (太陽首); hình tượng ẩn trong mây với 2 bàn tay hai bên khuôn mặt giận dữ; bên cạnh đó còn có hình tượng giận dự với 3 mặt và tóc rực lửa, trên mỗi đỉnh đầu có đầu rắn và từ ngực trở xuống ẩn trong mây;
(9) Kế Đô (s: Ketu, 計都): còn gọi là Tuệ Tinh (彗星), Báo Vĩ Tinh (豹尾星), Kỳ Tinh (旗星), Thực Thần Vĩ (蝕神尾), Thái Âm Thủ (太陰首), Nguyệt Bộc Lực (月勃力); hình tượng nữa thân phải lộ ra khỏi mây, tay phải để ngang ngực, tay trái đưa lên cao; hay hình có khuôn mặt giận dữ, khỏa thể một nữa ẩn trong đám mây đen; hoặc hình tướng giận dữ có 3 mặt, trên mỗi mặt có 3 con rắn, từ ngực trở xuống ẩn trong mây. Trong đồ hình Bắc Đẩu Mạn Trà La thân hình vị này có màu đỏ, 3 mặt và 4 tay, tóc dựng ngược, mang áo và mũ trời, chân trái duỗi ra và cỡi lên con rồng. Ngoài ra còn có hình tượng tay phải ẩn trong đầu rồng, cầm lỗ tai con thỏ, tay trái cầm cương rồng và tóc người).
Trong Tân Đường Thư Lịch Chí (新唐書曆志) quyển 18 có ghi rằng vào năm thứ 6 (718) niên hiệu Khai Nguyên (開元) đời vua Huyền Tông, Thái Sử Giám Cù Đàm Tất Đạt (太史監瞿曇悉達) vâng chiếu phiên dịch Lịch Cửu Diệu; nó cũng tương tự với loại lịch Thái Dương bằng tiếng Phạn. Nếu phối hợp phương vị, Nhật Diệu thuộc về phương Sửu Dần, Nguyệt Diệu thuộc phương Tuất Hợi, Hỏa Diệu thuộc phương Nam, Thủy Diệu là phương Bắc, Mộc Diệu ở phương Đông, Kim Diệu ở phương Tây, Thổ Diệu ở trung ương, La Hầu ở phương Thìn Tỵ (Đông Bắc), Kế Đô thuộc phương Mùi Thân (Tây Nam). Hơn nữa, theo Thuyết Bản Địa của Nhật Bản, Nhật Diệu là Quan Âm (觀音, hay Hư Không Tạng [虛空藏]), Nguyệt Diệu là Thế Chí (勢至, hay Thiên Thủ Quan Âm [千手觀音]), Hỏa Diệu là Bảo Sanh Phật (寳生佛, hay A Rô Ca Quan Âm [阿嚕迦觀音]), Thủy Diệu là Vi Diệu Trang Nghiêm Thân Phật (微妙莊嚴身佛, hay Thủy Diện Quan Âm [水面觀音]), Mộc Diệu là Dược Sư Phật (藥師佛, hay Mã Đầu Quan Âm [馬頭觀音]), Kim Diệu là A Di Đà Phật (阿彌陀佛, hay Bất Không Quyên Sách [不空羂索]), Thổ Diệu là Tỳ Lô Giá Na Phật (毘盧遮那佛, hay Thập Nhất Diện Quan Âm [十一面觀音]), La Hầu là Tỳ Bà Thi Phật (毘婆尸佛), Kế Đô là Bất Không Quyên Sách (不空羂索). Người xưa thường phối hợp Cửu Diệu này với tuổi tác của con người để phán đoán tốt xấu.
(妙本寺, Myōhon-ji): ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Chánh Tông, hiện tọa lạc tại số 1-15-1 Ōmachi (大町), Kamakura-shi (鎌倉市), Kanagawa-ken (神奈川縣); hiệu núi là Trường Hưng Sơn (長興山), được kiến lập vào năm 1260 (Văn Ứng [文應] nguyên niên). Tượng thờ chính của chùa là đồ hình Thập Giới Mạn Trà La (十界曼荼羅), bảo vật của chùa; tương truyền khi Nhật Liên lâm chung tại tư dinh của Trì Thượng Tông Trọng (池上宗仲), bức đồ hình nằm dưới gối của Người. Người khai cơ là Tỷ Xí Năng Bổn (比企能本, Hiki Yoshimoto), và khai sơn là Nhật Lãng (日朗). Tương truyền hiệu núi có liên quan đến Tỷ Xí Năng Viên (比企能員, Hiki Yoshikazu), và tên chùa có liên hệ đến pháp danh của Năng Viên. Có thuyết cho rằng duyên khởi của chùa bắt đầu từ sự việc Tỷ Xí Năng Bổn cúng dường tư dinh vào năm 1274 (Văn Vĩnh [文永] 11), khi Nhật Liên vừa được tha tội và trở về Liêm Thương. Tương truyền đất chùa xưa kia là di tích dinh thự của dòng họ Tỷ Xí vốn bị diệt vong vào năm 1203 (Kiến Nhân [建仁] 3); cho nên vẫn còn các di tích mộ tháp của dòng họ này. Vị trú trì Nhật Luân (日輪) là người kiêm nhiệm cả chùa này lẫn Bổn Môn Tự (本門寺, Honmon-ji) ở Trì Thượng (池上, Ikegami). Trong khuôn viên chùa có Thích Ca Đường, Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji) đã từng bổ nhiệm các vị Cúng Tăng đến đây phục dịch; và sau này Túc Lợi Trì Thị (足利持氏, Ashikaga Mochiuji) lại đặt chức Cúng Tăng tại đây; cho nên uy thế của chùa phát triển mạnh dưới thời đại Thất Đinh. Tuy nhiên, chùa cũng đã trãi qua bao lần bị hỏa tai. Đến thời đại Giang Hộ, các ngôi đường xá được tu tạo và chỉnh trang; cho nên có hơn chục ngôi tháp viện; nhưng hiện tại không còn nữa. Quần thể già lam hiện tồn có Sơn Môn, Tổ Sư Đường, Chánh Điện, Tàng Kinh, Lầu Chuông, Linh Bảo Điện, v.v. Bảo vật của chùa có bức đồ hình Thập Giới Mạn Trà La, tượng Thích Ca Như Lai, tượng Nhật Liên Thánh Nhân bằng gỗ, v.v.
(日朗, Nichirō, 1245-1320): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương, một trong Lục Lão Tăng (六老僧); Tổ của Dòng Phái Nhật Lãng (日朗門流); húy là Nhật Lãng (日朗), tên lúc nhỏ là Cát Tường Ma Lữ (吉祥麻呂); thông xưng là Đại Quốc A Xà Lê (大國阿闍梨), tự là Đại Quốc (大國); hiệu Chánh Pháp Viện (正法院), Trúc Hậu Phòng (筑後房); xuất thân vùng Năng Thủ (能手), Hạ Tổng (下總, Shimōsa); con của Ấn Đông Thứ Lang Tả Vệ Môn Úy Hữu Quốc (印東次郎左衛門尉有國). Ông theo học giáo lý với người chú là Nhật Chiêu (日昭), rồi sau đó xuất gia theo Nhật Liên. Năm 1271, khi chính quyền Mạc Phủ cũng như các tông phái khác đàn áp Nhật Liên Tông, ông bị bắt giam tại Liêm Thương, rồi sau đó ông ở lại đây để lãnh đạo giáo đoàn và truyền đạo. Năm 1282, khi Nhật Liên sắp lâm chung, ông được chọn làm một trong 6 đệ tử chân truyền. Rồi sau khi thầy qua đời, ông lấy hai chùa Bổn Môn Tự (本門寺) ở vùng Trì Thượng (池上, Ikegami) và Diệu Bổn Tự (妙本寺) ở Liêm Thương làm cứ điểm để phát triển giáo đoàn. Ông đào tạo ra nhóm đệ tử Nhật Tượng (日像), Nhật Luân (日輪), Nhật Điển (日典), và tạo thành một phái riêng gọi là Dòng Phái Nhật Lãng. Trước tác của ông có Bổn Tích Kiến Văn Sao (本迹見聞抄) 1 quyển, Bổn Tích Vi Mục (本迹違目) 1 quyển, Như Thiên Cam Lồ Sao (如天甘露抄) 1 quyển, Bổn Tôn Minh Kính Sao (本尊明鏡抄) 1 quyển, v.v.
(s: Sudhana-śreṣṭhi-dāraka, 善財童子): là vị Bồ Tát cầu đạo trong Phẩm Nhập Pháp Giới (入法界品) của Kinh Hoa Nghiêm, từng đi về phía Nam tham vấn 53 vị thiện tri thức, cho đến Bồ Tát Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢) thì thành tựu Phật đạo. Phật Giáo Đại Thừa lấy trường hợp này làm bằng chứng của Tức Thân Thành Phật (卽身成佛); quá trình cầu pháp của Đồng Tử thể hiện các giai đoạn nhập vào pháp giới Hoa Nghiêm. Căn cứ vào Phẩm Nhập Pháp Giới của Cựu Hoa Nghiêm Kinh (舊華嚴經) quyển 45, Thiện Tài Đồng Tử là con tai của trưởng giả Phước Thành (福城), lúc vào bào thai và hạ sanh, có các loại trân bảo tự nhiên hiện ra, nên có tên là Thiện Tài (善財). Về sau, Đồng Tử được Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利) dạy dỗ, rồi ngao du đến các nước phương Nam. Ban đầu, Đồng Tử đến Khả Lạc Quốc (可樂國), tham vấn Tỳ Kheo Công Đức Vân (功德雲), nhận pháp môn Niệm Phật Tam Muội (念佛三昧). Tiếp theo, Đồng Tử đã từng tham vấn qua đủ các hạng người như Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, đồng tử, đồng nữ, Dạ Thiên, Thiên Nữ, Bà La Môn, Trưởng Giả, thầy thuốc, người lái thuyền, quốc vương, tiên nhân, Phật mẫu, vương phi, Thần Đất, Thần Cây, v.v.; lắng nghe và thọ nhận đủ loại pháp môn; cuối cùng đến đạo tràng của Bồ Tát Phổ Hiền thì chứng vào Pháp Giới Vô Sanh (無生法界). Theo Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký (華嚴經探玄記, Taishō Vol. 35, No. 1733) quyển 18 cho biết, hành chứng của Đồng Tử thông với Tam Sanh (三生, ba đời) là thấy nghe (đời trước), hành giải (đời này), chứng nhập (đời sau); tức biểu thị trong một đời này, Thiện Tài tu đủ những pháp hành của 5 vị là Thập Tín (十信), Thập Trụ (十住), Thập Hành (十行), Thập Hồi Hướng (十迴向), Thập Địa (十地). Đây chính là nghĩa “Tam Sanh Thành Phật (一生成佛, Thành Phật Ba Đời).” Tuy nhiên, Hoa Nghiêm Tông chỉ có thuyết Nhất Sanh Thành Phật (一生成佛, Thành Phật Một Đời); cho nên khi nói ba đời ở đây biểu thị sự phân vị của pháp môn, thật tế thì trong một đời một niệm đã có ba đời; vì vậy chủ trương ba đời thấy nghe, hành giải, chứng nhập có thể trong một đời mà thành Phật. Do đó, việc thành Phật của Thiện Tài Đồng Tử có hai thuyết là Tam Sanh Thành Phật và Nhất Sanh Thành Phật. Ngoài ra, việc Đồng Tử tham vấn các thiện tri thức biểu thị thứ tự trước sau của nhân quả tiệm chứng (因果漸證, chứng ngộ từ từ theo nhân quả). Có nhiều kệ tán cũng như hình tượng liên quan đến lịch trình cầu đạo của Thiện Tài Đồng Tử, như Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Pháp Giới Phẩm Tán (大方廣佛華嚴經入法界品讚) của Dương Kiệt (楊傑, hậu bán thế kỷ 11) nhà Bắc Tống, được tìm thấy trong Viên Tông Văn Loại (圓宗文類, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 58, No. 1015) quyển 22; tỷ dụ bài Diệu Đức Viên Mãn Chủ Dạ Thần Tán (妙德圓滿主夜神讚) rằng: “Lâu các trang nghiêm tiếp Thiện Tài, chư thiên vi nhiễu hóa môn khai, Tỳ Lô Hải Tạng ngô thân nhập, tằng kiến Thế Tôn Đâu Suất lai (樓閣莊嚴接善財、諸天圍遶化門開、毗盧海藏吾親入、曾見世尊兜率來, lầu gác trang nghiêm tiếp Thiện Tài, chư thiên quanh nhiễu hóa cửa khai, Tỳ Lô biển tánh ta vào thẳng, từng thấy Thế Tôn Đâu Suất [đến] đây).” Hay tác phẩm Ngũ Tướng Trí Thức Tụng (五相智識頌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 58, No. 1022) của Trung Sư (忠師); như bài tụng rằng: “Kỳ tai bất động Ưu Bà Di, thần biến đa năng xuất định thì, cố vấn Thiện Tài hoàn kiến phủ, nhất luân minh nguyệt ấn thiên trì (奇哉不動優婆夷、神變多能出定時、顧問善財還見否、一輪明月印天池, lạ thay Ưu Bà Di, thần biến đa năng xuất định khi, muốn hỏi Thiện Tài thấy chăng nhỉ, một vầng trăng sáng giữa hồ trời).” Bên cạnh đó, Thiền Sư Phật Quốc Duy Bạch (佛國惟白, ?-?), tu sĩ của Vân Môn Tông sống dưới thời Bắc Tống, cũng có bản Phật Quốc Văn Thù Chỉ Nam Đồ Tán (佛國文殊指南圖讚, Taishō Vol. 45, No. 1891), v.v. Tại các tự viện Thiền Tông, thông thường bên tay trái của Bồ Tát Quán Thế Âm thường có an trí tượng Thiện Tài Đồng Tử. Trong Thiền môn có bài tán về Thiện Tài rằng: “Thiện Tài Đồng Tử, ngũ thập tam tham, siêu sanh tử độ cô hồn, tảo vãng Tây phương, nhược nhơn quy y, Phật Pháp Tăng Tam Bảo, bất đọa Tam Đồ (善財童子、五十三參、超生死度孤魂、早往西方、若人歸依、佛法僧三寶、不墮三途, Thiện Tài Đồng Tử, năm ba lần tham, vượt sanh tử độ cô hồn, sớm qua Tây phương, nếu người quy y, Phật Pháp Tăng Tam Bảo, không đọa Ba Đường).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập