Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Chỉ có hai thời điểm mà ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Đó là lúc ta sinh ra đời và lúc ta nhắm mắt xuôi tay.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Hưng »»
(本門寺, Honmon-ji): một trong những ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Chánh Tông, hiện tọa lạc tại số 4965 Kitayama (北山), Fujinomiya-shi (富士宮市), Shizuoka-ken (靜岡縣); còn gọi là Bắc Sơn Bổn Môn Tự (北山本門寺), Trọng Tu Bổn Môn Tự (重須本門寺); hiệu núi là Phú Sĩ Sơn (富士山). Đây là ngôi chùa do Nhật Hưng (日興), một trong 6 đệ tử chân truyền của Nhật Liên, sáng lập vào năm 1298. Đầu tiên Nhật Hưng giữ chức Biệt Đương của Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji) ở Thân Diên (身延, Minobu); sau theo di mệnh của Nhật Liên, ông đến sáng lập Đại Thạch Tự (大石寺, Taiseki-ji), rồi 2 năm sau thì chuyển đến vùng Trọng Tu (重須, Omosu). Tại đây, Nguyên Năng Trung (源能忠) quy y theo ông, dựng lên một ngôi chùa tại tư dinh của ông; đó là gốc tích của Bổn Môn Tự. Năm 1899, chùa này tách riêng hẳn với Môn Phái Hưng (興門派) và tự xưng là Bổn Môn Tông (本門宗). Bảo vật của chùa có bộ Trinh Quán Chính Yếu (貞觀政要) 2 quyển do tự tay Nhật Liên viết, bản Kinh Pháp Hoa được viết dưới thời Bình An, cả hai đều thuộc loại di sản văn hóa trọng yếu của quốc gia. Ngoài ra, còn khá nhiều bảo vật khác nữa.
(久遠寺, Kuon-ji): ngôi chùa Tổng Bản Sơn trung tâm của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại số 3567 Minobu (身延), Minobu-chō (身延町), Minamikoma-gun (南巨摩郡), Yamanashi-ken (山梨縣); hiệu núi là Thân Diên Sơn (身延山), tên gọi chính thức là Thân Diên Sơn Diệu Pháp Hoa Viện Cửu Viễn Tự (身延山妙法華院久遠寺), tượng thờ chính là Thập Giới Mạn Trà La (十界曼荼羅). Đây là di tích quan trọng đánh dấu Nhật Liên (日蓮, Nichiren) đã từng lưu trú kể từ năm thứ 11 (1274) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), và cũng là nơi được biến thành tự viện với ngôi Miếu Đường làm trung tâm sau khi Nhật Liên qua đời vào năm thứ 5 (1282) niên hiệu Hoằng An (弘安). Tên chùa được thấy đầu tiên qua thư tịch ghi năm 1283 là Thân Diên Sơn Cửu Viễn Tự Phiên Trương (身延山久遠寺番帳). Về ngôi Miếu Đường, 6 người cao đệ chân truyền của Nhật Liên cùng với 12 người khác, tổng cọng là 18 người, thay phiên nhau mỗi người 1 tháng canh giữ; nhưng không bao lâu sau thì hủy bỏ quy định này. Vào khoảng năm 1284, 1285, Nhật Hưng (日興) trở thành người thường trú ở đây, và trong khoảng thời gian này có Nhật Hướng (日向) cũng cùng chung sức duy trì và phát triển Thánh địa này. Tuy nhiên, Nhật Hưng lại bất hòa với lãnh chúa Ba Mộc Tỉnh Thật Trường (波木井實長), tín đồ đắc lực từ thời Nhật Liên; cho nên vào năm đầu (1288) niên hiệu Chánh Ứng (正應), ông lui về vùng Phú Sĩ (富士, Fuji), Tuấn Hà (駿河, Suruga). Từ đó trở về sau, Nhật Hướng và môn lưu của ông kế thừa chùa này. Hệ thống của ông được gọi là Dòng Phái Nhật Hướng (日向門流), Dòng Phái Thân Diên (身延門流). Từ đó, Cửu Viễn Tự mở rộng giáo tuyến, và đôi khi chùa mang đậm sắc thái là ngôi tự viện của chính dòng họ Ba Mộc Tỉnh. Trong khoảng thời gian 10 năm từ năm đầu (1466) niên hiệu Văn Chánh (文正) cho đến năm thứ 7 (1475) niên hiệu Văn Minh (文明), Nhật Triêu (日朝), vị Quán Thủ đời thứ 11 của chùa, đã di chuyển ngôi đường vũ cũng như các kiến trúc khác ở Tây Cốc (西谷) đến vị trí hiện tại; đồng thời ông cũng quy định ra những hành sự trong năm, đặt ra cơ quan điều hành các lễ hội hàng tháng và mở rộng giáo hóa. Cửu Viễn Tự thời Trung Đại chủ yếu lấy vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai), Tuấn Hà (駿河, Suruga) làm cứ điểm hoạt động. Tướng Quân Võ Điền Tình Tín (武田晴信, Takeda Harunobu, tức Tín Huyền [信玄, Shingen]) của Giáp Phỉ tiến hành cầu nguyện ở Cửu Viễn Tự cho vận thế của dòng họ Võ Điền (武田, Takeda) được dài lâu; đồng thời bảo chứng cho quyền trú trì của chùa. Bên cạnh đó, trung thần của ông là Huyệt Sơn Tín Quân (穴山信君) cũng dốc toàn lực bảo trợ cho chùa. Sau khi dòng họ Võ Điền qua đời, Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) lên thay thế nắm chính quyền vùng Giáp Phỉ, cũng tiếp tục bảo hộ cho chùa, rồi vào năm thứ 16 niên hiệu (1588) niên hiệu Thiên Chánh (天正), ông quy định miễn trừ các lao dịch cho chùa và bảo chứng quyền trú trì ở đây. Về sau, qua các đời chùa được ban cho như quy định cũ. Đến đầu thời Cận Đại, từ vụ đàn áp Phái Không Nhận Không Cho vốn phát sinh qua cuộc tựu nhiệm trú trì Quán Thủ chùa cho Nhật Càn (日乾), Nhật Viễn (日遠) của Bổn Mãn Tự (本滿寺) ở Tokyo, nơi đây trở thành chủ tọa cho giáo đoàn Nhật Liên trên toàn quốc. Trong bản Pháp Hoa Tông Chư Tự Mục Lục (法華宗諸寺目錄) được hình thành năm thứ 10 (1633) niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永), những chùa con trực thuộc Cửu Viễn Tự có 412 cơ sở; và chùa còn gián tiếp quản lý 1.519 ngôi chùa con khác nữa. Mặt khác, theo sự tăng dần số lượng người đến tham bái từ cuối thời Trung Đại trở đi, những ngôi viện con xuất hiện. Trú trì cũng như tăng chúng của các viện con thì phục vụ trực tiếp cho viện chính, cùng nhau tham gia điều hành chùa; cho nên Cửu Viễn Tự là một phức hợp thể của viện chính và các viện con. Vị trú trì đời thứ 31 của chùa là Nhật Thoát (日脫) cũng như trú trì đời thứ 32 là Nhật Tỉnh (日省) đều được cho phép đắp Tử Y. Vào năm thứ 3 (1706) niên hiệu Bảo Vĩnh (寶永), dưới thời vị trú trì thứ 33 là Nhật Hanh (日亨), từ đó về sau lịch đại chư vị trú trì đều được phép mang Tử Y. Cũng vào thời này, nhờ sự cúng dường của các nhà Đại Danh cũng như hàng cung thất của họ, nhiều kiến trúc đường xá của chùa được tạo dựng; nhưng chùa lại bị mấy lần hỏa tai vào những năm thứ 4 (1821), thứ 7 (1824), thứ 12 (1829) niên hiệu Văn Chính (文政). Trãi qua các niên hiệu Thiên Bảo (天保), Gia Vĩnh (嘉永), già lam lại được phục hưng; song đến năm thứ 8 (1875) thời Minh Trị (明治), chùa lần nữa bị hỏa tai và hơn phần nữa già lam bị cháy rụi. Sau mấy lần trùng tu, hiện tại chùa có một quần thể kiến trúc rộng lớn với rất nhiều ngôi đường xá như Tổng Môn (總門), Tam Môn (三門), Bổn Đường (本堂, Chánh Điện) tôn trí bức Mạn Trà La do chính tay Nhật Liên vẽ; Ngũ Trùng Tháp (五重塔, tháp 5 tầng); Thê Thần Các Tổ Sư Đường (棲神閣祖師堂) an trí tượng Nhật Liên; Thích Ca Điện (釋迦殿); Ngự Chơn Cốt Đường (御眞骨堂) an trí hài cốt của Nhật Liên; Khai Cơ Đường (開基堂) tôn thờ Ba Mộc Tỉnh Thật Trường, v.v.
(大石寺, Taiseki-ji): ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Chánh Tông, hiện tọa lạc tại Fujinomiya-shi (富士宮市), Shizuoka-ken (靜岡縣); hiệu núi là Đa Bảo Phú Sĩ Đại Nhật Liên Hoa Sơn (多寶富士大日蓮華山), gọi tắt là Đại Nhật Liên Hoa Sơn (大日蓮華山). Đây là ngôi chùa do Nhật Hưng (日興, Nikkō), một trong 6 đệ tử chân truyền của Nhật Liên, sáng lập. Sau này, khi thầy qua đời được 7 năm, vào năm 1289, Bạch Liên A Xà Lê Nhật Hưng (白蓮阿闍梨日興) được vị Hương Chủ của vùng Thượng Dã (上野, Ueno) là Nam Điều Thời Quang (南條時光, Nanjō Tokimitsu) cung thỉnh đến để xây dựng Trì Phật Đường (持佛堂) ở vùng đất này; và nguyên lai nơi đây có tên là Đại Thạch (大石, Ōishi), nên tên chùa cũng được đặt theo địa danh. Có nhiều thuyết khác nhau về lý do vì sao Nhật Hưng tách ly vùng Thân Diên (身延, Minobu), trong đó có thuyết cho rằng vì ông bất hòa với người thí chủ Ba Mộc Tỉnh Thật Trường (波木井實長). Sau khi sống nơi đây được vài năm, Nhật Hưng khai sáng tiếp Bổn Môn Tự (本門寺, Honmon-ji) ở vùng Trọng Tu (重須, Omosu), và sống mãi nơi đây cho đến khi qua đời ở độ tuổi 88. Hiện ở Trọng Tu có ngôi mộ của ông. Chính tại ngôi Đại Thạch Tự này, ông đã thực hiện trọn vẹn di huấn của ân sư trong việc thành lập Bổn Môn Giới Đàn (本門戒壇) vốn chỉ truyền thọ cho từng người một mà thôi. Nơi ngôi già lam này, ông đã từng quy y cho phu nhân của Đức Xuyên Gia Tuyên (德川家宣, Tokugawa Ienobu) là Thiên Anh Viện (天英院). Chính bà đã tập trung công sức xây dựng già lam, tạo thành cảnh sắc rất tráng lệ, tuyệt mỹ. Vào năm 1912, Phái Phú Sĩ ngày xưa được đổi tên thành Nhật Liên Chánh Tông. Quần thể kiến trúc chính của chùa hiện có Nhị Thiên Môn, hai lầu chuông trống, Ngự Đường, Ngũ Trùng Tháp, v.v. Tuy nhiên, sau thời chiến tranh thì nơi đây trở thành ngôi chùa trung tâm của Sáng Giá Học Hội (創価學會, Sōkagakkai), rất nhiều đoàn thể thường xuyên đến tham bái. Từ năm 1955 trở đi, nơi phía tây Ngự Ảnh Đường có dựng lên Phụng An Đường (奉安堂) để an trí bức đồ hình Mạn Trà La do thủ bút của Nhật Liên vẽ nên; phía trước đó có Đại Khách Điện, Đại Hóa Thành 3 tầng, Đại Giảng Đường, v.v., toàn là những kiến trúc mang tính hiện đại tân thời. chùa hiện còn lưu trữ nhiều bảo vật như Tiêu Tức Văn của Nhật Liên.
(立正安國論, Risshōankokuron): 1 quyển, do Nhật Liên (日蓮, Nichiren) soạn, văn bản trình cho Bắc Điều Thời Lại (北條時頼, Hōjō Tokiyori) vào năm 1260; ngoài ra còn có bản Thiên Thai Sa Môn Nhật Liên Khám Chi (天台沙門日蓮勘之) của Diệu Pháp Hoa Tự (妙法華寺) do đệ tử của Nhật Liên là Nhật Hưng (日興) sao chép lại; và nguyên bản do chính tay Nhật Liên viết hiện còn bảo tồn tại Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) ở Trung Sơn (中山, Nakayama). Trước đây có nguyên bản của Nhật Liên gồm 12 tờ ở Cửu Viễn Tự (久遠寺) vùng Thân Diên (身延, Minobu); và có một số bản khác do các đệ tử chân truyền của ông sao chép. Đây là tuyển tập thuộc một trong 5 bộ thư mục lớn của Nhật Liên, gồm Khai Mục Sao (開目抄), Quán Tâm Bổn Tôn Sao (觀心本尊抄), Soạn Thời Sao (撰時抄) và Báo Ân Sao (報恩抄). Từ năm 1257 trở đi, những thiên tai như dộng đất, mưa gió bão bùng, đói rét, dịch bệnh, v.v., xảy ra liên miên không ngớt; cho nên người chết, người đói, người bệnh xuất hiện rất nhiều. Đương thời, Nhật Liên mục kích được những thảm trạng này, đứng từ lập trường của nhà tôn giáo, ông soạn thuật ra luận thư này để đề xuất lên nhà cầm quyền lúc bấy giờ thông qua một người tín đồ của ông, rồi sau đó ông mới đến yết kiến Thời Lại. Thư tịch này đối xứng với bản Thủ Hộ Quốc Gia Luận (守護國家論) do ông viết vào năm trước. An Quốc Luận ở đây có nghĩa rằng do vì xem thường chánh pháp (giáo lý của Kinh Pháp Hoa) mà quy y theo tà pháp (Tịnh Độ Giáo của Nguyên Không), nên chư vị thiện thần thủ hộ quốc gia mới bỏ đi; thay vào đó, ác thần hoành hành làm cho tai ách xảy ra liên tục, không ngớt. Ông đã dẫn dụ lời văn trong các kinh như Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經), Dược Sư Kinh (藥師經), v.v.; rồi khẳng định rằng nếu như cứ để tình trạng như thế này thì thế nào cũng bị nội loạn bên trong và xâm lược từ bên ngoài vào; cho nên cần phải chấm dứt ngay sự viện trợ về kinh tế cho kẻ báng pháp như Nguyên Không, để mong cầu mọi người quay trở về với chánh pháp; và nếu như chánh pháp được thiết lập thì quốc gia được yên ổn, nhân dân được thái bình. Đó chính là ý nghĩa của an quốc. Tuy nhiên, do vì chủ trương phản bác Tịnh Độ Giáo, ông đã chuốc lấy sự phản kích và tấn công dữ dội của giáo đồ Tịnh Độ. Chính quyền Mạc Phủ thì xử tội lưu đày ông đến vùng Y Đậu (伊豆, Izu). Về vấn đề tiên tri cho rằng sẽ có nội loạn và xâm lược như trong tác phẩm này có đề cập đến; quả nhiên sau đó quân Mông Cổ tiến vào xâm lược Nhật Bản và vụ loạn của Bắc Điều Thời Phụ (北條時輔, Hōjō Tokisuke) xảy ra đã trở thành hiện thực.
(南條時光, Nanjō Tokimitsu, 1259-1332): vị Võ Tướng sống vào cuối thời Liêm Thương, tín đồ đắc lực của Nhật Liên, là thủ lãnh vùng Thượng Dã (上野, Ueno) thuộc tiểu quốc Tuấn Hà (駿河, Suruga); ông được gọi là Thượng Dã Điện (上野殿, Ngài Thượng Dã). Vào năm 1278, khi xảy ra vụ Pháp Nạn Nhiệt Nguyên (熱原の法難, Atsuhara-no-Hōnan), dưới sự chỉ đạo của Nhật Hưng (日興, Nikkō), ông đề kháng chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền Mạc Phủ, rồi tận lực bôn tẩu để bảo vệ cho tín đồ. Đối với tâm tín thành của Thời Quang như vậy, Nhật Liên tán thán và ban cho hiệu là Thượng Dã Hiền Nhân Điện (上野賢人殿). Sau khi thầy qua đời, Nhật Hưng không hợp ý với Ba Mộc Tỉnh Thật Trường (波木井實長), nên rời khỏi Thân Diên Sơn (身延山). Lúc ấy, Thời Quang cung đón Nhật Hưng về lãnh địa của ông, rồi đến năm thứ 3 (1290) niên hiệu Chánh Ứng (正應) thì dâng cúng một phần đất đai của mình và trở thành người tín đồ khai sáng Bổn Môn Tự (本門寺). Vào năm đầu (1323) niên hiệu Chánh Trung (正中), để cúng dường hồi hướng cầu nguyện cho người vợ quá cố là Diệu Liên (妙蓮), ông biến tư thất của Hạ Điều Quật Chi Nội (下條堀之內) thành Diệu Liên Tự (妙蓮寺). Ông qua đời ở tuổi 74 và có giới danh là Đại Hành Tôn Linh (大行尊靈).
(日目, Nichimoku, 1260-1333): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Liêm Thương, vị Tổ đời thứ 3 của Đại Thạch Tự (大石寺), húy là Nhật Mục (日目), thông xưng là Tân Điền Hương A Xà Lê (新田郷阿闍梨), Hương Công (郷公); hiệu là Liên Tạng Phòng (蓮藏房); xuất thân vùng Y Đậu (伊豆, Izu); con trai thứ 5 của Tân Điền Trùng Cương (新田重綱). Lúc lên 15 tuổi, ông đến làm đệ tử của Nhật Hưng (日興, Nikkō) và theo hầu hạ Nhật Liên ở Thân Diên Sơn (身延山). Sau khi Nhật Liên qua đời, ông đến bố giáo ở vùng Lục Áo (陸奥, Michinoku) và sáng lập ra các chùa như Bổn Nguyện Tự (本願寺), Thượng Hành Tự (上行寺), v.v. Sau ông đi theo Nhật Hưng chuyển đến vùng Phú Sĩ (富士, Fuji), Tuấn Hà (駿河, Suruga), kế thừa Đại Thạch Tự và hoạt động tích cực trong việc truyền bá giáo lý Tông môn.
(日持, Nichiji, 1250-?): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa và cuối thời Liêm Thương, một trong Lục Lão Tăng (六老僧); húy là Nhật Trì (日持), tên lúc nhỏ là Tùng Thiên Đại (松千代), thông xưng là Giáp Phỉ Công (甲斐公), Liên Hoa A Xà Lê (蓮華阿闍梨); hiệu là Bổn Ứng Viện (本應院); xuất thân vùng Tùng Dã (松野), Tuấn Hà (駿河, Suruga, thuộc Shizuoka-ken [靜岡縣]); con trai thứ 2 của Tùng Dã Lục Lang Tả Vệ Môn (松野六郎左衛門). Trước kia ông có tu học về giáo lý Thiên Thai ở Thật Tướng Tự (實相寺) vùng Tuấn Hà; sau đó, nghe theo lời khuyên của Nhật Hưng (日興), ông đến làm đệ tử của Nhật Liên, và thường theo hầu hạ thầy ở Tá Độ (佐渡, Sado) cũng như Thân Diên Sơn (身延山). Về sau, ông khai sáng ra Liên Vĩnh Tự (蓮永寺) ở vùng Tùng Dã, Tuấn Hà. Đến năm 1288, ông tạo lập tôn tượng của Nhật Liên trong dịp húy kỵ lần thứ 7, và đem an trí tại Bổn Môn Tự (本門寺) ở vùng Trì Thượng (池上, Ikegami), Võ Tàng (武藏, Musashi). Vào năm 1295, nhân dịp Nguyên Đán, thể theo nguyện ước xưa kia của Nhật Liên, ông lên đường truyền đạo ở nước ngoài. Tương truyền ông đã vượt qua vùng Lục Áo (陸奥, Michinoku), Hà Di (蝦夷, Emishi, Ebisu, Ezo), rồi đến Đại Lục Trung Hoa.
(法華宗, Hokkeshū) tức Nhật Liên Tông (日蓮宗, Nichirenshū): theo pháp chế hiện tại thì đây là đoàn thể tôn giáo lấy Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji) ở vùng Thân Diên (身延, Minobu) làm Đại Bản Sơn; nhưng nếu xét về mặt lịch sử thì đây là tên gọi chung của tập đoàn tôn giáo vốn kế thừa và thực hiện giáo lý của Nhật Liên dưới thời đại Liêm Thương. Với ý nghĩa đó, Pháp Hoa Tông là tên gọi do các tông phái khác gọi về Nhật Liên Tông, hay cũng là tiếng tự xưng, và phần nhiều cách gọi này được dùng phổ biến hơn. Năm 1282, Nhật Liên (日蓮, Nichiren) chỉ danh 6 người đệ tử chân truyền của ông là Nhật Chiêu (日昭, Nisshō, 1221-1323), Nhật Lãng (日朗, Nichirō, 1245-1320), Nhật Hưng (日興, Nikkō, 1246-1333), Nhật Hướng (日向, Nikō, 1253-1314), Nhật Đảnh (日頂, Nicchō, 1252-1317 hay 1328?) và Nhật Trì (日持, Nichiji, 1250-?), với tên gọi là Lục Lão Tăng (六老僧). Sau đó, các môn phái được hình thành Dòng Phái Nhật Chiêu (日昭門流, tức Dòng Phái Banh [浜門流]), Dòng Phái Nhật Lãng (日朗門流, tức Dòng Phái Tỷ Xí Cốc [比企谷門流]), Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Phú Sĩ [富士門流]), Dòng Phái Nhật Hướng (日向門流, Dòng Phái Thân Diên [身延門流]). Sau khi Nhật Liên qua đời, xuất hiện thêm Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Trung Sơn [中山門流]). Thật thể của Nhật Liên Tông thời Trung Đại chính là những môn phái vừa nêu trên. Các môn phái mở rộng vùng giáo tuyến của mình ở vùng Đông Quốc, rồi sau đó dần dần tiến về phía kinh đô Kyoto làm cứ điểm hoạt động giáo hóa cho giáo đoàn. Những nhân vật có công trong việc này là Nhật Tượng (日像, Nichizo, 1269-1342) thuộc Dòng Phái Tứ Điều (四條門流) vốn lấy Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji) làm trung tâm; Nhật Tĩnh (日靜, Nichijō, 1298-1369) của Dòng Phái Lục Điều (六條門流), lấy Bổn Quốc Tự (本國寺 hay 本圀寺, Honkoku-ji) làm trung tâm. Kế thừa dòng phái này có Nhật Tôn (日尊, Nisson, ?-1603) của Dòng Phái Phú Sĩ; rồi Nhật Thân (日親, Nisshin, 1407-1488) và Nhật Chúc (日祝, Nisshū, 1437-1513) của Dòng Phái Trung Sơn. Họ không những tiếp cận hàng công gia khanh tướng, mà còn lấy tầng lớp thương gia, công nhân và nông dân làm môn đồ; nhờ vậy đã tạo dựng được rất nhiều tự viện khắp nơi. Bên cạnh đó, những cuộc luận tranh về lập trường Tích Môn hay Bổn Môn của Kinh Pháp Hoa, cũng như điểm hay dở trong kinh bắt đầu được triển khai. Về phía Dòng Phái Lục Điều, Nhật Trận (日陣, Nichijin, 1339-1419) sáng lập ra Bổn Thiền Tự (本禪寺, Honzen-ji), rồi hình thành nên Dòng Phái Nhật Trận (日陣門流, tức Dòng Phái Bổn Thành Tự [本成寺, Honjō-ji]). Còn về phía Dòng Phái Tứ Điều, hai chùa Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji) và Diệu Liên Tự (妙蓮寺, Myōren-ji) chia rẽ nhau; Nhật Long (日隆, Nichiryū, 1385-1464) thì chủ trương tính hay dở của kinh, lấy Bổn Hưng Tự (本興寺) ở vùng Ni Khi (尼崎, Amazaki) và Bổn Năng Tự (本能寺, Honnō-ji) ở kinh đô Kyoto làm cứ điểm hoạt động truyền đạo, rồi hình thành nên Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Bát Phẩm [八品門流]). Trường hợp Nhật Thập (日什, Nichijū, 1314-1392) thì khai cơ Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji) và sáng lập ra Dòng Phái Nhật Thập (日什門流, tức Dòng Phái Diệu Mãn Tự [妙滿寺門流]). Nhật Thân sáng lập Bổn Pháp Tự (本法寺, Hompō-ji), còn Nhật Chúc thì có Đảnh Diệu Tự (頂妙寺, Chōmyō-ji), và hình thành Dòng Phái Quan Tây Trung Sơn (關西中山門流). Những ngôi già lam này mở rộng phạm vi hoạt dộng ở vùng Tây Quốc, còn ở kinh đô Kyoto thì có được 21 ngôi chùa. Dưới thời đại Chiến Quốc, Nhật Liên Tông đã cùng với với dân chúng trong thôn xóm hình thành đội tự vệ. Trước uy lực mạnh mẽ như thế này, các giáo đoàn của những tông phái khác tập trung lại với nhau tại Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji), hợp với các nhà Đại Danh có thế lực, dòng võ lực đàn áp Nhật Liên Tông. Từ đó, xảy ra vụ Loạn Thiên Văn Pháp Hoa (天文法華の亂) vào năm thứ 5 (1536) niên hiệu Thiên Văn (天文). Khi ấy, các chùa ở kinh đô đều phải lánh nạn đi nơi khác, và sau mới được phép cho trở về. Đến thời Trung Đại, chủ trương gọi là “Bất Thọ Bất Thí (不授不施, Không Nhận Không Cho)” của Nhật Liên Tông bị những nhà lãnh đạo chính quyền đương thời như Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga), Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) chống đối kịch liệt. Cho nên xảy ra các vụ pháp nạn lớn, nhiều tăng lữ cũng như tín đồ phải hy sinh trong mấy lần pháp nạn này. Đến thời Cận Đại, tổ chức giáo dục chư tăng được thiết lập. Về mặt xuất bản cũng rất thịnh hành, các bức di văn của Nhật Liên từ đó được lưu hành rộng rãi. Truyện Nhật Liên cũng được lưu bố khắp nơi, cho nên xuất hiện các tác phẩm như Nhật Liên Thánh Nhân Chú Họa Tán (日蓮上人註畫讚), Nhật Liên Đại Thánh Nhân Ngự Truyền Ký (日蓮大上人御傳記), v.v. Đặc sắc lớn của Nhật Liên Tông thời Cận Đại là triển khai cuộc vận động Phật Giáo tại gia, trong đó cuộc vận động Quốc Trụ Hội (國柱會) của Điền Trung Trí Học (田中智學) là đối ứng với sự hưng thịnh của quốc gia Minh Trị (明治, Meiji); rồi Bổn Đa Nhật Sanh (本多日生) tổ chức thành Thiên Tình Hội (天晴會), thâu nạp toàn tầng lớp trí thức và quân nhân. Trong khi đó, nhóm Sơn Điền Tam Lương (山田三良) thì thành lập Pháp Hoa Hội (法華會). Vào thời kỳ Đại Chánh (大正, Taishō), Chiêu Hòa (昭和, Shōwa), tôn giáo tân hưng thuộc hệ Nhật Liên Tông bắt đầu triển khai. Sau thời chiến, một số hội khác ra đời như Linh Hữu Hội (靈友會, Reiyūkai), Lập Chánh Giao Thành Hội (立正佼成會, Risshōkōseikai), Sáng Giá Học Hội (創価學会, Sōkagakkai), v.v., và Nhật Liên Tông trở thành tôn giáo đại chúng. Căn cứ vào tài liệu Nhật Bản Sử Từ Điển (日本史辭典, Nihonshijiten) của Triêu Vĩ Trực Hoằng (朝尾直弘, Asao Naohiro), Vũ Dã Tuấn Nhất (宇野俊一, Uno Shunichi), Điền Trung Trác (田中琢, Tanaka Migaku), nhà xuất bản Giác Xuyên Thư Điếm (角川書店, 1996) cho biết rằng hiện tại Nhật Liên Tông có một số dòng phái chính (theo thứ tự tên dòng phái, chùa trung tâm) như: (1) Môn Lưu Banh (浜門流), Diệu Pháp Tự (妙法寺, Myōhō-ji, Kamakura); (2) Môn Lưu Lãng (朗門流), Diệu Bổn Tự (妙本寺, Myōhon-ji, Kamakura), Bổn Môn Tự (本門寺, Honmon-ji, Musashi); (3) ; (4) Môn Lưu Tảo Nguyên (藻原門流), Diệu Quang Tự (妙光寺, Myōkō-ji, Kamifusa); (5) Môn Lưu Lục Điều (六條門流), Bổn Quốc Tự (本國寺, Honkoku-ji, Kyōto); (6) Môn Lưu Trung Sơn (中山門流), Bổn Diệu Pháp Hoa Kinh Tự (本妙法華經寺, Honmyōhokkekyō-ji, Shimofusa); (7) Môn Lưu Tứ Điều (四條門流), Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji, Kyoto); (8) Phái Bất Thọ Bất Thí (不受不施派), Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji, Bizen); (9) Môn Phái Bất Thọ Bất Thí Giảng (不受不施派講門派), Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji, Bizen); (10) Môn Lưu Phú Sĩ (富士門流), Đại Thạch Tự (大石寺, Daiseki-ji, Suruga); (11) Phái Bổn Thành Tự (本成寺派), Bổn Thành Tự (本成寺, Honjō-ji, Echigo); (12) Phái Diệu Mãn Tự (妙滿寺派), Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji, Kyoto); (13) Phái Bát Phẩm (八品派), Bổn Hưng Tự (本興寺, Honkō-ji, Settsu), Bổn Năng Tự (本能寺, Honnō-ji, Kyoto); (14) Phái Bổn Long Tự (本隆寺派), Bổn Long Tự (本隆寺, Honryū-ji, Kyoto).
(熱原の法難, Atsuhara-no-Hōnan): còn gọi là Pháp Nạn Gia Đảo (加島法難), vụ đàn áp môn đồ Nhật Liên Tông vào năm 1279 tại địa phương Nhiệt Nguyên (熱原, Atsuhara, thuộc Fuji-shi [富士市], Shizuoka-ken [靜岡縣]) thuộc tiểu quốc Tuấn Hà (駿河, Suruga). Trước đó, Nhật Hưng (日興), đệ tử của Nhật Liên, lấy Tứ Thập Cửu Viện (四十九院) ở Bồ Nguyên (蒲原, Kanbara) làm cứ điểm để truyền bá giáo lý của thầy ở khu vực Quận Phú Sĩ (富士郡, Fuji-gun), rồi thâu nhận nhóm Nhật Tú (日秀), Nhật Biện (日辨) ở Lang Tuyền Tự (瀧泉寺) làm đệ tử. Từ đó, nhóm này cũng truyền bá giáo lý của Nhật Liên đến tầng lớp nông dân ở địa phương này. Tuy nhiên, vì Hành Trí (行智), viện chủ của Lang Tuyền Tự, là người thuộc Tịnh Độ Tông, có quyền lực rất lớn trong vùng; nên ông có dự định muốn ức chế hoạt động của nhóm Nhật Tú và nông dân. Chuyện này đã sớm xảy ra, nông dân bị thương hại rất nhiều, rồi năm ấy nhân vụ cắt cỏ mà ông kiện lên chính quyền Liêm Thương về việc nhóm Nhật Tú phỉ báng các tông phái khác và cắt cỏ ruộng bừa bãi; cho nên 20 người nông dân bị bắt giam ở Liêm Thương. Lúc bấy giờ, Nhật Liên thay thế cho nhóm đệ tử Nhật Tú, viết bản trạng văn trần tình. Khi điều tra lấy khẩu cung, quan điều tra bắt mấy người nông dân niệm Phật; nhưng thay vào đó, họ lại xướng cao đề mục Kinh Pháp Hoa. Với kết quả đó, 3 người bị xử trảm, còn lại thì bị giam trong lồng tre. Nhân sự việc này, Nhật Liên kêu gọi toàn thể môn đồ của ông nhất tề đứng lên phản đối. Theo chỉ thị của Nhật Liên, nhóm Nhật Tú, Nhật Biện đến lánh nạn trong nhà tín đồ ở Hạ Tổng (下總, Shimōsa); và người bị hại chính là nông dân.
(要法寺, Yōbō-ji): một trong 7 ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại Shintakakura-dōri (新高倉通), Sakyō-ku (左京區), Kyoto-shi (京都市); hiệu là Đa Bảo Phú Sĩ Sơn (多寶富士山), thông xưng là Chùa Tùng. Người khai cơ chùa là Nhật Tôn Thượng Nhân (日尊上人), pháp đệ của Nhật Hưng (日興). Năm kiến lập chùa là 1308 (Diên Khánh [延慶] nguyên niên) hay 1312 (Chánh Hòa [正和] nguyên niên), được gọi là Thượng Hành Viện (上行院). Trong khoảng niên hiệu Trinh Hòa (貞和, 1345-1350), đệ tử của Nhật Tôn là Nhật Đại (日大) mới tách riêng khỏi chùa này và sáng lập ra Trú Bổn Tự (住本寺); trong vụ Loạn Pháp Hoa Thiên Văn thì chùa bị đốt cháy tan tành, nên ông mới hợp chung cả hai chùa lại, lấy tên là Yếu Pháp Tự. Trong khoảng niên hiệu Thiên Chánh (天正, 1573-1592), thể theo mệnh lệnh của Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), chùa được chuyển về phía Bắc của Kinh Cực Nhị Điều (京極二條); rồi đến năm 1708 thì lại bị cháy lần nữa, và cuối cùng chùa được dời về vị trí hiện tại. Vào năm 1770 (Minh Hòa [明和] 7), ngôi Chánh Điện được xây dựng lại rất tráng lệ, rồi đến Khai Sơn Đường, Khách Điện, Thư Viện, Pháp Bảo Tàng, Kinh Tàng, Nhà Lầu Chuông, v.v. Trong khuôn viên chùa có khá nhiều cây tùng to lớn, đặc biệt là loại Ngọa Long Tùng (臥龍松) rất nổi tiếng.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập