Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Liên Tông »»
(本覺寺, Hongaku-ji): ngôi chùa của Nhật Liên Tông, hiệu là Thường Tại Sơn (常在山), hiện tọa lạc tại Mishima-shi (三島市), Shizuoka-ken (靜岡縣). Tương truyền rằng ngôi chùa này do Nhất Thừa Phòng Nhật Xuất (一乘房日出) khai sáng vào năm 1424 (Ứng Vĩnh [應永] 31). Ông vốn là vị Tăng của Thiên Thai Tông, sau được Nhật Học (日學) ở Cửu Viễn Tự (久遠寺) tại Thân Diên Sơn (身延山) giáo hóa, nên ông cải hóa theo Nhật Liên Tông, rồi đến bố giáo ở các vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai), Y Đậu (伊豆, Izu).
(本滿寺, Honman-ji): ngôi chùa của Nhật Liên Tông, là một trong 21 ngôi Đại Bản Sơn ở kinh đô Kyoto, hiệu là Quảng Tuyên Lưu Bố Sơn (廣宣流布山), hiện tọa lạc tại Tsuruyama-chō (鶴山町), Jōkyō-ku (上京區), Kyoto-shi (京都市). Ngọc Động Diệu Viện Nhật Tú (玉洞妙院日秀) là người khai sáng ra chùa này. Sau này nhóm Nhật Trùng (日重), Nhật Càn (日乾), Nhật Viễn (日遠) là những nhà lãnh đạo trong việc phát triển về giáo học cũng như giáo đoàn, và nơi đây là cứ điểm của Phái Thọ Nhận, đối lập với Phái Không Thọ Nhận.
(本法寺, Honbō-ji): ngôi chùa của Nhật Liên Tông, do Nhật Thân (日親) khai sáng, hiện tọa lạc tại Honbōjimae-chō (本法寺前町), Jōkyō-ku (上京區), Kyoto-shi (京都市). Tượng thờ chính là Thập Giới Mạn Trà La (十界曼荼羅). Ban đầu khoảng vào năm 1437 (Vĩnh Hưởng [永享] 9), chùa được xây dựng tại Đông Động Viện (東洞院), rồi sau đó khi Nhật Thân bị bắt giam vào ngục thất thì chùa bị phá hủy, và đến khoảng niên hiệu Khang Chánh (康正, 1455-1457), chùa được Tứ Điều Cao Thương (四條高倉) tái kiến lại. Đến năm 1487 (Trường Hưởng [長享] nguyên niên), Nhật Thân bắt đầu chế ra phần Bổn Pháp Tự Pháp Thức (本法寺法式), viết cuốn Bổn Pháp Tự Duyên Khởi (本法寺緣起) để trình bày những việc làm của mình. Đây là một trong 21 ngôi Đại Bản Sơn ở kinh đô Kyoto. Sau đó, thể theo mệnh lệnh của Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), chùa được dời về vị trí hiện tại vào năm 1590 (Thiên Chánh [天正] 18). Chùa này là một trong 3 cứ điểm của Dòng Phái Trung Sơn (中山門流).
(本國寺 hay 本圀寺, Honkoku-ji): một trong 4 ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại Misasagiōiwa-chō (御陵大岩町), Yamashina-ku (山科區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); sơn hiệu là Đại Quang Sơn (大光山), được kiến lập vào năm 1253 (Kiến Trường [建長] 5). Đây là ngôi chùa do Nhật Tĩnh (日靜) lập nên nhờ sự ngoại hộ của Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji). Năm 1263 (Hoằng Trường [弘長] 3), chùa được đổi tên thành Đại Quang Vô Lượng Sơn Bổn Quốc Độ Diệu Tự (大光無量山本國土妙寺). Vào năm 1345 (Trinh Hòa [貞和] nguyên niên), ông dời ngôi Pháp Hoa Đường do Nhật Liên Thánh Nhân lập nên ở Tùng Diệp Cốc (松葉谷), Liêm Thương, đến vùng Lục Điều Quật Xuyên (六條堀川) thuộc kinh đô Kyoto. Đến năm 1536 (Thiên Văn [天文] 5), do vì pháp nạn, chùa bị đồ chúng của Diên Lịch Tự (延曆寺) đốt cháy tan tành, nhưng 11 năm sau thì chùa lại được tái hưng như cũ, khai mở đàn lâm và tập trung học tăng về rất đông. Cái tên Hán văn Bổn Quốc Tự (本國寺) được đổi thành Bổn Quốc Tự (本圀寺) là do vị quan Trung Nạp Ngôn Thủy Hộ Quang Quốc (水戸光圀, Mito Mitsukuni) đã từng ngoại hộ đắc lực cho chùa. Và đến năm 1970 (Chiêu Hòa [昭和] 45), chùa được dời về vị trí hiện tại. Tượng thờ chính của chùa là bức đồ hình Mạn Trà La do Nhật Liên vẽ nên. Chùa hiện còn lưu giữ rất nhiều bảo vật có giá trị.
(本末制度, Honmatsu-seido, Bản Mạt Chế Độ): chế độ mang tính giai cấp phong kiến phân biệt giữa chùa chính (chùa bản sơn trung tâm) với chùa con trong hệ thống tự viện Phật Giáo. Chế độ này được quy định dưới thời Cận Đại, với tư cách là chế độ có hệ thống hẳn hòi. Mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con dưới thời Trung Đại là chế độ được sản sinh từ tính tất yếu trong nội bộ Tông phái, là chế độ Ngũ Sơn thuộc thể chế quan quyền do chính quyền Mạc Phủ Thất Đinh tác thành. Về chế độ được sản sinh từ tính tất yếu trong nội bộ Tông phái, từ đầu thời đại Thất Đinh trở đi, vị Du Hành Thượng Nhân của Thanh Tịnh Quang Tự (清淨光寺, Shōjōkō-ji) khi đi hành cước các tiểu quốc, ông đã từng cải tông các tự viện của Tông phái khác, thăng cách những am đền lên thành chùa, vè biến chúng thành những ngôi chùa con của ông. Nhật Liên Tông thì cũng giống như trường hợp Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺, Hokkekyō-ji) ở Trung Sơn (中山, Nakayama), đã lấy thư thệ nguyện gọi là Trạng Quy Phục để xác lập mối quan hệ này. Trường hợp Tịnh Độ Tông thì lập ra những trường Đàn Lâm (檀林, danrin) ở miền quê vùng Quan Đông (關東, Kantō) làm đạo tràng học vấn, và xác lập mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con thông qua việc tương thừa giữa thầy với trò. Đối với Tịnh Độ Chơn Tông, Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji) hạ lệnh cho những ngôi chùa con phải thờ tượng thờ chính A Di Đà Như Lai bằng gỗ để phân biệt rõ mối quan hệ này. Vào năm 1386 (Chí Đức [至德] 3), chính quyền mạc phủ thất đinh đã ban hành Chế Độ Chùa Chính Chùa Con theo thể chế quan quyền đối với Ngũ Sơn, Thập Sát và chư sơn của Lâm Tế Tông. Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji) ở Kyoto được đặt hàng đầu, tiếp theo dưới đó là Thập Sát ở kinh đô, Thập Sát ở Quan Đông; rồi đặt ra nhưũng ngôi chùa trung tâm ở các tiểu quốc để tạo mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con trùng trùng như vậy. Đến thời Cận Đại, chế độ này cũng được cải biên theo mục đích tổ chức các tự viện trên cơ cấu chính trị. Cho đến tháng 7 năm 1615 (Nguyên Hòa [元和] nguyên niên), Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) đã hạ chiếu chỉ giải thích về pháp luật tự viện đối với những ngôi chùa trung tâm của các Tông phái. Nội dung của pháp luật ấy quy định việc những ngôi chùa trung tâm bản sơn của các Tông phái có đặc quyền về kinh tế cũng như chính trị kể từ thời Trung Đại trở về sau, việc chùa trung tâm bản sơn có quyền bãi miễn chức Trú Trì của chùa con, việc chùa con phải phục tùng tuyệt đối mệnh lệnh của chùa trung tâm, việc chùa trung tâm quy định nơi tu hành cũng như học tập của Tông phái và sau khi học xong thì đương sự phải có nghĩa vụ phục vụ nơi ấy một thời gian nhất định nao đó, việc chùa trung tâm có quyền hạn thăng cách giai cấp Tăng lữ, v.v. Về mặt pháp lịnh, mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con được xác lập theo pháp luật tự viện, nhưng thực tế chế độ hóa vẫn còn hơi chậm. Vào năm 1632 (Khoan Vĩnh [寛永] 9), chính quyền Mạc Phủ ra lệnh cho những ngôi chùa trung tâm bản sơn của các Tông phái phải dâng nộp lên danh sách Chùa Chính Chùa Con của Tông phái mình, và buộc phải thi hành chế độ này. Trong lúc đó, về phía các ngôi chùa trung tâm lại lợi dụng cơ hội này để xác lập vững chắc sự chi phối các chùa con. Theo nguyên tắc, đương thời kèm theo bản danh sách Chùa Chính Chùa Con có các điều kiện xin chùa công nhận và tất nhiên các ngôi tự viện cổ xưa cũng được ban cho đặc quyền khác. Tuy nhiên, mấy năm sau khi Chế Độ Xin Chùa Công Nhận (寺請制度, Terauke-seido) ra đời, chính chùa con cũng thỉnh thoảng xảy ra việc chùa con tranh đoạt tín đồ, rồi chùa chính tranh giành chùa con; vì thế các nhà Nho học đã phê phán kịch liệt Chế Độ Chùa Chính Chùa Con này. Chính vì lẽ đó, thể theo văn bản pháp luật Chư Tông Tự Viện Pháp Độ (諸宗寺院法度), vào tháng 7 năm 1665 (Khoan Văn [寛文] 5), chính quyền Mạc Phủ đã sửa đổi lại chế độ này, nhấn mạnh rằng chùa chính không được xem thường ý hướng của chùa con để cưỡng quyền. Thế nhưng, một khi đã có được quyền hạn tối cao trong tay, những ngôi chùa chính không dễ gì để nó mất đi được; và họ đã đưa ra Luật Chùa Con để tăng cường quyền hạn của mình thêm lên. Từ đó, việc quản lý về thân phận Tăng lữ ở chùa con, quyền bổ nhiệm người trú trì tương lai của chùa, rồi quyền quản lý tài sản của chùa con, v.v., bị nắm chặt hơn trong tay của chùa chính. Thời đại qua đi, những ngôi chùa chính lại tái biên tư cách của chùa con, và càng tăng cường mạnh việc quản lý chặt chẽ các chùa con hơn trước. Cùng với việc tiến hành cho chư tăng ở chùa con đến tham bái chùa chính trong những dịp lễ Húy Kỵ Tổ sư khai sáng Tông phái, lễ hội hằng năm, hay Đại Pháp Hội, các chùa chính đã ra quy định rằng chùa con phải cúng dường đúng lượng vào những dịp này. Từ đó, nảy sinh ra việc cạnh tranh nhau xây dựng, tu sửa già lam của chùa chính. Những ngôi già lam hùng vĩ hiện còn chính là sản phẩm của Chế Độ Chùa Chính Chùa Con này. Và mãi cho đến ngày nay, chế độ này vẫn còn tồn tại.
(久遠寺, Kuon-ji): ngôi chùa Tổng Bản Sơn trung tâm của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại số 3567 Minobu (身延), Minobu-chō (身延町), Minamikoma-gun (南巨摩郡), Yamanashi-ken (山梨縣); hiệu núi là Thân Diên Sơn (身延山), tên gọi chính thức là Thân Diên Sơn Diệu Pháp Hoa Viện Cửu Viễn Tự (身延山妙法華院久遠寺), tượng thờ chính là Thập Giới Mạn Trà La (十界曼荼羅). Đây là di tích quan trọng đánh dấu Nhật Liên (日蓮, Nichiren) đã từng lưu trú kể từ năm thứ 11 (1274) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), và cũng là nơi được biến thành tự viện với ngôi Miếu Đường làm trung tâm sau khi Nhật Liên qua đời vào năm thứ 5 (1282) niên hiệu Hoằng An (弘安). Tên chùa được thấy đầu tiên qua thư tịch ghi năm 1283 là Thân Diên Sơn Cửu Viễn Tự Phiên Trương (身延山久遠寺番帳). Về ngôi Miếu Đường, 6 người cao đệ chân truyền của Nhật Liên cùng với 12 người khác, tổng cọng là 18 người, thay phiên nhau mỗi người 1 tháng canh giữ; nhưng không bao lâu sau thì hủy bỏ quy định này. Vào khoảng năm 1284, 1285, Nhật Hưng (日興) trở thành người thường trú ở đây, và trong khoảng thời gian này có Nhật Hướng (日向) cũng cùng chung sức duy trì và phát triển Thánh địa này. Tuy nhiên, Nhật Hưng lại bất hòa với lãnh chúa Ba Mộc Tỉnh Thật Trường (波木井實長), tín đồ đắc lực từ thời Nhật Liên; cho nên vào năm đầu (1288) niên hiệu Chánh Ứng (正應), ông lui về vùng Phú Sĩ (富士, Fuji), Tuấn Hà (駿河, Suruga). Từ đó trở về sau, Nhật Hướng và môn lưu của ông kế thừa chùa này. Hệ thống của ông được gọi là Dòng Phái Nhật Hướng (日向門流), Dòng Phái Thân Diên (身延門流). Từ đó, Cửu Viễn Tự mở rộng giáo tuyến, và đôi khi chùa mang đậm sắc thái là ngôi tự viện của chính dòng họ Ba Mộc Tỉnh. Trong khoảng thời gian 10 năm từ năm đầu (1466) niên hiệu Văn Chánh (文正) cho đến năm thứ 7 (1475) niên hiệu Văn Minh (文明), Nhật Triêu (日朝), vị Quán Thủ đời thứ 11 của chùa, đã di chuyển ngôi đường vũ cũng như các kiến trúc khác ở Tây Cốc (西谷) đến vị trí hiện tại; đồng thời ông cũng quy định ra những hành sự trong năm, đặt ra cơ quan điều hành các lễ hội hàng tháng và mở rộng giáo hóa. Cửu Viễn Tự thời Trung Đại chủ yếu lấy vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai), Tuấn Hà (駿河, Suruga) làm cứ điểm hoạt động. Tướng Quân Võ Điền Tình Tín (武田晴信, Takeda Harunobu, tức Tín Huyền [信玄, Shingen]) của Giáp Phỉ tiến hành cầu nguyện ở Cửu Viễn Tự cho vận thế của dòng họ Võ Điền (武田, Takeda) được dài lâu; đồng thời bảo chứng cho quyền trú trì của chùa. Bên cạnh đó, trung thần của ông là Huyệt Sơn Tín Quân (穴山信君) cũng dốc toàn lực bảo trợ cho chùa. Sau khi dòng họ Võ Điền qua đời, Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) lên thay thế nắm chính quyền vùng Giáp Phỉ, cũng tiếp tục bảo hộ cho chùa, rồi vào năm thứ 16 niên hiệu (1588) niên hiệu Thiên Chánh (天正), ông quy định miễn trừ các lao dịch cho chùa và bảo chứng quyền trú trì ở đây. Về sau, qua các đời chùa được ban cho như quy định cũ. Đến đầu thời Cận Đại, từ vụ đàn áp Phái Không Nhận Không Cho vốn phát sinh qua cuộc tựu nhiệm trú trì Quán Thủ chùa cho Nhật Càn (日乾), Nhật Viễn (日遠) của Bổn Mãn Tự (本滿寺) ở Tokyo, nơi đây trở thành chủ tọa cho giáo đoàn Nhật Liên trên toàn quốc. Trong bản Pháp Hoa Tông Chư Tự Mục Lục (法華宗諸寺目錄) được hình thành năm thứ 10 (1633) niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永), những chùa con trực thuộc Cửu Viễn Tự có 412 cơ sở; và chùa còn gián tiếp quản lý 1.519 ngôi chùa con khác nữa. Mặt khác, theo sự tăng dần số lượng người đến tham bái từ cuối thời Trung Đại trở đi, những ngôi viện con xuất hiện. Trú trì cũng như tăng chúng của các viện con thì phục vụ trực tiếp cho viện chính, cùng nhau tham gia điều hành chùa; cho nên Cửu Viễn Tự là một phức hợp thể của viện chính và các viện con. Vị trú trì đời thứ 31 của chùa là Nhật Thoát (日脫) cũng như trú trì đời thứ 32 là Nhật Tỉnh (日省) đều được cho phép đắp Tử Y. Vào năm thứ 3 (1706) niên hiệu Bảo Vĩnh (寶永), dưới thời vị trú trì thứ 33 là Nhật Hanh (日亨), từ đó về sau lịch đại chư vị trú trì đều được phép mang Tử Y. Cũng vào thời này, nhờ sự cúng dường của các nhà Đại Danh cũng như hàng cung thất của họ, nhiều kiến trúc đường xá của chùa được tạo dựng; nhưng chùa lại bị mấy lần hỏa tai vào những năm thứ 4 (1821), thứ 7 (1824), thứ 12 (1829) niên hiệu Văn Chính (文政). Trãi qua các niên hiệu Thiên Bảo (天保), Gia Vĩnh (嘉永), già lam lại được phục hưng; song đến năm thứ 8 (1875) thời Minh Trị (明治), chùa lần nữa bị hỏa tai và hơn phần nữa già lam bị cháy rụi. Sau mấy lần trùng tu, hiện tại chùa có một quần thể kiến trúc rộng lớn với rất nhiều ngôi đường xá như Tổng Môn (總門), Tam Môn (三門), Bổn Đường (本堂, Chánh Điện) tôn trí bức Mạn Trà La do chính tay Nhật Liên vẽ; Ngũ Trùng Tháp (五重塔, tháp 5 tầng); Thê Thần Các Tổ Sư Đường (棲神閣祖師堂) an trí tượng Nhật Liên; Thích Ca Điện (釋迦殿); Ngự Chơn Cốt Đường (御眞骨堂) an trí hài cốt của Nhật Liên; Khai Cơ Đường (開基堂) tôn thờ Ba Mộc Tỉnh Thật Trường, v.v.
(頂妙寺, Chōmyō-ji): ngôi chùa liên quan đến Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại Ninōmondōri (仁王門通), Sakyō-ku (左京區), Kyoto-shi (京都市); hiệu là Văn Pháp Sơn (聞法山). Vào năm 1473 (Văn Minh [文明] 5), Tiểu Phụ Thắng Ích (小輔勝益) cúng dường cho Diệu Quốc Viện Nhật Chúc Thượng Nhân (妙國院日祝上人) của Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) thuộc vùng Trung Sơn (中山, Nakayama); Nhật Chúc mới sáng lập ra chùa này và trở thành Tổ khai sơn. Từ đó, Viện Hiệu của Thắng Ích được lấy làm hiệu của chùa luôn. Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Cao (足利義高) quy y theo Thượng Nhân, và biến nơi đây thành đạo tràng cầu nguyện cho dòng họ ông. Chùa đã bao lần được dời đi dời lại cho đến vị trí hiện tại, và cũng biết lần bị đồ chúng Tăng binh của Tỷ Duệ Sơn đốt cháy tan tành. Tuy nhiên, vào năm 1552 (Thiên Văn [天文] 21), vị Tổ đời thứ 3 của chùa là Phật Tâm Viện Nhật Quang Thượng Nhân (佛心院日珖上人) lại được Tỷ Duệ Sơn mời lên thuyết giảng về ba bộ Kinh Pháp Hoa. Khi ấy, Tọa Chủ Duệ Sơn là Nhị Phẩm Thân Vương (二品親王) vô cùng cảm kích đức độ cao dày của Thượng Nhân, bèn ban tặng Tử Y cho. Đây là một trường hợp hiếm có kể từ thời Truyền Giáo Đại Sư trở đi. Trong khuôn viên chùa có một kiến trúc quan trọng như Chánh Điện, Lâu Môn, Tổ Sư Đường, Đại Hắc Thiên Đường, v.v.
(妙顯寺, Myōken-ji): ngôi chùa nổi tiếng của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại Kamigyō-ku (上京區), Kyotō-shi (京都市), Kyotō-fu (京都府); hiệu là Cụ Túc Sơn Long Hoa Viện (具足山龍華院). Chùa do Nhật Tượng (日像) khai sáng vào năm 1321 (Nguyên Hưởng [元亨] nguyên niên); và đối với Nhật Liên Tông thì đây được xem như là đạo tràng đầu tiên. Vào năm 1334 (Kiến Võ [建武] nguyên niên), chùa được Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō) ban cho sắc hiệu Pháp Hoa Tông và trở thành ngôi chùa sắc nguyện của nhà vua. Ba năm sau, Tướng Quân Túc Lợi Trực Nghĩa (足利直義, Ashikaga Tadayoshi) cũng dùng nơi đây làm nơi cầu đảo. Hơn nữa, vào năm 1357 (Diên Văn [延文] 2), Hậu Quang Nghiêm Thiên Hoàng (後光嚴天皇, Gokōgon Tennō) lại ban sắc chỉ cho chùa đọc tụng 30.000.000 bộ Kinh Pháp Hoa ở đây, rồi năm sau thì ban cho hiệu là Tứ Hải Xướng Đạo (四海唱導). Sau đó, chùa đã từng tổ chức luận tranh về giáo nghĩa với các chùa như Diệu Giác Tự (妙覺寺); rồi vì do lưu lại tên Pháp Hoa Tông mà làm cho Tỷ Duệ Sơn nổi giận, nên những ngôi đường tháp của chùa bị phá hoại tan tành. Thể theo mệnh lệnh của Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), chùa được dời về vị trí hiện tại vào năm 1583 (Thiên Chánh [天正] 11), và trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (元和, 1615-1624), chùa đã chỉnh đốn lại toàn bộ đường tháp trang nghiêm. Tuy nhiên, do trận hỏa hoạn vào năm 1788 (thiên minh [天明] 8), chùa lại bị thiêu rụi hoàn toàn. Hiện tại chùa còn lưu giữ một số kiến trúc như Chánh Điện, Tổ Sư Đường, Chơn Cốt Đường, Quỷ Tử Mẫu Thần Đường, Khách Điện, Thư Viện, Nhà Kho, Tàng Kinh Các, v.v. Nơi Chơn Cốt Đường có tôn trí ba hài cốt của Nhật Liên, Nhật Lãng và Nhật Tượng. Trong khuôn viên chùa hiện có mộ của Tiền Điền Lợi Quang (前田利光, Maeda Toshimitsu), Vĩ Hình Quang Lâm (尾形光琳, Ogata Kōrin), v.v., và đặc biệt là 9 ngôi viện, gồm Cửu Bổn Viện (久本院), Thập Thừa Viện (十乘院), Tuyền Diệu Viện (泉妙院), Pháp Âm Viện (法音院), Ân Mạng Viện (恩命院), Thiện Hành Viện (善行院), Bổn Diệu Viện (本妙院), Thật Thành Viện (實成院), Giáo Pháp Viện (敎法院).
(妙法華寺, Myōhokke-ji): ngôi chùa của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại số 1 Tamazawa (玉澤), Mishima-shi (三島市), Shizuoka-ken (靜岡縣), hiệu là Kinh Vương Sơn (經王山), người đời thường gọi là Ngọc Trạch Tự (玉澤寺). Chùa này do Nhật Chiêu (日昭), người đứng đầu trong 6 Lão Tăng đệ tử của Nhật Liên, khai sáng vào năm 1284 (Hoằng An [弘安] 7) nơi vùng đất Ngọc Trạch (玉澤, Tamazawa), Liêm Thương (鎌倉, Kamakura). Đến năm 1538 (Thiên Văn [天文] 7), trong cuộc đấu tranh giữa Bắc Điều Thị Khang (北條氏康) với Thượng Sam Hiến Thị (上杉憲氏), do vì vị Tổ đời thứ 12 của chùa là Nhật Hoằng (日弘), vốn xuất thân dòng họ Thượng Sam, nên chùa bị đốt cháy tan tành. Từ đó về sau, chùa suy tàn mãi trong vòng 50 năm trường; còn Nhật Hoằng thì chạy đến lánh nạn ở Diệu Pháp Tự (妙法寺) vùng Việt Hậu (越後, Echigo). Sau đó, chùa được tạm thời xây dựng lại ở vùng Y Đậu (伊豆, Izu), rồi đến thời vị Tổ đời thứ 15 của chùa là Nhật Sản (日産), vào năm 1621 (Nguyên Hòa [元和] 7), chùa được dời về vị trí hiện tại và tái kiến như xưa. Chùa là nơi sản sinh ra nhiều học Tăng qua các thời đại, nên thế gian vẫn thường gọi nơi đây là Ngọc Trạch Đạo Tràng (玉澤道塲), Ngọc Trạch Học Phái (玉澤學派). Tượng thờ chính của chùa là bức đồ hình Mạn Trà La của Nhật Liên. Bảo vật của chùa có bức đồ hình Mạn Trà La vẽ cảnh thuyết pháp của vị Tông Tổ Nhật Liên, bản Truyền Pháp Đại Bổn Tôn Chú Pháp Hoa Kinh Soạn Thời Sao (傳法大本尊註法華經撰時抄) do chính tay Nhật Liên viết, v.v.
(妙國寺, Myōkoku-ji): ngôi chùa của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại số 1-4 Zaimokuchōhigashi (材木町東), Sakai-ku (堺區), Sakai-shi (堺市), Ōsaka-fu (大阪府); hiệu là Quảng Phổ Sơn (廣普山), người đời thường gọi là Tô Thiết Tự (蘇鐵寺). Phát xuất từ việc Trưởng Quan Kami của vùng Tam Quốc (三國, Mikuni), Nhiếp Hà Tuyền (攝河泉) là Tam Hảo Chi Khang (三好之康, tức Tam Hảo Nghĩa Hiền [三好義賢, Miyoshi Yoshikata]) bị chiến tử vào năm 1562 (Vĩnh Lộc [永祿] 5), em ông là Nghĩa Trường (義長) bèn phát tâm cúng dường toàn bộ biệt trang của Chi Khang để xây chùa với mục đích hồi hướng công đức cầu nguyện cho anh ông được siêu độ. Nhân đó, một thương gia giàu có trong vùng là Du Ốc Thường Ngôn (油屋常言) cúng dường xây dựng các ngôi đường xá; và Phật Tâm Viện Nhật Quang (佛心院日珖), con trai của Thường Ngôn, trở thành Tổ khai sơn của chùa này. Đến năm 1594 (Văn Lộc [文祿] 3), nhân khi Nhật Quang kế thừa ngôi vị trú trì của Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) thuộc vùng Trung Sơn (中山, Nakayama), Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), ngôi chùa này được liệt ngang hàng với Đảnh Diệu Tự (頂妙寺) và Bổn Pháp Tự (本法寺) ở kinh đô Kyoto. Vâng mệnh của Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu), vị trú trì đời thứ 2 của chùa là Nhật Thống (日統) cùng với Nhật Thiệu (日紹) đã luận tranh Tông nghĩa với Nhật Áo (日奥) ở Thành Đại Phản (大阪城), và luận thắng chủ trương Không Nhận Không Cho của Nhật Áo. Chùa hiện còn một số kiến trúc chính như Chánh Điện, Tháp Ba Tầng, Phương Trượng, Khách Điện, Nhà Kho, v.v. Trong khuôn viên chùa còn có cây Tô Thiết (蘇鐵) rất lớn, tương truyền được đem từ vương quốc Cao Lệ (Triều Tiên) sang trồng. Người ta bảo rằng Tướng Quân Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga) có lần đã đem cây này trồng trong Thành An Thổ (安土城, Azuchi-jō), nhưng đêm về lại nghe tiếng yêu quái vang rền, nên ông đem trả cây lại cho chùa.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập